• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Tuy Phước: Đưa Trạm kiểm dịch thú y thủy sản vào hoạt động

Nguồn tin: BBD, 28/2/2006
Ngày cập nhật: 28/2/2006

Trạm Kiểm dịch thú y thủy sản huyện Tuy Phước bắt đầu hoạt động từ tháng 2-2006.

Sau một thời gian xây dựng, Trạm kiểm dịch thú y thủy sản (TYTS) đặt tại xã Phước Sơn (Tuy Phước) đã hoàn thành. Vừa qua, Sở Thủy sản đã bàn giao trạm cho huyện Tuy Phước chính thức đưa vào hoạt động. Trạm được trang bị các thiết bị kiểm dịch bệnh tôm, quan trắc môi trường… và có 3 cán bộ viên chức túc trực làm việc.

Được biết, đây là trạm kiểm dịch thú y thủy sản được xây dựng cùng một lúc với trạm kiểm dịch TYTS đặt tại thị trấn Ngô Mây (Phù Cát), được Sở Thủy sản đầu tư vốn xây dựng cơ sở hạ tầng và trang bị các thiết bị kiểm dịch bệnh tôm lên đến 457 triệu đồng. Như vậy, đến nay toàn tỉnh đã có 4 trạm kiểm dịch tôm giống đang hoạt động ở 4 huyện là Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát và Tuy Phước.

X.T

 


Thị trường tôm sú giống ở ĐBSCL: Thiếu cả lượng và chất

Nguồn tin: BCT, 28/2/2006
Ngày cập nhật: 28/2/2006

ĐBSCL bắt đầu vào chính vụ tôm nuôi năm 2006 trên diện tích hàng trăm ngàn ha. Thế nhưng, vấn đề đặt ra là con giống chất lượng cao không đáp ứng nhu cầu người nuôi. Hàng tỉ con giống kém chất lượng, trôi nổi, không qua kiểm dịch vẫn được tung ra thị trường như một thách thức đối với ngành chức năng và người nuôi tôm!

Đến thời điểm này, nông dân Nguyễn Văn Thắng, khóm Kinh Tế, phường Nhà Mát, TX Bạc Liêu, đã 4 lần chọn mẫu tôm giống của các cơ sở sản xuất nhưng vẫn chưa ưng ý, vì mẫu nào cũng nhiễm bệnh… Tình trạng này cũng đang diễn ra đối với hàng vạn hộ nuôi tôm sú ở ĐBSCL hiện nay.

Ông Lâm Hồng Khánh, Chi cục Trưởng Chi cục Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản Bạc Liêu, thừa nhận: Hoạt động sản xuất, kinh doanh tôm giống còn nhiều điều bất cập, không đảm bảo cả lượng và chất. Năm 2005, toàn tỉnh có 112.000 ha diện tích nuôi tôm, cần đến 11 tỉ con con giống. Song, toàn tỉnh chỉ có vỏn vẹn 112 cơ sở sản xuất giống, mới đáp ứng khoảng 20% nhu cầu, 9 tỉ con còn lại được duy nhập từ các tỉnh miền Trung. Do “cung không đủ cầu”, nhiều cơ sở kinh doanh ương thuần giống trong tỉnh bằng mọi hành vi gian lận để kiếm lời: thành lập cơ sở “chui”, không theo quy hoạch, không giấy phép đã mọc lên khắp các vùng nuôi tôm. Trong năm qua, qua xét nghiệm 2.326 mẫu tôm, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh phát hiện có gần 50% số mẫu kém chất lượng; trong đó có 941 mẫu nhiễm MBV (bệnh còi), 184 mẫu nhiễm virút đốm trắng. Thanh tra Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản kiểm tra 1.489 phương tiện vận chuyển gần 1 tỉ con post nhập tỉnh, phát hiện có đến 123 phương tiện vi phạm, với lượng con giống kém chất lượng lên đến hàng triệu con.

Hiện nay, người dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, đã bắt đầu xuống giống tôm, chất lượng con giống vẫn là mối quan tâm hàng đầu.

Ông Lê Văn Quắn, ấp Giồng Trôm, xã Long Toàn, băn khoăn: “Tôi định thả khoảng 100 ngàn con giống. Nhưng mối lo hiện nay là việc chọn giống rất khó khăn, với mắt thường của người nuôi tôm không thể nào phân biệt được con giống có bệnh hay không. Do vậy, chỉ phó thác cho các cơ sở có uy tín”. Những năm qua, việc nuôi tôm sú của người dân huyện Duyên Hải nói riêng, tỉnh Trà Vinh nói chung, đã được nâng lên về kỹ thuật lẫn kinh nghiệm. Nhưng không năm nào người dân Trà Vinh tránh khỏi thiệt hại từ con giống tôm sú. Ông Phan Văn Bửu, Phó Chủ tịch UBND xã Long Khánh, cho biết: “Vụ tôm 2005, xã Long Khánh có 1.904 hộ thả nuôi với 337,5 triệu con giống trên diện tích gần 3.000 ha. Nhưng có tới gần 50% số hộ phải thu hoạch sớm, gỡ được đồng nào hay đồng đó vì con giống không đạt chất lượng. Vụ tôm 2006 chúng tôi khuyến cáo người dân nên chọn những cơ sở có uy tín để mua giống; nếu có tôm chết, không nên thải nguồn nước ra ngoài để lây lan mầm bệnh”.

