• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Bình Định: Xây dựng 7 mô hình khuyến ngư về nuôi tôm

Nguồn tin: BĐ, 21/4/2005
Ngày cập nhật: 21/4/2005

Trung tâm Khuyến ngư và Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật thủy sản Bình Định vừa triển khai xây dựng 7 mô hình khuyến ngư về nuôi tôm trên địa bàn tỉnh. Trong đó, 5 mô hình quản lý cộng đồng vùng nuôi tôm ở các địa phương Quy Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Nhơn và 2 mô hình nuôi tôm thân thiện môi trường ở Quy Nhơn, Tuy Phước. Mỗi mô hình được Trung tâm hỗ trợ từ 5-7 triệu đồng để mua con giống, thức ăn và các chế phẩm sinh học phục vụ cho công tác nuôi tôm. Việc xây dựng các mô hình này là nhằm mục đích tìm ra các phương pháp nuôi tôm có thể hạn chế được dịch bệnh trong điều kiện môi trường ngày càng suy thoái như hiện nay.

Ngọc Thái

 


Ảm đạm thị trường xuất khẩu thủy sản

Nguồn tin: NLĐ, 19/04/2005
Ngày cập nhật: 21/4/2005

 


Năm 2005, Kim ngạch thủy sản sang Nhật có thể đạt 800 triệu USD

Nguồn tin: VNECONOMY, 21/04/2005
Ngày cập nhật: 21/4/2005

 


Vẹm xanh lên ngôi

Nguồn tin: BKH, 20/04/2005
Ngày cập nhật: 21/4/2005

Đã bao đời nay, đại bộ phận nhân dân xã Ninh Ích (Ninh Hòa) sống nhờ vào nguồn đánh bắt nhỏ ven đầm. Cuộc sống gặp nhiều khó khăn, sống ngày nào biết ngày đó. Mấy năm gần đây, nhờ chuyển sang nuôi vẹm xanh, đời sống bà con đã thay đổi, không những có “của ăn”, mà còn có “của để”.

Xã Ninh Ích có 1.867 hộ dân với 8.871 nhân khẩu, trong đó có hơn một nửa số dân sống bằng nghề biển. Trước đây, cuộc sống của bà con hết sức vất vả. Một số hộ có vốn đầu tư vào nuôi tôm sú nhưng chỉ được giai đoạn đầu. Mấy năm gần đây nuôi tôm đều bị thua lỗ. Người dân chỉ biết trông chờ vào đánh bắt nhỏ ven đầm, nhưng rồi tôm cá cũng ngày càng cạn kiệt.

Trước tình hình khó khăn trên, năm 2001 Trung tâm Khuyến ngư phối hợp với Viện Hải dương học Nha Trang xây dựng 2 nhóm mô hình nuôi vẹm xanh tại đầm Nha Phu trong dự án Bảo vệ cộng đồng nhằm phục hồi lại môi trường và nâng cao đời sống nhân dân quanh đầm. Nhóm 1 nuôi tại thôn Tân Thành, nhóm 2 nuôi tại thôn Ngọc Diêm, con giống được lấy từ đầm Lăng Cô (Thừa Thiên Huế). Sau một năm thả nuôi thử nghiệm, vẹm xanh phát triển tốt, sinh sản và phát tán giống rất nhanh. Từ đó đã nhân rộng cho ngư dân thôn Ngọc Diêm, Tân Thành, Tân Đảo nuôi. Năm đầu nuôi vẹm xanh, các chủ nuôi đều có lãi, trung bình một hộ từ 5 - 10 triệu đồng/năm. Thấy nuôi vẹm xanh có kết quả tốt, Sở Thủy sản, Trung tâm Khuyến ngư… đã giúp đỡ về chuyên môn, khuyến khích người dân chuyển đổi ngành nghề, tạo điều kiện để bà con vay vốn ưu đãi đầu tư vào nuôi vẹm. Số hộ sống bằng nghề nuôi vẹm xanh tăng dần hàng năm, nhất là sau khi nhân rộng mô hình đến hộ dân cư. Năm 2002, có 20 hộ dân nuôi với 3.000 cọc, sản lượng đạt 25 tấn, đến năm 2003, có 50 hộ dân nuôi với 50.000 cọc, sản lượng đạt 450 tấn. Và đến nay, xã Ninh Ích đã có 304 hộ dân nuôi vẹm xanh. Mỗi hộ nuôi ít nhất 2.000 cọc và nhiều nhất là 21.000 cọc. Sau 1 năm thu hoạch, trung bình mỗi cọc thu được 10kg, trừ chi phí người dân còn lãi 45.000đ/cọc xi măng và 20.000đ/cọc cây. Hiện nay, vẹm giống không những đủ đáp ứng cho người nuôi tại chỗ mà còn xuất bán cho các địa phương khác trong tỉnh như: Vạn Ninh, thị xã Cam Ranh… Giá 1kg giống loại 1.000 - 1.100 con là 20.000đ, loại dưới 1.000 con là 18.000đ, giống càng lớn thì giá càng rẻ.

Một trong những thôn nuôi vẹm xanh nhiều và đạt hiệu quả cao nhất là thôn Tân Đảo. Toàn thôn có 238 hộ dân, trong đó có 116 hộ dân nuôi vẹm xanh. Hiện những hộ dân này đời sống đã khá giả, hộ nào nhà cửa cũng khang trang. Người đầu tiên tôi gặp là anh Nguyễn Minh Tới - trước đây gia đình anh nuôi tôm đìa, bước đầu thu nhập ổn định, nhưng sau một thời gian thấy nuôi tôm không còn hiệu quả, năm 2002, gia đình anh chuyển sang nuôi vẹm xanh. Năm đầu tiên anh cắm 800 cọc, thấy nuôi vẹm có lãi, anh tăng số cọc lên hàng năm, và đến nay gia đình anh đã có 8.000 cọc. Mỗi năm như vậy, trừ chí phí gia đình anh còn lãi từ 50 - 60 triệu đồng, không kể tiền bán con giống. Anh tâm sự: “Năm đầu tiên nuôi vẹm đi bán không ai mua. Vì lúc đó, người dân chưa biết ăn con vẹm thế nào. Có hôm chở đi, rồi chở về cực lắm. Nhưng bây giờ thì đã khác, nhiều người dân đã biết ăn vẹm xanh nên tiêu thụ dễ hơn… So với nuôi tôm trước đây thì nuôi vẹm sướng gấp trăm lần vì nó ít rủi ro nên không phải suy nghĩ, tính toán nhiều. Mặt khác, nuôi vẹm không phải mất công chăm sóc, lợi nhuận vừa cao, lại vừa không cần nhiều nhân lực”. Anh là một trong những gia đình thuộc diện khá giả của thôn. Hiện anh đang có hướng mở rộng thêm số cọc nuôi vẹm.