Ông Huỳnh Kíp Nổ, Trưởng Phòng Nông nghiệp–Thủy sản huyện Duyên Hải, cho biết: “Huyện Duyên Hải là địa phương có diện tích nuôi tôm lớn nhất tỉnh Trà Vinh. Từ đầu vụ đến nay, 6.400 hộ thả nuôi với 338 triệu con giống trên diện tích 9.337 ha. Nhưng ngành chỉ mới kiểm dịch được 66,1 triệu con giống sản xuất tại địa phương và 17 triệu con giống nhập tỉnh”. Được biết, năm 2006, nhu cầu tôm giống của Trà Vinh khoảng 3 tỉ con, trong khi trên 110 trại sản xuất giống trong tỉnh mới đáp ứng được khoảng 45%, số còn lại phải nhập từ các nơi khác về.

Trước mắt để có nguồn tôm giống tốt, Sở Thủy sản Bạc Liêu sẽ trực tiếp hợp đồng với các cơ sở sản xuất tôm giống chất lượng cao, có uy tín ở các tỉnh miền Trung để cung cấp giống cho nông dân. Đồng thời, tăng cường kiểm tra các cơ sở sản xuất, phương tiện vận chuyển giống và xử lý thật nghiêm những trường hợp vi phạm. Khuyến cáo bà con nên chọn nguồn tôm giống tốt, đã qua xét nghiệm mới thả nuôi.

Đối với Cà Mau, nơi có diện tích nuôi tôm sú lớn nhất nước với diện tích 240.000 ha, thị trường tôm sú giống đang có những dấu hiệu đáng mừng cho cả người nuôi tôm, các nhà quản lý và giới kinh doanh chân chính. Các thương hiệu Tôm giống số 1, Hợp tác xã (HTX) Đồng Khởi (Ngọc Hiển), Thủ Túc (Trần Văn Thời)… được người nuôi tôm Cà Mau tín nhiệm cao. Ông Lê Thái Sơn, Chủ tịch Hội nông dân xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, cho biết: “Bà con bây giờ rất sợ tôm không rõ lai lịch, nguồn gốc. Vì thế nhiều người rất thận trọng trong việc chọn mua con sú giống. Nhiều người có chung quan điểm: Thả với số lượng ít, giá cao cũng được nhưng phải chất lượng”. Còn ông Bùi Văn Nho, Trưởng ấp Rau Dừa B, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước nói: “Số lượng giống thả mỗi đợt bây giờ chỉ bằng 2/3 lúc trước, nên chọn giá cao hơn trước vài đồng/con; số vốn bỏ ra vẫn vậy mà chắc ăn hơn”.

Ông Ngọc Thanh, Chủ nhiệm hợp tác xã tôm giống Đồng Khởi, ấp Đồng Khởi, xã Tân Ân Tây, huyện Ngọc Hiển cho biết: “Sau thời gian kiên trì xây dựng thương hiệu, nay chúng tôi cũng đã thấy có hiệu quả phần nào. Hiện con tôm mang thương hiệu HTX Đồng Khởi của chúng tôi đã được thị trường chấp thuận với giá cao hơn giá tôm giống trôi nổi đến 10 đồng/con. Cụ thể, giá tôm không có thương hiệu 15 đồng/con, thì giá của chúng là 25 đồng/con”. Trên chương trình quảng cáo của đài truyền hình địa phương, xuất hiện ngày càng nhiều các thương hiệu tôm giống chất lượng cao, góp phần đem đến cho nông dân Cà Mau nhiều sự chọn lựa để có được con giống tốt nhất…

Ông Phạm Văn Đức, Giám đốc Sở Thủy sản Cà Mau, nhận định: “Thị trường tôm giống Cà Mau đang có bước chuyển mình so với những năm đầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Nó thể hiện ở mấy điểm: sản xuất ngày càng tập trung; kỹ thuật sản xuất ngày một được đầu tư cao hơn, tiên tiến hơn; tiêu chí về chất lượng đang được người nuôi tôm tôn lên hàng đầu”. Thế nhưng, với diện tích nuôi 240.000 ha, năm 2006 Cà Mau cần 11 tỉ con giống, đa số vẫn nhập tỉnh. Tỷ lệ tôm giống kém chất lượng từ 70-80% ở các năm trước nay giảm xuống còn 50%, tuy nhiên con số này vẫn rất đáng lo ngại.

NHÓM PV - CTV

 


Phát triển công nghệ sản xuất giống thủy sản

Nguồn tin: WBT, 27/02/2006
Ngày cập nhật: 28/2/2006

Mấy năm nay, công nghệ chọn tạo, nhân giống thủy sản; các chương trình sản xuất giống nhằm khai thác, sử dụng nguồn gen bản địa và giống nhập nội phục vụ đa dạng hóa sản phẩm nuôi... được triển khai tích cực, hiệu quả. Đến nay, (theo Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Việt Thắng) cho biết, khoa học và công nghệ (KH&CN) về giống thủy sản và các chuyên ngành liên quan như thức ăn và dinh dưỡng; quản lý sức khỏe ấu trùng và môi trường nuôi... đã tiếp cận và giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Công tác KH&CN về giống đã được Bộ Thủy sản đẩy mạnh (bằng nhiều giải pháp đồng bộ), như: Chỉ đạo tăng cường bổ sung nhân lực và trang thiết bị cho các tổ chức KH&CN trong ngành. Tập trung nguồn lực chủ yếu cho nghiên cứu cơ sở khoa học bảo tồn qũy gen; nghiên cứu thuần hóa giống nhập nội; nâng cao chất lượng giống đối với các loài cá nước ngọt; nghiên cứu công nghệ sinh sản nhân tạo một số đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao và qúy hiếm; tổ chức bảo tồn đàn giống và hoàn thiện công nghệ sản xuất giống. Đầu tư cho công tác chuyển giao công nghệ sản xuất giống các loài thủy sản nội địa từ các cơ sở nghiên cứu trong nước đến từng địa phương; nhập khẩu công nghệ sản xuất giống (đối với một số loài thủy sản có giá trị) của nước ngoài..