Ông Nguyễn Công Toàn - Chủ tịch UBND xã cho biết: “Nuôi vẹm xanh kỹ thuật đơn giản nên mọi người dân có thể nuôi được. Mặt khác, vẹm xanh không đòi hỏi phải có nhiều vốn mới nuôi được vì nó vừa tự lọc nước tìm kiếm thức ăn, vừa không gặp rủi ro. Người nuôi chỉ bỏ tiền vốn đúc cọc, ngoài ra không phải mất một khoản chi phí nào khác mà hiệu quả kinh tế lại cao. Nói về hiệu quả kinh tế ông Toàn cho biết: “Việc phát triển nghề nuôi vẹm xanh từng bước đã nâng cao đời sống của ngư dân, không những xóa đói, giảm nghèo mà còn có khả năng làm giàu trong hiện tại và tương lai; góp phần giải quyết việc làm ổn định cho hàng trăm lao động tại chỗ. Đồng thời, nuôi vẹm xanh góp phần làm cân bằng sinh thái, tái tạo lại môi trường nguồn lợi hải sản trên đầm; ngăn chặn các hoạt động đánh bắt hải sản trái phép, vì khi đã cắm cọc nuôi vẹm thì không thể vào được khu vực này để đánh bắt”. Người dân ở đây đã chuyển từ đánh bắt nhỏ có thu nhập thấp và một số nghề cấm sang nghề nuôi vẹm xanh có thu nhập ổn định. Hiện những hộ dân nuôi vẹm xanh ở xã Ninh Ích không còn hộ đói. Hộ nào ít nhất 1 năm cũng thu hoạch được khoảng 15 - 20 triệu đồng, thậm chí có nhiều hộ thu hàng trăm triệu đồng.

Hiện vẹm xanh đang là con nuôi chủ lực ở xã Ninh Ích. Nó mang lại một cuộc sống khá giả cho người dân nơi đây. Tuy nhiên, điều người dân băn khoăn là chưa có đầu ra ổn định cho vẹm xanh mà còn phải bán trôi nổi trên thị trường. Sự quan tâm lập kế hoạch đầu ra cho vẹm xanh của các ban ngành có liên quan lúc này là thật sự cần thiết để người dân yên tâm sản xuất.

CẨM VÂN


Cty TNHH Nam Việt nhập thiết bị kiểm tra chất malachite green

Nguồn tin: WAG, 21/4/2005
Ngày cập nhật: 21/4/2005

Trước tình hình cá tra, basa nguyên liệu bị nhiễm chất malachite green, Cty TNHH Nam Việt đã nhập thiết bị từ Mỹ để tiến hành kiểm tra các mẫu cá của ngư dân gởi về nhà máy.

Thiết bị này trị giá 70.000 USD do Mỹ sản xuất. Ngoài việc kiểm tra chất malachite green theo phương pháp HPCL, thiết bị còn kiểm tra các loại hoá chất khác như : Choramphenicol, Furazolidone theo phương pháp ELISA. Bình quân mỗi ngày thiết bị kiểm tra được 30 mẫu với thời gian xử lý 1 mẫu là 5h.

Chất Malachite green là 1 trong 17 chất mà Liên minh Châu Âu đã đưa vào danh mục cấm sử dụng trong nuôi trồng và chế biến thủy sản. Thời gian qua, do chưa có thiết bị kiểm tra loại hoá chất mới này nên đã có ít nhất 12 doanh nghiệp chế biến cá tra, basa xuất khẩu của Việt Nam bị tạm đình chỉ xuất sản phẩm vào thị trường Châu Âu. Sau sự kiện Cattfish, hiện nay chất malchite green đang là nổi lo đối với nghề nuôi cá bè truyền thống ở An Giang nói riêng và ĐBSCL nói chung. Cty TNHH Nam Việt là doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam trang bị thiết bị kiểm tra chất malachite green trước khi xuất hàng qua Liên minh Châu Âu.

Minh Hiển


Uỷ ban châu Âu thanh tra vệ sinh an toàn hàng thuỷ sản VN

Nguồn tin: TTXVN, 19/4/2005
Ngày cập nhật: 21/4/2005

 


Cần khôi phục rừng và giải quyết ô nhiễm môi trường để khắc phục tình trạng tôm chết

Nguồn tin: BCT, 20/4/2005
Ngày cập nhật: 21/4/2005

Trước tình hình nắng hạn đang diễn ra gay gắt, nguồn nước cấp cạn kiệt, hiện tượng tôm chết lại tái phát khá nặng nề ở miền Tây. Các nhà khoa học đánh giá ngoài nguyên nhân do chất lượng giống kém, tôm chết còn do các yếu tố môi trường bị ô nhiễm gây nên. Trong đó đáng lưu ý các việc làm như: phá rừng, đào đắp, bao ví và việc dẫn nước mặn vào vườn ruộng trong quá trình chuyển dịch sang nuôi tôm từ đầu năm 2001 đến nay có thể xem là những nhân tố tác động không nhỏ đối với môi trường đất, nước, đặc biệt là trên các vùng đất ven biển đang nuôi tôm ở ĐBSCL. Bên cạnh đó, việc độc canh con tôm, sử dụng hóa chất, nông dược tùy tiện và khoan đất, sên vét đổ bùn đáy tự do thời gian qua, đã khiến cho các quá trình hình thành và tích tụ độc chất hoạt động mạnh, phá vỡ sự cân bằng sinh học, làm cho tính đa dạng sinh học trong vùng đã suy giảm đáng kể, môi trường sinh thái cũng đang bị tổn thương ngày càng trầm trọng. Ngoài ra, các vùng đất ven biển Nam bộ còn phải chịu ảnh hưởng xấu của những tác động ngoại lai gián tiếp khác như: phải hứng chịu các nguồn nước thải ô nhiễm hòa tan vào nguồn nước từ nước thải sinh hoạt đô thị, cụm dân cư, nước thải kinh doanh chế biến thủy sản, nuôi tôm công nghiệp, chăn nuôi gia súc gia cầm, nông dược trong canh tác nông nghiệp và nhiều nguồn ngoại lai khác. Đáng quan tâm nhất là hóa chất, xăng dầu ngày một gia tăng thêm trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy muốn cho nghề nuôi thủy sản được phát triển một cách bền vững, ngoài yếu tố giống, cần thực hiện một số giải pháp sau:

+ Các địa phương cần tuyên truyền giáo dục và phát động phong trào vận động nhân dân trồng, khôi phục lại vốn rừng, cây xanh để có được độ che phủ hợp lý (chiếm khoảng 35-50% diện tích), đủ sức điều hòa các yếu tố môi trường đất nước và cả không khí theo hướng có lợi cho sản xuất và đời sống. Nơi nào không thuộc phạm vi đất rừng thì cũng nên trồng cây phân tán trong vuông tôm và cả trên bờ kinh bằng những giống cây rừng, cây ăn trái thích nghi, theo mật độ hợp lý để chống xói lở bờ, ngăn rửa trôi phèn mặn, điều hòa vi khí hậu, tạo điều kiện phục hồi hệ vi sinh vật đất và có thêm thu nhập khác, sẽ rất có lợi cho môi trường sống và nguồn lợi thủy sản.

+ Các ngành chức năng chuyên môn cần tăng cường tập huấn kỹ thuật, hướng dẫn nông dân tích cực cải tạo đất bằng các biện pháp thủy lợi, lý hóa học, vi sinh vật; hạn chế những tác động đến tầng sinh phèn và nên mở các đê bao ví vào mùa thích hợp cho thủy triều lên xuống, nhằm thau rửa các độc chất tích tụ làm sạch nhanh môi trường ao đầm.

+ Vận động nông dân ứng dụng các biện pháp kỹ thuật, hạn chế dùng thuốc trừ sâu độc hại trong diệt cá dữ, trong xử lý ao đầm và thực hiện các phương án đa canh phù hợp các điều kiện sinh thái như mùa nào giống ấy, thích ứng được với cơ chế thị trường, và quan trọng hơn là đất được nghỉ ngơi, phục hồi lại các yếu tố môi trường.

+ Tăng cường công tác quản lý nông dược thông qua tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn nông dân hạn chế hoặc không dùng thuốc hóa học trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản... để tránh sự ô nhiễm lan tỏa ảnh hưởng đến các vùng nuôi trồng thủy sản ven biển.

+ Cần có giải pháp hữu hiệu hơn buộc các cơ sở sản xuất công nghiệp, chế biến nông lâm thủy sản, đặc biệt là các nhà máy chế biến thủy sản, các cơ sở sản xuất kinh doanh có chất thải độc hại... phải xử lý ngay trước khi thải ra nguồn nước. Đây là biện pháp chống ô nhiễm ngay tại nguồn phát sinh,cần kiên quyết thực hiện.

+ Cần hướng tới việc tập trung và xử lý nước thải sinh hoạt đô thị, khu dân cư, phế phẩm chăn nuôi, quản lý nước thải trong sản xuất tôm giống, nuôi trồng thủy sản trước khi cho ra môi trường.

+ Tăng cường quản lý và tuyên truyền giáo dục nhân dân tích cực tham gia, chống ô nhiễm xăng dầu trong sinh hoạt, sản xuất kinh doanh và chuẩn bị những phương án ứng cứu sự cố tràn dầu, chống lan tỏa dầu tràn vào vùng sản xuất nội địa...

Bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng cùng các nguồn tài nguyên trên vùng đất ven biển là trách nhiệm của toàn xã hội, trực tiếp là người dân địa phương. Đây cũng chính là sự sống còn của quá trình chuyển dịch và phát triển bền vững, vì thế chúng ta cần phải động viên nhau thực hiện tốt một cách khẩn trương và kiên quyết ở mọi lúc mọi nơi.

KS. NGUYỄN VĂN THƯỚC

 


Vụ tôm nuôi chính 2005 DIỆN TÍCH THẢ NUÔI TÔM BỊ THIỆT HẠI THẤP HƠN NHIỀU SO VỚI NĂM 2004

Nguồn tin: VASEP, 17/3/2005
Ngày cập nhật: 20/4/2005

Từ đầu tháng 1 đến giữa tháng 3/2005, diện tích thả nuôi tôm sớm ở đồng bằng sông Cửu Long liên tiếp bị thiệt hại. Làm gì để hạn chế diện tích bị thiệt hại và nâng cao sản lượng thu hoạch tôm nuôi, đặc biệt khi vụ nuôi chính đã bắt đầu. Lãnh đạo Sở Thủy sản Sóc Trăng và Trà Vinh đã trao đổi với Bản tin Thương mại Thủy sản - VASEP xung quanh vấn đề này.

Giám đốc Sở Thủy sản Sóc Trăng Phạm Minh Tiền: Hiện đã có 4,7% tổng diện tích nuôi bị thiệt hại

Vụ nuôi đầu năm nay của tỉnh Sóc Trăng có trễ hơn mọi năm gần 2 tháng, nguyên nhân là do thời tiết lạnh kéo dài, nhiệt độ giữa ngày và đêm chênh lệch lớn, không đảm bảo cho thả nuôi, nên lịch cho nhập giống của ngành mới bắt đầu cho phép từ ngày 25/2 vừa qua. Diện tích thả tôm sú trong tỉnh đến nay là 6.791 ha tập trung ở các huyện Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên, Long Phú. Vụ nuôi tôm năm nay tỉnh Sóc Trăng dự kiến sẽ thu hoạch trên 37.000 tấn.

Tại Sóc Trăng, tôm chỉ chết rải rác ở một số hộ thả nuôi sớm khi điều kiện môi trường, thời tiết chưa thích hợp. Diện tích thiệt hại này cũng rất thấp chiếm 4,7% tổng diện tích thả nuôi (318 ha), nếu so với năm 2004 số diện tích thả nuôi bị thiệt hại đã thấp hơn rất nhiều.

Để tránh tình trạng tôm thiệt hại làm ô nhiễm đến vùng nuôi, ngành đã có chỉ đạo Trung tâm Khuyến ngư tỉnh thường xuyên lấy mẫu nước, giáp xác trên các sông rạch tự nhiên để phân tích, đánh giá chất lượng nguồn nước ngoài môi trường, từ đó có thông báo và khuyến cáo kịp thời cho người nuôi tôm cẩn thận khi lấy nước vào ao nuôi. Ngoài ra, ngành còn hướng dẫn các hộ nuôi bị thiệt hại cải tạo lại thật kỹ ao nuôi theo đúng quy trình kỹ thuật mới thả nuôi lại. Bằng biện pháp tích cực trên đã giúp hạn chế được bệnh tôm không lây lan trên diện rộng.

Phó giám đốc Sở Thủy sản Trà Vinh Phạm Nam Dương: Tôm sú giống bị chết chiếm 2,6% so với tổng số lượng thả nuôi

Qua nhiều năm liền, những hộ thả nuôi tôm sú trước tết Nguyên Đán, đa số tôm sú thả nuôi đều bị chết. Để vụ nuôi năm 2005 hạn chế thiệt hại, Sở Thủy sản Trà Vinh đã có thông báo số 306/TB-STS về việc chuẩn bị cho mùa vụ nuôi tôm sú năm nay và chỉ đạo Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Trung tâm khuyến ngư tỉnh, phối hợp với địa phương, tăng cường kiểm dịch tôm giống, tập huấn kỹ thuật cho các hộ nuôi, khuyến cáo bà con nuôi tôm nên thả nuôi tôm sú theo lịch thời vụ là bắt đầu thả giống sau Tết Nguyên đán (sau ngày 15/2).

Tính đến ngày 15/3, 4 huyện ven biển của tỉnh Trà Vinh đã có 8.618 hộ thả nuôi 478,741 triệu con giống tôm sú trên diện tích 6.699 ha mặt nước trong đó tập trung nhiều nhất là ở huyện Duyên Hải

Hiện trong tỉnh có 274 hộ thả giống trước lịch thời vụ có lượng tôm bị chết là 12,562 triệu con, chiếm 2,6%. Nguyên nhân là do đầu vụ nuôi năm nay thời tiết rất bất lợi cho nghề nuôi tôm, ngày nắng nóng nhiệt độ cao, đêm lạnh và đến thời điểm này thời tiết vẫn chưa ổn định. Chất lượng con giống chưa cao, chưa kiểm dịch đầy đủ. Đa số bà con nuôi khi phát hiện tôm chết không xử lý đúng kỹ thuật mà xả nước ra môi trường chung gây lây lan mầm bệnh.

Để khắc phục tình trạng này, Sở Thủy sản đã tăng cường công tác kiểm dịch tôm sú giống nhập tỉnh, tôm sú bố mẹ và sản xuất tại chỗ, ngăn chặn số tôm sú giống nhập tỉnh không qua kiểm dịch. Tập huấn cho ngư dân kỹ thuật lựa chọn con giống tốt, cải tiến kỹ thuật nuôi, không mua con giống tôm sú khi kiểm dịch. Theo dõi môi trường, thời tiết, chế độ thủy văn, các yếu tố môi trường nước để giúp ngư dân chủ động thả giống và điều hành vụ nuôi được tốt. Các cấp huyện xã thành lập các tổ kiểm tra, khi phát hiện hộ nuôi có tôm nuôi bị chết thì đề nghị họ xử lý đúng kỹ thuật mới cho xả nước ra môi trường chung. Nếu hộ nào không chấp hành, cố tình vi phạm xử lý theo pháp luật quy định (bằng cách xử phạt hành chính).