Bộ Thủy sản đã tích cực triển khai đầu tư xây dựng hệ thống trạm, trại giống thủy sản, mở rộng quản lý lưu giữ những đàn giống gốc chất lượng tốt, cung cấp đàn hậu bị cho các địa phương, tham gia chuyển giao các tiến bộ KH&CN về giống thủy sản. Nhiều dự án sản xuất giống khác với các đối tượng nuôi nước lợ, mặn, ngọt (bằng các nguồn vốn khác nhau), cũng đã và đang được thực hiện tại nhiều địa phương, từ miền biển đến miền núi...

Theo số liệu thống kê (chưa đầy đủ), hiện nay, cả nước đã có hơn 500 trại giống thủy sản nước ngọt, sản xuất khoảng 12 tỷ con giống/năm (riêng ở miền Tây Nam Bộ có 145 trại, mỗi năm cung cấp 4 tỷ con giống cá da trơn (cá tra, ba sa), hơn 5000 trại giống tôm sú (sản xuất hơn 20 tỷ con giống/năm) và hàng nghìn trại giống sản xuất giống các loài cá biển, giáp xác, động vật thân mềm, bò sát, lưỡng cư... cung cấp con giống phục vụ nhu cầu phát triển nuôi trồng của nhân dân ở các vùng sinh thái khác nhau. Công nghệ sản xuất những giống cá nước ngọt chủ lực đã được phổ thông hóa, người dân và doanh nghiệp đã có thể tự sản xuất con giống...

Nhìn chung, công tác giống đã đáp ứng tương đối tốt nhu cầu của sản xuất. Đặc biệt là, các nhà khoa học đã tạo được một số đối tượng thủy sản nước ngọt mới có năng suất cao như cá Chép lai, Trê lai, Rô phi dòng GIFT; chọn giống và nghiên cứu thành công công nghệ sinh sản nhân tạo một số đối tượng thủy sản quý hiếm, có giá trị kinh tế cao (như các loài cá Song, cá Giò, cá Lăng, tôm Sú, tôm Rảo, cua biển, ghẹ, trai ngọc , hàu, sò huyết, ốc hương, vẹm xanh....). Một số loài khác, có giá trị kinh tế cao (như cá Mrigal, cá Rohu, Vược, cá Chim trắng nước ngọt...) đã được di giống thuần hoá thành công. Loài rong Sụn đỏ, một đối tượng có giá trị kinh tế, được du nhập, thuần và nhân giống hơn 10 năm nay, đã phát triển tốt ở các loại thủy vực nước mặn khác nhau (Nam Trung Bộ, Nam Bộ), tạo nguồn sản phẩm xuất khẩu có giá trị và khối lượng lớn.

Các tiến bộ về công nghệ sản xuất giống đã giúp giải quyết được phần lớn số lượng giống cho nhu cầu nuôi trồng, nhất là các đối tượng nuôi xuất khẩu đang giữ vị trí "chủ lực" như tôm Sú, cá Tra-Ba sa, tôm càng xanh... Hơn nữa, đã có những thành công trong những nghiên cứu công nghệ sản xuất giống rất độc đáo-chẳng hạn như ứng dụng công nghệ sản xuất tôm càng xanh toàn đực để đưa vào nuôi thương phẩm (vì con cái tăng trưởng chậm); hoặc công nghệ chuyển giới tính cá Rô phi, tạo ra hàng loạt cá đơn tính đực (để khắc phục nhược điểm cá đẻ nhiều lần trong năm, kích cỡ nhỏ, năng suất thấp)... đã tạo ra năng suất và hiệu quả kinh tế cao, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.

Chúng ta cũng đã làm chủ được công nghệ sản xuất giống các loài vi sinh vật, tảo biển làm thức ăn tươi sống cho ấu trùng (tôm cá), sử dụng loài vi tảo biển phân bố tự nhiên trong vùng biển nuớc ta, kết hợp với du nhập các giống vi tảo tốt từ bên ngoài bảo đảm có đủ bộ giống vi tảo làm thức ăn trong giai đoạn ương nuôi ấu trùng. Đây là một đóng góp có ý nghĩa quyết định nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng, đưa các công nghệ sản xuất giống thuỷ sản trở nên dễ áp dụng cho người dân và nâng cao hiệu quả kinh tế trong khâu sản xuất con giống.