Tổ chức phổ biến cho ngư dân các quy định theo Quyết định số 12/2005/QĐ-UBT ngày 21/2/2005 của UBND tỉnh Trà Vinh ban hành quy định tạm thời về quản lý giống tôm, cá và nuôi tôm cá, thức ăn thuốc thú y thủy sản và môi trường vùng nuôi tôm cá tập trung trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

(NTNT) Ngọc Thủy thực hiện...

 


Nhiều nơi cho cua biển sinh sản thành công

Nguồn tin: SGGP, 19/4/2005
Ngày cập nhật: 20/4/2005

Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Bạc Liêu vừa cho sinh sản thành công trên 40.000 con cua biển giống tại trại giống thủy sản Nước Mặn (xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lợi). Công nghệ sản xuất do Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản Trung ương II chuyển giao. Trong khi đó, Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, Khoa Thủy sản (Đại học Cần Thơ) cũng đã nghiên cứu thành công kỹ thuật sản xuất cua biển giống và đang chuẩn bị chuyển giao cho các địa phương ven biển như Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau ... Kết quả thử nghiệm cho thấy tỷ lệ cua sống và tăng trưởng sau vụ nuôi bằng giống nhân tạo tương đương với giống tự nhiên, hiệu quả kinh tế cao hơn nhưng giá thành đầu tư ban đầu thấp hơn cua biển tự nhiên 500 - 1.000 đồng/con. Trong năm 2005, Trung tâm Khuyến ngư Tỉnh Bạc Liêu sẽ sản xuất khoảng 1 triệu con giống để cung cấp cho các địa phương trong khu vực.

T.M.T


Bao giờ nghề nuôi tôm qua cơn bĩ cực?

Nguồn tin: NTNN, 18/4/2005
Ngày cập nhật: 19/4/2005

Theo lịch thời vụ của ngành thuỷ sản Bình Định, vụ tôm mới được bắt đầu từ đầu tháng 3, thế nhưng, đến nay toàn tỉnh mới chỉ có 700/2.350ha diện tích nuôi tôm được thả giống; còn nhiều vùng tôm còn bỏ hoang...

Tại những đồng tôm của Tuy Phước, một huyện có diện tích nuôi tôm lớn nhất Bình Định, với hơn 1.000ha, vẫn im ắng lạ thường dù vụ mới đã bắt đầu được hơn một tháng nay. Anh Tâm, khuyến ngư viên xã Phước Sơn (Tuy Phước) cho biết: vụ tôm này toàn xã có 304ha diện tích, nhưng UBND xã chỉ đạo chỉ thả nuôi 52ha và đến nay mới có 1/3 diện tích này được thả giống. Giải thích tình trạng này, anh Tâm cho biết: do các vụ tôm dịch bệnh hoành hành, nên người dân mất mùa, gần như hết vốn để đầu tư cho vụ mới. Ngân hàng, các Quỹ tín dụng khoá cửa với nông dân vì không có tài sản thế chấp. Hiện nay, theo anh Tâm: những diện tích còn lại xã phải vận động bà con sản xuất theo kiểu "thắt lưng buộc bụng", bằng cách nuôi quảng canh cải tiến, mật độ từ 5-10 con/m2 nhằm giảm chi phí nhưng nông dân vẫn do dự, chưa dám nhập cuộc.

Tại xã Phước Hòa (Tuy Phước), nơi có 500 hộ nuôi, với 327ha hồ tôm, tình cảnh còn "bi thảm" hơn. Chỉ tính riêng số tiền các hộ nuôi tôm ở đây còn nợ các Qũy Tín dụng trong những năm qua đã lên đến 20 tỉ đồng. Vào vụ này, nhiều hộ còn chút khả năng lại tiếp tục vay vốn để nuôi tôm, nhưng cũng chỉ có 90/327ha được thả giống. Trong tâm lý đã cạn niềm tin, người dân vào vụ rất uể oải, ngay cả đến tôm giống họ cũng không cho kiểm dịch, thậm chí ngay việc cải tạo hồ họ cũng không thực hiện như mọi năm trước khi vào vụ để... giảm chi phí (!?).

Tại thôn Huỳnh Giảng, nơi trước đây được mệnh danh là "thiên đường" của nghề nuôi tôm, nhưng hiện 100% hộ dân, với 2.000 khẩu đang phải sống nhờ vào nguồn... cứu trợ của tỉnh! Trong mấy năm qua, con tôm đã "tước" khỏi tay họ có đến hàng trăm tỉ đồng! Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do dịch bệnh hoành hành...

Một vấn đề khác cũng làm người nuôi tôm Bình Định chưa thể an tâm vào vụ mới đó là thời tiết ngày càng khắc nghiệt đã làm cho các hồ chứa trên toàn tỉnh chỉ đạt khoảng 40% dung tích thiết kế. Trong khi đó, vùng nuôi tôm trọng điểm này lại chưa có hệ thống thủy lợi cung cấp nước, nên khó khăn càng trở nên gấp bội. Được biết, dự án xây dựng hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm tại Bình Định đã được UBND tỉnh phê duyệt, nhưng vẫn "bất khả thi" vì tổng vốn đầu tư là 21 tỉ đồng thì người nuôi tôm phải "gánh" đến 8 tỉ. Người nuôi tôm đang lâm vào tình trạng "ăn bữa sáng lo bữa chiều", thì lấy đâu ra tiền để đóng góp! Dự án vẫn đành nằm im... trên giấy!

Câu hỏi được đặt ra là, đến khi nào người nuôi tôm ở Bình Định mới qua được cơn bĩ cực?


Tăng sản lượng hay tăng rủi ro?

Nguồn tin: TBKTSG, 14/4/2005
Ngày cập nhật: 19/4/2005

Sản lượng cá tra, ba sa nuôi ở ĐBSCL đạt trên 300.000 tấn vào năm 2004 với khoảng 70.000 tấn cá được xuất khẩu, kim ngạch đạt trên 200 triệu đô-la Mỹ. Năm 2004, khả năng chế biến cá tra, ba sa của các doanh nghiệp tại ĐBSCL đạt khoảng 1.000 tấn/ngày. Ngay trong những tháng đầu năm 2005, hàng loạt doanh nghiệp như Afasco, Công ty Nam Việt... tiến hành đầu tư thêm nhà máy, phân xưởng, mở rộng năng lực chế biến. Riêng tỉnh An Giang, ước tính đến quí 2- 2005, bốn nhà máy mới sẽ đi vào hoạt động, nâng tổng năng lực chế biến toàn tỉnh lên 201.000 tấn nguyên liệu/năm.

“Hướng phát triển của nghề nuôi và chế biến xuất khẩu loài cá này là khá rõ. Chúng ta phải có lộ trình xây dựng thương hiệu hợp với quy hoạch phát triển của ngành thủy sản”- ông Tạ Quang Ngọc, Bộ trưởng Thủy sản, từng phát biểu. Đó có lẽ là nguyên nhân ra đời Quyết định số 219/QĐ- BTS, đề ra mục tiêu đạt sản lượng cá tra, ba sa là một triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu 800 triệu đô-la Mỹ vào năm 2010.

Có quá tầm?