Bên cạnh những nghiên cứu ứng dụng thành công các công nghệ sản xất giống thủy sản; các tiến bộ kỹ thuật quan trọng như ứng dụng sinh học phân tử và miễn dịch trong phòng và trị bệnh nguy hiểm đối với tôm, cá; kỹ thuật nhân giống vi sinh vật và nuôi tảo trong nuôi dưỡng ấu trùng; sử dụng chế phẩm sinh học để tăng khả năng chống chịu bệnh của vật nuôi trong quá trình thâm canh... đã được phổ cập vào thực tiễn sản xuất. Những kết quả nghiên cứu về các phương pháp bảo quản lạnh tinh động vật thủy sản cũng đã góp phần tích cực cho công tác chọn giống và bảo quản quỹ gen các loài quý hiếm.

Trong những năm tới, KH&CN về giống thủy sản sẽ hướng tới những đầu tư phát triển công nghệ cao, ứng dụng công nghệ sinh học... Đã có những ý kiến (của các nhà khoa học) đề xuất: Cần tiếp tục đầu tư xây dựng và nâng cấp các phòng thí nghiệm để có khả năng nghiên cứu tốt hơn các vấn đề có liên quan đến sản xuất giống thuỷ sản. Tập trung nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất giống đối với những đối tượng có lợi thế thị trường, những đối tượng nuôi trồng mới có giá trị và chú ý những đối tượng bản địa để làm phong phú mặt hàng xuất khẩu. Tiếp tục các hướng bảo tồn và khai thác quỹ gen, nâng cao chất lượng di truyền của một số đối tượng thủy sản nuôi có giá trị kinh tế. Cùng với việc bảo tồn nguồn gen động vật thủy sản sống, cần từng bước phát triển ngân hàng bảo quản lạnh; xây dựng ngân hàng gen vi sinh vật và vi tảo phục phụ sản xuất thức ăn tươi sống cho nuôi trồng; sản xuất chế phẩm sinh học phục vụ quản lý sức khỏe động vật thủy sinh và môi trường...

Thiều Thục Oanh (tổng hợp) (QĐND)


Hội thảo mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng

Nguồn tin: WNT, 17/02/2006
Ngày cập nhật: 28/2/2006

Sáng ngày 15-2-2006, Sở Thuỷ sản đã phối hợp với Công ty TNHH Chăn nuôi C.P Việt Nam tổ chức Hội thảo báo cáo kết quả mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng nhằm định hướng và đề ra các giải pháp để phát triển đối tượng nuôi mới này tại tỉnh ta trong thời gian tới. Hội thảo đã đánh giá một cách toàn diện về công nghệ nuôi, tình hình dịch bệnh, thị trường tiêu thụ và hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi thử nghiệm trong thời gian qua ở 2 xã An Hải và Phước Dinh (Ninh Phước), từ đó có cơ sở xây dựng và nhân rộng mô hình nuôi trong thời gian tới.

V.T,(Báo Ninh Thuận)

 


Bắc Ninh: cơ cấu nông nghiệp chuyển đổi gắn với sản xuất hàng hoá

Nguồn tin: TTXVN, 24/02/2006
Ngày cập nhật: 27/2/2006

 


Về Vĩnh Tân (Tuy Phong, Bình Thuận) nghe chuyện nuôi tôm hùm

Nguồn tin: WBT, 27/2/2006
Ngày cập nhật: 27/2/2006

Chúng tôi đến thôn Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong, anh phóng viên báo Nhân Dân, dân gốc Tuy Phong đi cùng tôi cũng phải ngạc nhiên, vì nghề nuôi hải sản ở Vĩnh Tân hôm nay phát triển quá nhanh. Con tôm hùm nuôi bằng lồng bè trên biển đã thực sự là một nghề mới, mang lại thu nhập cao cho người dân ở đây.

Không biết kinh nghiệm bắt nguồn từ đâu, nhưng ngày rằm tháng Giêng là ngày tốt nhất để thả giống tôm hùm. Câu chuyện bắt đầu từ anh Nguyễn Văn Giá, là một trong những người đầu tiên nuôi tôm hùm ở Vĩnh Tân. Tiếp chúng tôi tại bè tôm, anh Giá phấn khởi cho biết: “Năm 2003, gia đình tôi thấy nhiều gia đình ở miền Trung nuôi tôm hùm có hiệu quả, tôi quyết định làm lồng bè nuôi thử và nghề nuôi tôm hùm đã mang lại hiệu quả kinh tế cao bất ngờ. Năm rồi là năm nhà tôi trúng đậm tôm hùm nhất. Tháng Giêng năm 2005, thả 5.000 con tôm hùm giống, đến cuối năm thu hoạch, trừ hết chi phí còn lãi hơn 200 triệu đồng”. Một trường hợp khác, lúc đầu ít vốn, anh Nguyễn Văn Hường đã mạnh dạn vay thêm vốn của Hội nông dân 15 triệu đồng đầu tư 6 lồng nuôi tôm hùm, sau 1 năm trừ chi phí, gia đình anh lãi 60 triệu đồng.