ĐBSCL, với diện tích nước ngọt trên 600.000 héc ta và kinh nghiệm có sẵn của người nuôi, nếu được đầu tư đủ vốn, thì theo Tiến sĩ Nguyễn Thanh Phương, Trưởng khoa Thủy sản (Đại học Cần Thơ), con số một triệu tấn hoàn toàn có thể đạt, thậm chí hơn. Điều mà Tiến sĩ Phương lo ngại: “Chỉ trong năm năm, sản lượng phải tăng hơn ba lần - tức phát triển “nóng”, thì sau năm 2010, liệu có nuôi tiếp được không”. Điều ông muốn đề cập trước hết chính là yếu tố môi trường.

Ông dẫn chứng: “Giai đoạn 1993-1997, sản lượng tôm nuôi ở Trung Quốc sụt giảm trầm trọng. Ở Thái Lan, giai đoạn 1996-1997 cũng gặp cảnh tương tự. Còn tại Đài Loan, trước năm 1982, sản lượng tôm đạt 80.000 tấn. Nhưng những năm gần đây, sản lượng tôm vào năm cao nhất cũng chỉ đạt 20.000 tấn”. Theo ông, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc giảm sản lượng tôm ở các nơi này, trong đó, có nguyên nhân mà ông đang lo ngại cũng sẽ diễn ra do việc phát động tăng diện tích, sản lượng cá tra, ba sa ào ạt: phá hủy môi trường khiến phát triển không bền vững.

Việc phát triển diện tích nuôi tôm ào ạt trong những năm qua tại Việt Nam hiện đã gây khá nhiều tác động đến môi trường. Tại các vùng nuôi tôm ven biển, theo Tiến sĩ Phương: “Diện tích rừng ngập mặn đã bị thu hẹp, đất nhiễm mặn nặng, nước ô nhiễm…”. Riêng đối với việc nuôi cá tra, ba sa hiện nay, tuy tác động đến môi trường trên diện rộng chưa lớn, nhưng đã xuất hiện ở những vùng cục bộ.

“Thâm canh, tăng sản lượng để tăng lợi nhuận hay tăng rủi ro?” - Tiến sĩ Phương phân vân. Ông nói, phải tính toán kỹ một héc ta nuôi cá tra hàng năm thải ra môi trường bao nhiêu lượng chất đạm, lân, hóa chất… Có tính toán được mới nghĩ đến việc quy hoạch, quản lý vùng nuôi, tránh phá hủy môi trường. Bởi chỉ riêng từ việc nuôi tôm, theo khảo sát gần đây của khoa Thủy sản (Đại học Cần Thơ), có gần 500 loại thuốc và hóa chất đang được người nuôi tại ĐBSCL sử dụng để xử lý nước, trị bệnh cho tôm…

Ông Nguyễn Minh Nhị, Phó bí thư Tỉnh ủy An Giang, thừa nhận: “Ngay thời điểm hiện nay, việc người nuôi bơm chất thải từ đáy ao ra sông, rạch... là đáng cảnh báo. Chỉ cần tăng sản lượng lên 100.000-200.000 tấn, lượng chất thải đã rất kinh khủng. Theo tôi, nên phát triển chậm mà chắc”.

“Những năm 1997-1998, tỷ lệ hao hụt trong nuôi loài cá này dưới 3%. Còn hiện nay, cùng với việc gia tăng sản lượng, diện tích trong những năm qua, tỷ lệ hao hụt cũng tăng lên 25-30%”- Tiến sĩ Phương dẫn chứng. Một điều hiển nhiên, khi việc nuôi cá gây tác động đến môi trường thì môi trường cũng sẽ tác động ngược trở lại đến việc nuôi cá. Nhất là ở ĐBSCL, hệ thống thủy lợi, hạ tầng cho nghề nuôi cá chưa được đầu tư tương xứng.

Nỗi lo thị trường

Một triệu tấn cá ấy sẽ bán hết cho ai? Đây cũng là câu hỏi mà nhiều doanh nghiệp chế biến ở ĐBSCL đang đặt ra.

Ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cho rằng tuy đầu ra xuất khẩu hiện khả quan, nhưng mặt hàng này dễ bị các nước nhập khẩu kiện bán phá giá (như ở Mỹ) và áp dụng các biện pháp hạn chế thương mại.

Ông Ngô Phước Hậu, Phó chủ tịch VASEP, Tổng giám đốc Agifish, kể: “Khi phát hiện người nuôi cá sử dụng chất Malachite Green trị bệnh nấm, các doanh nghiệp cùng các cơ quan chức năng địa phương đã giải thích, khuyến cáo người nuôi về tác hại, vậy mà 4-5 tháng sau chúng tôi vẫn phát hiện cá có nhiễm chất này”.

Trong mười tháng đầu năm 2004, theo Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (Nafiquaved), có 15 lô hàng cá tra, ba sa và rô phi bị các nước nhập khẩu cảnh báo vì nhiễm chất hóa học, ba lô hàng bị cảnh báo vì nhiễm vi sinh vật. Vừa qua, hầu hết các lô hàng này bị trả về, doanh nghiệp vi phạm tạm thời không được phép xuất khẩu vào thị trường đó, chờ kết luận chính thức của đoàn thanh tra từ EU.

Theo tính toán của Nafiquaved, các doanh nghiệp bị thiệt hại 70.640 đô-la Mỹ trên mỗi lô hàng 18 tấn. Nhưng thiệt hại khác, theo ông Hậu: “Mỗi lần như vậy, tốc độ xuất khẩu bị chựng lại”.

Như vậy, định hướng gia tăng sản lượng cá ào ạt càng khiến việc quản lý tình trạng sử dụng hóa chất trong nuôi thả khó khăn hơn. Và rủi ro mà doanh nghiệp chế biến phải chịu càng khó tránh. Trong thời điểm mà các thị trường nhập khẩu mỗi lúc một khắt khe hơn trong kiểm tra chất lượng, những vi phạm như vậy có nguy cơ khiến các doanh nghiệp bị cấm xuất khẩu hẳn, mất thị trường đã tạo được.

Ông Thomas Ganslmayr, người Đức, chuyên viên tư vấn và đào tạo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, chi nhánh Cần Thơ, kể: “Trước đây, người Đức rất thích dùng một loại cá xuất xứ từ châu Phi, có hình dáng, mùi vị tương tự như cá tra, ba sa của Việt Nam. Nhưng sau một thời gian, việc tiêu thụ loại cá này tại Đức bị chựng lại vì khách hàng phát hiện chất lượng cá không còn giữ được như ban đầu khi sản lượng gia tăng ào ạt theo nhu cầu”. Ông mong rằng cá tra, ba sa Việt Nam không phải gặp cảnh tương tự.

“Chúng ta chưa có giải pháp đồng bộ, mang tính chiến lược lâu dài. Và mục tiêu tăng sản lượng một triệu tấn không sát theo thực tế ở vùng ĐBSCL”, ông Hậu nhận định.

Định hướng gia tăng sản lượng lẽ ra phải đi kèm với bài toàn vốn, giống, quy hoạch đầu tư nâng năng lực chế biến phù hợp nhằm tránh cung vượt cầu… Nhưng theo một chuyên gia thủy sản: “Một triệu tấn tương đương bao nhiêu bè, bao nhiêu héc ta thả nuôi? Ngay Bộ Thủy sản còn chưa có con số cụ thể” (*).

(*)Theo ông Ngô Phước Hậu, tuy chưa có công văn chính thức nhưng tại một cuộc họp mới đây, Bộ trưởng Thủy Sản đã cho biết sẽ bỏ “định hướng 1 triệu tấn” này.