Nuôi tôm hùm trên biển ở Vĩnh Tân phát triển nhất trong 2 năm gần đây, mới đầu chỉ có vài gia đình nuôi thử, thấy có hiệu quả kinh tế cao, nên người dân ở Vĩnh Tân đã đổ xô làm bè nuôi tôm hùm. Đến cuối năm 2005, Vĩnh Tân đã có 52 gia đình làm bè nuôi tôm hùm với diện tích 15ha mặt nước. Nuôi tôm hùm ở miền Trung chủ yếu là ở các vịnh kín, còn ở Vĩnh Tân thì lại nuôi tôm hùm ở vịnh hở, nên chi phí làm lồng bè tốn kém hơn so với làm ở vịnh kín. Bù lại có lợi hơn nuôi ở vịnh hở là việc thay đổi nước được liên tục và đáy vịnh không có san hô, nên môi trường nước không bị ô nhiễm, tôm ít mắc bệnh. Trong năm 2005, 52 hộ gia đình nuôi tôm hùm ở Vĩnh Tân đều có lãi, lãi nhiều hay ít tùy thuộc vào sự đầu tư lồng bè nuôi của mỗi gia đình. Đầu năm 2005, Anh Võ Quang Trung, ở xã Phước Thể, huyện Tuy Phong, đến Vĩnh Tân đầu tư một bè nuôi tôm hùm. Vốn ban đầu anh Trung bỏ ra chỉ 40 triệu, đến cuối năm 2005, sau khi bán tôm hùm trừ chi phí anh còn lãi 50 triệu đồng. Anh Trung quyết định thả tiếp 3.000 con giống trong vụ nuôi năm nay.

Nuôi tôm hùm ở Vĩnh Tân có hai cách nuôi là: nuôi bằng bè nổi, chia thành từng ô nhỏ, phần đáy chìm dưới nước. Cách khác là làm lồng sắt bọc lưới thả chìm hẳn dưới nước. Ngư dân ở Vĩnh Tân chủ yếu làm bè để nuôi. Mỗi bè có 8 ô vuông, mỗi chiều 3m, đáy lưới chìm dưới nước 4 mét. Mỗi ô có thể thả khoảng 100 con tôm giống. Có hai loại tôm hùm mà ngư dân ở Vĩnh Tân chọn nuôi là tôm hùm xanh và tôm hùm bông. Tôm hùm xanh dễ nuôi hơn, thời gian cho thu hoạch nhanh hơn. Sau 12 tháng nuôi, tôm hùm xanh có trọng lượng trung bình khoảng 3 con/1kg. Trong quá trình nuôi tỷ lệ hao hụt từ 10 – 15%. Tôm hùm bông khó nuôi hơn, thời gian cho thu hoạch cũng dài hơn (từ 16 – 24 tháng), và tỷ lệ hao hụt là 30%, nhưng bù lại là được giá cao hơn. Giá 1kg tôm hùm xanh trung bình chỉ 350.000 đồng, còn tôm hùm bông giá là 550.000/1kg. Nuôi tôm hùm thịt ở Vĩnh Tân phát triển đã kéo theo nghề khai thác giống tôm hùm ở hai xã này phát triển theo. Mỗi con tôm hùm xanh giống lớn bằng que tăm có giá khoảng 15.000 đồng/1 con, tôm hùm bông 70.000 đồng/1 con. Đầu năm nay, do ngư trường không thuận lợi cho việc khai thác tôm hùm giống, nên giá đã tăng vọt. Một con tôm hùm xanh ngư dân ở Vĩnh Tân phải mua với giá là 45.000 đồng/1 con, tôm hùm bông là 160.000 đồng/1 con. Thức ăn cho tôm hùm rất dễ kiếm, chủ yếu là cá tạp, ghẹ dăm, cua, sò… khai thác tại chỗ. Chi phí tiền thức ăn cho mỗi lồng khoảng 15.000 đồng/ngày, tính bình quân cho cả chu kỳ nuôi.

Với lợi nhuận cao, năm nay số lượng thả tôm hùm giống ở mỗi bè đều tăng gấp rưỡi so năm trước, các chủ bè đều tự tin cho vụ thu hoạch tôm thịt vào cuối năm.

THANH QUANG

 


Thủy sản Khánh Hòa: Chuyển hướng sang nuôi trồng

Nguồn tin: BKH, 26/02/2006
Ngày cập nhật: 27/2/2006

Trước tình hình nguồn thủy sản ven bờ ngày càng cạn kiệt, đánh bắt xa bờ đầu tư lớn, chi phí cao nhưng hiệu quả còn hạn chế, những năm gần đây, ngành Thủy sản Khánh Hòa đã chuyển mạnh hướng sang đầu tư nuôi trồng thủy sản (NTTS). Kết quả của NTTS thời gian qua đã chứng minh tính đúng đắn của sự chuyển hướng đầu tư ấy.

Từ năm 2001 đến nay, ngành Thủy sản đã được Trung ương đầu tư 6 dự án phát triển NTTS với tổng mức đầu tư hơn 155 tỷ đồng: Khu nuôi tôm công nghiệp Cam Thịnh Đông, Khu nuôi tôm công nghiệp dốc Đá Trắng, Khu trại giống quốc gia dốc Đá Trắng, Khu trại hải sản giống Sông Lô, Vùng sản xuất và kiểm định tôm sú giống Cam Lập (dự án này đã chuyển ra Ninh Vân) và Trại Thực nghiệm NTTS Ninh Lộc. Đây thực sự là nền tảng cho nghề NTTS của tỉnh. Một thuận lợi rất lớn cho NTTS của tỉnh là trên địa bàn tập trung những cơ quan nghiên cứu khoa học hàng đầu về thủy sản của cả nước: Đại học Thủy sản, Viện Nghiên cứu NTTS 3, Viện Hải dương học… Hơn ai hết, bà con ngư dân là những người nhạy bén nhất trong việc tiếp thu, triển khai những chuyển giao nghiên cứu của các cơ quan này. Nhiều hộ đã làm giàu khi sớm biết cách hợp đồng, khai thác chất xám của các nhà khoa học. Bên cạnh đó, công tác khuyến ngư của tỉnh đã được triển khai có hiệu quả.

Điều kiện đầu tư, ưu thế về khoa học cộng với đức tính sáng tạo, cần cù, năng động của ngư dân đã gặp nhau, làm cho ngành NTTS Khánh Hòa đạt hiệu quả cao. Diện tích NTTS toàn tỉnh tính đến giữa năm 2005 đạt 5.436 ha. Hiện nay, tỉnh đã đầu tư nhiều vùng nuôi tôm thâm canh với tổng diện tích khoảng 800 ha. Các vùng này có quy trình nuôi tiên tiến, năng suất ổn định với bình quân đạt trên 1,5 tấn/ha/năm. Đáng quan tâm là diện tích nuôi tôm sú của tỉnh hiện chỉ còn khoảng 4.100 ha, giảm trên 1.000 ha so với đầu năm. Trong khi diện tích nuôi tôm sú giảm thì đáng mừng là nghề nuôi các loại thủy sản khác đã phát triển đa dạng. Đáng kể nhất là nghề nuôi tôm hùm lồng của tỉnh đang trên đà phát triển. Đầu năm nay, tỉnh đã hoàn tất việc di dời lồng ra khỏi vịnh Nha Trang và đang đi vào ổn định. Hiện tại toàn tỉnh có 24.716 lồng, tập trung ở Vạn Ninh và Cam Ranh. Năm 2005, tổng sản lượng tôm hùm đạt 1.100 tấn. Sau nuôi tôm hùm là nghề nuôi nhuyễn thể với sản lượng 1.600 tấn vẹm và nghề nuôi rong sụn với sản lượng rong sụn khô 1.600 tấn. Nuôi trai lấy ngọc và nuôi cá bớp của Công ty Ngọc trai cũng cho kết quả khá, trong năm đã xuất khẩu được 420kg ngọc trai và 191 tấn cá. Có thể nói, nghề NTTS có phần đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu hàng năm của tỉnh.

Trung tâm Khuyến ngư đang triển khai đề tài nghiên cứu thử nghiệm nuôi tôm he chân trắng - một giống tôm mới, tính thích nghi môi trường cao. Hai mô hình thử nghiệm ở Nha Trang đã cho kết quả cao, hứa hẹn một hướng đi mới cho những người nuôi tôm. Bên cạnh đó, mô hình nuôi tôm sú thâm canh tại Vạn Ninh đã thành công với năng suất cao, ổn định, thực sự là tiền đề cho ngành NTTS Khánh Hòa giai đoạn 2005 - 2010.

NTTS của tỉnh đang mang lại hiệu quả kinh tế cao. Để phát triển nghề nuôi ổn định và bền vững, thân thiện với môi trường, ngành Thủy sản tỉnh cần chú trọng công tác quản lý quy hoạch. Việc mở rộng quy mô diện tích và nâng cao sản lượng cần được thực hiện đồng bộ từ khâu sản xuất giống, kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh, thu hoạch và chế biến.

THỦY NGÂN

 


Nam Phú (huyện Tiền Hải, Thái Bình): xã "tỉ phú"

Nguồn tin: SGTT, 26/2/2006
Ngày cập nhật: 27/2/2006

Là xã mới thành lập từ vùng đất bãi bồi ven biển, song Nam Phú (huyện Tiền Hải) là địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất tỉnh Thái Bình: trên 14%/năm và hàng năm nộp ngân sách hơn 5 tỷ đồng. Xã hiện có gần 100 chủ đầm nuôi trồng thủy hải sản có thu nhập từ 300 triệu đồng/năm trở lên. Người dân trong tỉnh vẫn gọi Nam Phú là xã... "tỷ phú".

Ấn tượng đầu tiên khi chúng tôi tới xã Nam Phú là sự giàu có, trên 90% số hộ trong xã có nhà xây mái bằng kiên cố, nhiều nhà cao tầng mọc lên san sát; trường học, trạm y tế... khang trang sạch đẹp; đường làng được bêtông hoá len lỏi tới từng hộ gia đình. Nam Phú như một "phố biển" đang chuyển mình. Ông Đăng Văn Khương- Bí thư Đảng ủy xã khẳng định: “có được bộ mặt nông thôn như ngày nay là nhờ xã phát triển nghề nuôi trồng thủy hải sản... Chỉ riêng nghề này, hàng năm đã mang lại cho xã doanh thu từ 30 đến 40 tỷ đồng”.

Nam Phú có trên 1.000 hộ, với gần 5.000 khẩu; tổng diện tích đất sản xuất nông- ngư nghiệp gần 1.200 ha; trong đó diện tích vùng đầm ven biển gần 900 ha. Trước đây, diện tích vùng đầm ven biển chủ yếu chỉ được khai thác tự nhiên nên hiệu quả kinh tế không cao. Còn trên 90% diện tích đất nông nghiệp bị nhiễm chua mặn, rất khó khăn trong sản xuất... Vì vậy, đời sống của nhân dân trong xã gặp muôn vàn khó khăn.