Hồ Hùng

 


Thừa Thiên Huế: Nguy cơ tôm chết hàng loạt

Nguồn tin: NNVN, 14/4/2005
Ngày cập nhật: 19/4/2005

Đến thời điểm này, có 128 ha trong tổng số 1.296 ha tôm nuôi toàn tỉnh Thừa Thiên Huế xảy ra dịch bệnh, làm chết gần 40 triệu con tôm sú P15, ước thiệt hại trên 500 triệu đồng. Trước tình trạng dịch bệnh tôm có nguy cơ tiếp tục bùng phát trên diện rộng, các ban ngành liên quan đã có những biện pháp phòng chống.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tôm nuôi xảy ra dịch bệnh, song các yếu tố về môi trường vùng nuôi không đảm bảo vệ sinh, chất lượng con giống, kỹ thuật nuôi còn hạn chế là tác nhân chính dẫn đến tôm nuôi xảy ra dịch bệnh. Ngoài ra, nguyên nhân gây dịch bệnh đốm trắng làm tôm chết hàng loạt là do hầu hết các hộ nuôi không chấp hành đúng lịch thời vụ theo hướng dẫn của ngành thủy sản mà đã thả nuôi sớm từ 1-2 tháng. Các hộ nuôi còn chưa quan tâm xử lý vệ sinh môi trường ao hồ trong sạch, kiểm dịch giống, nguồn nước không đảm bảo các yếu tố về độ mặn, PH, nhiệt độ trước khi thả nuôi dẫn đến tôm thường xảy ra dịch bệnh là điều khó tránh. Trong quá trình nuôi, người dân lạm dụng thức ăn tươi dẫn đến tình trạng dư thừa thức ăn trong ao hồ gây ô nhiễm môi trường nước, cũng là nguyên nhân xảy ra nhiều loại bệnh ở tôm.

Trước tình hình dịch bệnh tôm xảy ra trên diện rộng, Sở Thủy sản Thừa Thiên Huế đã chỉ đạo Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (CBVNLTS), Trung tâm Khuyến ngư cử kỹ sư thủy sản về các hồ tôm xảy ra dịch bệnh trực tiếp hướng dẫn các hộ nuôi sử dụng các hóa chất Dolomite, Zeolite để xử lý môi trường, khoanh vùng bị dịch. Chi cục BVNLTS khuyến cáo các hộ nuôi tuyệt đối không xả nước ở các hồ tôm đã bị nhiễm bệnh khi chưa xử lý và được sự đồng ý của cán bộ thủy sản. Đơn vị cử các kỹ sư đến tận các hồ nuôi lấy các mẫu nước để kiểm tra chất lượng, đồng thời khuyến cáo các hộ nuôi thường xuyên theo dõi diễn biến môi trường nước ở vùng đầm phá, đóng cống khi có nguồn nước có dấu hiệu ô nhiễm để có biện pháp xử lý kịp thời. Đến nay, Chi cục lấy khoảng 400 mẫu nước ở các địa phương có diện tích nuôi tôm lớn, đã kiểm tra và phát hiện hơn 50 mẫu ô nhiễm. Trong thời gian tới, ngành thủy sản sẽ phối hợp với chính quyền địa phương, các ban ngành chức năng sớm giải tỏa, quy hoạch lại những ao hồ xây dựng không hợp lý. Ngành thủy sản vận động bà con chấp hành nghiêm túc lịch thời vụ, thả một vụ "ăn chắc” theo quy định của ngành. Nguồn giống trước khi thả nuôi phải qua kiểm dịch bằng máy PCR. Đối với những ao hồ thường xuyên xảy ra dịch bệnh sẽ nuôi xen canh, hoặc chuyển sang các đối tượng nuôi khác như cá hồng, rô phi đơn tính...

Để tránh “siêu rủi" cho nghề nuôi tôm, trước khi thả nuôi bà con nên kiểm dịch giống, xử lý nguồn nước, ao hồ theo đúng quy trình kỹ thuật. Kiểm tra và xử lý vệ sinh tầng đáy càng chặt chẽ, cơ hội thành công càng lớn. Chẳng hạn , ở các xã Vinh Hưng, Vinh Hà (Phú Lộc) trước năm 2002 nuôi tôm thua lỗ nặng do dịch bệnh xảy ra, sau khi xử lý tầng đáy ao hồ, giống thả qua kiểm dịch...đã mang lại hiệu quả cao. Hơn nữa, trong quá trình nuôi người dân cần thành lập quỹ hỗ trợ để giúp đỡ bà con trong việc đầu tư nuôi và chi phí khi dịch bệnh xảy ra. Mỗi người dân luôn nêu cao trách nhiệm, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp cá nhân, tập thể không chấp hành quy định trong việc bảo vệ môi trường ở các vùng nuôi.

 


Ninh Thuận - Khởi công xây dựng khu sản xuất tôm giống chất lượng cao

Nguồn tin: NT, 19/4/2005
Ngày cập nhật: 19/4/2005

Sáng 14-4, tỉnh ta đã tổ chức lễ khởi công xây dựng dự án đầu tư cơ sở hạ tầng và kiểm định giống thủy sản chất lượng cao tại xã An Hải, huyện Ninh Phước. Đến dự có các đồng chí Nguyễn Văn Giàu, Quyền Bí thư Tỉnh ủy; Văn Công An, Ủy viên Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy; Trương Xuân Thìn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; Nguyễn Bắc Việt, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; về phía Bộ Thủy sản có đồng chí Nguyễn Việt Thắng, Thứ trưởng cùng đại diện các Sở Thủy sản Khánh Hòa, Bình Thuận, Cà Mau đã về dự.

Dự án có quy mô 625 trại sản xuất tôm giống được xây dựng trên diện tích 125ha đất cát tại xã An Hải, với tổng kinh phí 33,211 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ngân sách của Bộ Thủy sản đầu tư trực tiếp 32,046 tỷ đồng và nguồn vốn huy động 1,147 tỷ đồng. Các hạng mục của dự án gồm: Hệ thống đường giao thông cấp IV dài 12.290m, kè bảo vệ bờ dài 3.290m, san lắp mặt bằng 325.000m3, hệ thống cấp nước biển công suất 960m3/h, hệ thống thoát nước thải công suất 4.000m3/h, các thiết bị cho hệ thống kiểm dịch chất lượng… Theo dự kiến, công trình sẽ hoàn thành vào cuối năm 2006, hàng năm sản xuất từ 3-3,5 tỷ tôm sú giống chất lượng, góp phần vào kế hoạch sản xuất tôm sú giống của ngành Thủy sản cả nước. Đây là dự án sản xuất tôm sú giống chất lượng cao đầu tiên của Bộ Thủy sản được khởi công, góp phần vào chiến lược sản xuất 36 tỷ tôm sú giống trong cả nước vào năm 2010.

Thiện Nhân,Báo Ninh Thuận


Ngư dân Cần Giờ : Niềm hy vọng về con ốc hương

Nguồn tin: binhthuan, 19/4/2005
Ngày cập nhật: 19/4/2005

Theo anh Nguyễn Văn Cảnh, Trưởng phòng kinh tế huyện Cần Giờ: “Hiện nay một số loài thủy, hải sản có giá trị kinh tế cao như cá chình, cá mú, ốc hương… được ngư dân mang về phát triển nuôi ở đìa tôm và rất thành công. Như con ốc hương, dù ngư dân ở đây chỉ nuôi được vài vụ đầu tiên, nhưng kết quả thu lợi khá cao nên có thể phát triển khả quan tại Cần Giờ…”.

Chị Nguyễn Thị Thanh Thúy ở Cần Thạnh kể, chồng chị là người Đài Loan nên chị thường hay đi về nhà chồng. Sau nhiều lần đi đi về về Đài Loan, chị tìm hiểu giá ốc hương thương phẩm bán ở vùng lãnh thổ này rất cao, giá từ 250.000 đồng/kg đến 300.000 đồng/kg.

Là một dân vạn chài bao năm sống với nghề ở vùng biển Cần Giờ, chị chợt nghĩ, tại sao mình không thể nuôi trồng loài hải sản có giá trị kinh tế cao này để xuất khẩu sang Đài Loan khi giá thành của nó rất cao. Năm 2003, qua thăm hỏi các trạm khuyến nông, cơ quan báo đài… chị lặn lội ra tận Bình Thuận mua 60kg giống ốc hương mang về. Chị gia cố lại cái ao nuôi tôm sú bỏ hoang từ nhiều năm nay để thả nuôi.

Thật bất ngờ, khoảng 4 tháng sau, chị thu hoạch với sản lượng đạt gần 2 tạ ốc hương thương phẩm, thu về gần 40 triệu đồng. “Vạn sự khởi đầu nan”, từ mẻ ốc hương đầu thành công, năm 2004 chị tiếp tục thả với số lượng 250kg con giống, và khi thu hoạch cho năng suất trên 1 tấn ốc thương phẩm thu về trên 150 triệu đồng.

Anh Nguyễn Văn Tính ở Bình Khánh cũng là một dân vạn chài, rày đây mai đó khắp nơi trên biển. Tình cờ, sau một lần đánh bắt tận miền Trung và được một người bạn chài mời về nhà giới thiệu cho xem mô hình nuôi ốc hương bán công nghiệp tại huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thế là giữa năm 2003, anh lặn lội ra tận Khánh Hòa để mua về thả thử 30kg ốc hương giống. Trong lần nuôi đầu tiên này, anh thu hoạch được gần 1 tạ ốc thương phẩm, thu về gần 20 triệu đồng, trừ đi chi phí, lời được 9 triệu đồng. Anh tiếp tục thả đợt thứ hai và thu về lợi nhuận trên 50 triệu đồng.

Ốc hương khai thác tự nhiên và xuất khẩu từ nhiều năm nay, việc nuôi ốc hương thương phẩm dưới dạng bán công nghiệp như hiện nay để xuất khẩu có thể xem là bước đột phá của ngư dân. Qua bức xúc của người nuôi ốc hương, chúng ta có thể thấy rằng, để phát triển nghề nuôi ốc hương thành một nghề chiến lược, căn cơ lâu dài như nghề nuôi tôm sú đã thành công thời gian qua, đó là con giống. Bà Nguyễn Thị Xuân Thu, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 3, cho biết: “Hiện nay trung tâm đã nghiên cứu thành công trong việc lai giống ốc hương nhân tạo, nhu cầu đặt con giống của bà con ngư dân đến với trung tâm ngày càng đông. Nhưng ngặt nỗi là trung tâm chỉ là nơi nghiên cứu, nên không thể đáp ứng được những bức xúc này của người dân…”.

Chị Thanh Thúy người đã thành công trong việc nuôi ốc hương trong ao tôm sú cho biết: “Qua 2 vụ nuôi thử nghiệm, vợ chồng tôi rút ra kết luận, là nuôi ốc hương đơn giản về kỹ thuật, dễ quản lý chăm sóc, kết quả nuôi chắc chắn và có hệ số an toàn cao hơn gấp nhiều lần so với tôm sú. Tính lãi suất trên số vốn đầu tư, con ốc hương thu về ngang bằng với con tôm sú. Đây là một hướng đi đầy triển vọng cho ngư dân ven biển. Nhưng cái khó nhất hiện nay là con giống”. Thực tế cho thấy, để có một ao nuôi ốc hương khoảng 250 – 500kg, vợ chồng chị Thúy phải đi hàng tháng trời khắp các trại ốc giống ở miền trung như Bình Thuận, Cam Ranh, Long Hải, Nha Trang, Vạn Ninh… để mua về mới đủ nuôi.

Giấc mơ của những ngư dân về một ngày chinh phục được loài hải sản giá trị kinh tế cao đã và đang dần thành hiện thực ở Cần Giờ .

Theo Web Bình Thuận - NGUYỄN PHƯƠNG LAM ( SGGP)

 


Con tôm thẻ chân trắng "Trôi nổi"

Nguồn tin: NNVN, 18/4/2005
Ngày cập nhật: 19/4/2005

Tôm thẻ chân trắng vào VN rất "lặng lẽ", ít hộ nuôi thành công. Những năm qua tôm bệnh chết mà các cơ quan chức năng cũng chẳng mấy ai quan tâm đó là bệnh gì, "số phận" của nó như thế nào ?

Trước tình hình con tôm sú liên tục bị dịch bệnh, môi trường ô nhiễm lại chậm được cải thiện, nguyên nhân chính vì lợi nhuận nên mật độ thả con giống những năm gần đây đạt đến mức nuôi công nghiệp, dao động 50-60 con/m2, trong khi nhiều nơi cơ sở hạ tầng chỉ phù hợp với hình thức nuôi bán thâm canh hoặc thâm canh khoảng 20-30con/m2. Cách đây 3 năm,nhiều người dân ở các tỉnh như Quảng Ninh, Phú Yên, Bình Thuận, Bạc Liêu, Cà Mau chuyển sang nuôi xen canh tôm thẻ chân trắng trong thời gian trái vụ tôm sú, thậm chí trên cả vùng nuôi con tôm sú truyền thống lâu nay, ban đầu do tôm thẻ chân trắng là đối tượng mới ở VN nên đã chiếm được cảm tình người nuôi bởi các ưu điểm: Có thể thả nuôi với mật độ 60 con/m2, thậm chí 100 con/m2; thời gian nuôi ngắn hơn 90-100 ngày, trong khi nuôi tôm sú ít nhất sau 120 ngày mới thu hoạch; chu kỳ ngắn nên giảm được rủi ro, ít tiêu tốn thức ăn và nhu cầu đạm không cao nên giúp giảm giá thành và ít gây ô nhiễm môi trường nước ; năng suất cũng khá cao có nơi đạt 6-7 tấn/ha..

Chính vì sự hấp dẫn đó, nên từ năm 2001 đã có không ít địa phương “bật đèn xanh" cho con tôm thẻ chân trắng xâm nhập dần. Cty Duyên Hải (Bạc Liêu) là đơn vị đầu tiên được Bộ Thuỷ sản cho phép đưa con tôm thẻ chân trắng vào sinh sản nhân tạo để bán ra thị trường từ tháng 9/2001. Ông Trần Kia, một Việt kiều Mỹ do chủ động được khâu giống và đầu ra sản phẩm bên kia biên giới nên đã mạnh dạn thả nuôi 500 ha con tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Bạc Liêu ngay từ năm 2001. Tuy nhiên, chỉ qua hai năm SX thì dự án nuôi tôm thẻ chân trắng của ông Kia gần như phá sản do tình trạng tôm chết hàng loạt. Đó là nguyên nhân gì? Thạc sĩ Nguyễn Văn Trọng-Viện phó Viện NCNT Thuỷ sản II cho biết, có lẽ bởi ngoài việc mang các mầm bệnh của con tôm sú (đốm trắng, đầu vàng), tôm chân trắng còn có thêm một loại bệnh khác gọi là Taura khó chữa trị như bệnh đốm trắng ở con tôm sú, hội chứng này có các triệu chứng như thân tôm có màu đỏ nhạt, tôm yếu và chậm lớn nhưng điều quan trọng nhất là virus taura trên con tôm chân trắng có khả năng truyền và gây bệnh sang con tôm sú.