Trước thực trạng trên, xã đã xác định: Chỉ có thể chuyển đổi và quyết tâm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thì mới đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Đầu năm 2002, được sự đồng ý của tỉnh và huyện, xã đã quy hoạch diện tích vùng đầm ven biển cho 120 hộ đấu thầu để nuôi trồng thủy hải sản; đồng thời, chuyển 60 ha diện tích đất cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi tôm, cua... Sau một năm, đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, bình quân 1 ha chuyển đổi mang lại thu nhập hơn 100 triệu đồng, gấp 10 lần so với trước.

Gia đình anh Phạm Huy Thục (thôn Bình Thành) có 50 ha đầm nuôi ngao, mỗi năm thu nhập trên 1 tỷ đồng. Anh Thục cho biết, việc nuôi ngao khá đơn giản, bà con chỉ việc khoanh vùng đầm bãi, thả ngao giống xuống, canh coi sau hơn một năm rồi thu hoạch. Ngao sống được từ lượng phù du có sẵn trong nước biển mỗi khi thuỷ triều lên, không cần phải bổ sung thêm thức ăn. Anh Phan Văn Khôi (thôn Thủy Nạt) có 6 sào đầm chuyển đổi từ diện tích đất cấy lúa kém hiệu quả, đang tất bật chăm sóc vùng đầm của mình. Anh Khôi cho biết: “trừ mọi chi phí, mỗi năm gia đình tôi cũng thu lãi hơn 30 triệu đồng từ vùng đầm này"...

Dẫn chúng tôi ra thăm vùng đầm nuôi trồng thủy hải sản của xã, ông Chủ tịch Vũ Xuân Thủy tâm sự: “Cũng như nhiều xã ven biển mới thành lập khác, trước đây Nam Phú là một trong những xã nghèo nhất của huyện Tiền Hải. Thế rồi 5 năm trở lại đây, mọi sự đã đổi thay kể từ khi xã phát triển nuôi trồng thủy hải sản, khai thác mọi tiềm năng kinh tế biển”. Năm 2002, xã còn tới hơn 15% hộ nghèo, đến nay con số này giảm xuống chỉ còn dưới 5%. Đặc biệt, số hộ khá và giàu tăng lên nhanh chóng, chiếm trên 70% tổng số hộ trong xã; thu nhập bình quân đầu người đạt gần 8 triệu đồng/năm. Nhiều hộ đã trở thành tỷ phú từ phát triển nuôi trồng thủy hải sản, như gia đình anh Phạm Văn Cường (thôn Bình Thành) có 100 ha đầm, doanh thu mỗi năm trên 8 tỷ đồng; gia đình chị Phạm Thị Huê có gần 40 ha đầm, doanh thu mỗi năm trên 3 tỷ đồng… Cũng theo ông Thủy cho biết: để thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm, xã đang tiến hành quy hoạch chợ đầu mối tiêu thụ thủy sản, bến xe, trại sản xuất giống…

Theo TTXVN

 


Đến sông Trà bắt cá bống

Nguồn tin: SGGP, 24/2/2006
Ngày cập nhật: 27/2/2006

Cá bống kho tiêu từ lâu trở thành món ăn truyền thống trên mâm cơm của người Việt Nam, đặc biệt người dân vùng sông nước Trà giang có món cá bống chỉ ăn một lần là nhớ mãi. Bây giờ không phải chính vụ mùa bắt cá bống, nhưng chúng tôi vẫn theo chân những người đi bắt loại cá bống cát ở sông Trà Khúc, mới biết nghề bắt cá bống lắm công phu, còn món cá bống sông Trà đang dần mai một.

Đặt ống bắt bống

Chờ lúc trời gần sáng, khi thủy triều xuống thấp nhất, tôi cùng anh Nguyễn Văn Thạnh, một người chuyên làm nghề bắt cá bống ở vùng Tịnh Long, Quảng Ngãi mang những ống tre làm dụng cụ bắt cá lên đường.

Nước sông Trà Khúc mùa này khá lớn. Xung quanh chúng tôi, những người chuyên làm nghề bắt cá bống cũng bắt đầu vác những ống tre ra sông. Trời chưa sáng rõ nên không nhìn thấy mặt người, chỉ nghe tiếng nói chuyện âm vang một khúc sông.

Vác đống ống tre trên vai, anh Thạnh lội ra gần giữa sông, chọn chỗ lạch sông vừa tầm ống nhẹ nhàng cắm từng chiếc ống trống xuống mặt nước. Nguyên tắc cắm loại ống trống bắt cá bống là cắm từng chiếc ống theo từng hàng ngang nhau, thẳng góc với dòng nước, cách đáy sông khoảng 3 tấc, ống này cách ống kia chừng 2 mét rồi chờ đến sáng hôm sau thu hoạch cá. Theo anh Thạnh, mùa này không phải là mùa chính vụ bắt cá bống, nhưng vẫn có cá dù số lượng không nhiều.

Dụng cụ bắt cá bống là chiếc ống tre dài khoảng 1mét, có chừa đốt ở giữa đoạn, trống hai đầu, dùng một cọc nhọn cắm xuống nước, cho cá chui vào ở. Đúng mùa thả ống vào khoảng tháng Tám âm lịch. Khi các guồng xe nước phía trên thượng nguồn bắt đầu dọn lại để tránh mùa mưa lũ là lúc cá bống bắt đầu mùa đẻ trứng. Nước sông Trà vào mùa cạn chỉ ngập đến thắt lưng, thích hợp cho cá bống chọn chỗ đẻ trứng ở đoạn nước cạn, nước trong và đứng nước.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi theo anh Thạnh đi trút ống, với chiếc giỏ tre (gọi là chiếc “vịt”) đan bằng nan tre để đựng cá. Khi bắt cá, người bắt đưa hai tay nhè nhẹ bịt lấy hai đầu ống mang lên khỏi mặt nước rồi trút nhanh vào chiếc “vịt”. Xong, lại cắm ống về vị trí cũ.

Những cử động của người trút ống hết sức nhẹ nhàng, nhanh tay để tránh gây tiếng động dễ làm cho cá ở trong các ống khác chạy trốn. Sáng đó, 10 chiếc ống tre của anh Thạnh chỉ thu có được hơn ký cá. Anh Thạnh cho biết, bây giờ không đúng mùa, cá ít nên chỉ có vài người còn đi đặt ống, chứ đúng dân chuyên khai thác cá bống ở làng anh đã ra Quảng Nam làm nghề từ hơn tháng nay.

Đặc sản “ Trà giang sa ngư” Món cá bống kho tiêu từ lâu đã trở thành đặc sản của đất Quảng Ngãi. Cá bống cát thân mập tròn, đầu nhỏ, con nhỏ hơn đầu đũa, có màu vàng nhạt đến vàng ươm là loại ngon nhất. Món ăn được chế biến qua nhiều công đoạn. Cá đem về đánh vảy, lấy hết ruột, đem bỏ vào chiếc rổ tre rồi rắc muối hột lên trên, chà cho sạch hết vảy, rửa cá thật sạch, đem bỏ vào chiếc tô và ướp nước mắm ngon độ nửa giờ mới đem kho.

Sau khi ướp, bỏ cá vào chiếc niêu đất, tráng một lớp dầu ăn, cho thêm ít nước mắm cho xăm xắp rồi đun lửa nhỏ đến lúc chín. Sau dùng đôi đũa tre trộn cá thật đều, rắc tiêu bột và nước màu lên mặt, um hơi cho nước màu và tiêu ngấm vào cá. Con cá phải đạt được yêu cầu dai, thơm, vị mằn mặn ăn với cơm trắng, mùi thơm khó chối từ.

Thương con cá bống sông Trà

Ở quanh sông Trà thuộc vùng Tịnh Long này, trước đây, những người chuyên đặt ống cá bống khoảng vài chục, nay chỉ còn trên dưới mười người. Số người chuyên khai thác cá bống cát từ Tịnh Hà đến Tịnh Long của huyện Sơn Tịnh đã giảm rõ rệt do từ ngày có đập Thạch Nham, nước sông Trà mùa nắng rất cạn, nguồn nước lại bị ô nhiễm do chất thải của các nhà máy, cùng tình trạng khai thác quá mức đã làm cá bống sông Trà trở thành của hiếm.

Ở chợ Quảng Ngãi, mỗi ký cá bống cát có khi lên đến 80 ngàn đồng. Cá bống cát giá cao, những nhà hàng có bán đặc sản Quảng Ngãi, mỗi hũ cá bống kho tiêu 250g được bán với giá 40 – 50 ngàn đồng.Anh Thạnh bảo, nhiều quán ăn ở thành phố Quảng Ngãi bán cá bống kho sẵn, đóng trong từng hũ nhựa có bao bì, nhãn hiệu cá bống sông Trà, nhưng đó có thể là sự trộn lẫn của nhiều loại cá bống khác nhau.

Cá trên sông không còn nhiều, mấy tháng gần đây, dân chuyên bắt cá bống ở Sơn Tịnh ra vùng hồ Phú Ninh, Quảng Nam khai thác cá bống bằng loại lưới ngao mang về Quảng Ngãi bán cho các quán ăn, nhà hàng với giá khoảng 25 – 30 ngàn đồng mỗi ký.

Những quán ăn mua về kho tiêu, trộn một ít với cá bống cát sông Trà để bán lại cho khách du lịch. Chỉ người sành ăn mới nhận biết từng loại cá bống. Cá bống ở Quảng Nam mình rỗ hoa, hoặc xám đen, thân lép, thịt bở nên không ngon bằng cá bống sông Trà. Chỉ thương những người khách du lịch hăm hở mua cá bống về làm quà cho người thân, nhưng làm sao nhận biết được đâu là cá bống của sông Trà, đâu là cá bống đất Quảng.

Anh Thạnh thở dài: “Cá sông Trà còn ít quá, rồi đặc sản Quảng Ngãi trên bao bì mỗi hũ cá bống chỉ còn là hình thức thôi...”. Nghe anh Thạnh nói, giờ mới thấy thương con cá bống vùng sông nước Trà giang.

HOÀNG NHUNG

 


Cá sấu tại Cà Mau khó tiêu thụ

Nguồn tin: NLĐ, 26/2/2006
Ngày cập nhật: 27/2/2006

Theo số liệu thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh Cà Mau, hiện toàn tỉnh có khoảng 15.000 con cá sấu đã đến độ tuổi xuất chuồng, chiếm 80% trên tổng số đàn của toàn tỉnh.

Giá bán cá sấu thịt hiện tại từ 80.000 đồng – 100.000 đồng/kg, giảm 50% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng vẫn rất khó bán. Nguyên nhân chủ yếu là do các hộ chăn nuôi đều nuôi tự