Tương tự ở Bình Thuận, từ năm 2003, nhiều người nuôi ở các huyện Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Nam đã háo hức đua nhau tìm đến Cty TNHH Asia Hawaii Ventures thuộc KCN Hoà Hiệp (Phú Yên) mua giống tôm thẻ chân trắng với giá 80-90 đ/con (cao gấp hai lần giá giống tôm sú cùng thời điểm-PV) để thả trên diện tích gần 22 ha và áp dụng qui trình nuôi như con tôm sú. Tuy nhiên chỉ sau một vài vụ nuôi, nhiều đầm tôm chết hàng loạt. Ông Đinh Văn Hảo-Trưởng phòng QLNT Thuỷ sản (Chi cục BVNL TS tỉnh) cho hay, sau khi Chi cục kiểm tra nhận thấy tôm chết có biểu hiện rớt đáy, đỏ thân nhưng do không xét nghiệm nên không rõ là nguyên nhân gì? "Năm nay, người ta hãi quá nên không ai dám tự phát nuôi nữa. Còn đâu 2 hộ ở huyện Thuận Nam nhưng chỉ thả khoảng vài ba sào gì đó ?".

Trước việc “phản ứng” từ thực tế, cách đây 1 năm, ngày 16/1/2004 Bộ Thuỷ sản có văn bản cấm nuôi tôm thẻ chân trắng trên khu vực đã nuôi tôm sú (nghĩa là chỉ nuôi vùng cách biệt) nhất là quản lý chặc chẽ giống tôm TCT nhập khẩu. Thế nhưng cuối năm 2004, một DN ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xin phép nhập 200 tôm rằn, nhưng lúc về VN thì bên trong toàn là tôm bố mẹ chân thẻ chân trắng. Còn Cty TNHH Anh Việt (Bình Thuận) đưa ra kế hoạch SX hẳn hoi, dự kiến trong năm nay Cty này sẽ bán ra khoảng 60 triệu tôm giống chân trắng cho một số tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL, mặc dù ở đây không khuyến cáo SX do không kiểm soát được nguồn dịch bệnh. Thế nhưng, có cung thì ắt có cầu. Vậy cầu ở đâu ra?

Rõ ràng, dù có cấm đoán nhưng nhu cầu SX tôm thẻ chân trắng là có thực. Vậy tại sao đến nay vẫn không thể phát triển được ? Cũng theo lời Th.S Nguyễn Văn Trọng “Đây là loài nhập chỉ có ở Hawai hoặc Mỹ là tốt nhất, do họ đã có quá trình giao hoá (chọn lọc tôm bố mẹ qua nhiều thế hệ), hơn nữa giá trị kinh tế nó cũng không cao, thị trường tiêu thụ không lớn. Size (kích thước) bé giống như con tôm bạc chỉ vào khoảng 40-50.000 đ/kg, trong khi đó tôm sú từ 70-80.000 đồng. Con tôm sú tuy lao đao vậy, nhưng vẫn còn đang mạnh, không nên phát triển tôm thẻ. Hiện nay ít có DN nào mặn mà thu mua tôm thẻ. Một chủ nuôi tôm Đài Loan nói với chúng tôi, Trung Quốc hiện nay SX khoảng 40% thị trường sản lượng tôm thẻ hàng năm, do vậy VN không nên cạnh tranh với TQ về con tôm này".

 


Bình Định - Toàn tỉnh đã có 138 ha tôm nuôi bị nhiễm bệnh

Nguồn tin: BĐ, 19/4/2005
Ngày cập nhật: 19/4/2005

Đến nay, các địa phương trong tỉnh Bình Định đã thả giống tôm nuôi vụ 1 trên diện tích gần 1.800 ha mặt nước. Đáng chú ý là mặc dù UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành thủy sản có biện pháp xử lý, phòng chống dịch bệnh tôm ngay từ đầu vụ nuôi nhưng cho đến thời điểm này diện tích tôm nhiễm bệnh trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng. Toàn tỉnh hiện đã có hơn 138 ha mặt nước nuôi tôm bị nhiễm bệnh đốm trắng, nhiều nhất là TP Quy Nhơn hơn 70 ha, Tuy Phước trên 38 ha... Nguyên nhân chủ yếu làm cho dịch bệnh tôm tiếp tục phát sinh là do một số địa phương xuống giống sớm so thời vụ và tình trạng hạn hán gây thiếu nước ngọt cho các vùng nuôi. Hiện Sở Thủy sản đang triển khai các biện pháp giúp bà con nuôi tôm phòng chống dịch bệnh tôm.

. Xuân Nguyên


Phú Yên: Cá cơm xuất hiện nhiều chưa từng thấy

Nguồn tin: NLD, 18/4/2005
Ngày cập nhật: 19/4/2005

Trong vòng 2 ngày qua, vùng biển huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xuất hiện lượng cá cơm lớn mà theo các ngư dân là chưa từng có từ trước đến nay...

Trong vòng 2 ngày qua, vùng biển huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xuất hiện lượng cá cơm lớn mà theo các ngư dân là chưa từng có từ trước đến nay. Chỉ cách chân sóng vài chục mét, những đàn cá cơm nòi (cỡ ngón tay út trở lên) nhiều như đám ruộng làm đỏ cả nước.

Một đêm, mỗi thuyền đánh cá cơm có thể đánh bắt được 2,5 - 3 tấn cá, với giá 4 triệu đồng/tấn bán tại thuyền, trừ mọi chi phí còn lãi khoảng 7,5 - 9 triệu đồng. Những ngư dân có kinh nghiệm ở đây cho hay, thông thường từ tháng 4 đến tháng 7 âm lịch, cá cơm xuất hiện thành đàn với mật độ dày, mỗi đợt từ 5-7 ngày.


An Giang: Kiệt nước làm chết cá bè nuôi lồng

Nguồn tin: WAG, 18/4/2005
Ngày cập nhật: 19/4/2005

Từ đầu tháng 4-2005 đến nay, trời nắng nóng, nhiệt độ tăng cao, tình hình kiệt nước trên nhiều tuyến sông ở An Giang đã làm cá tra, ba sa nuôi bè trên địa bàn huyện An Phú chết hàng loạt.

Theo Hiệp hội Nghề nuôi và chế biến thủy sản tỉnh An Giang (AFA), nguyên nhân chính là do tảo xuất hiện nhiều trong nước bám vào mang cá gây khó thở; đồng thời, các loại rong, tảo này cũng làm giảm lượng ôxy trong nước làm yếu cá trong bè; nguồn nước kiệt nên sán gây bệnh trong gan và mật cũng làm chết cá.

Theo một số chuyên gia, cần vệ sinh và di dời bè tới nơi nước sâu; dùng quạt để tạo ôxy trong nước để giảm tình trạng cá chết.

Ngành thủy sản cũng khuyến cáo ngư dân nên sử dụng Vitamine C, n... để tăng sức đề kháng, sổ ký sinh cho cá đồng thời tiếp tục theo dõi bệnh, tránh tình trạng lây lan trên diện rộng.

Theo SGGP

Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang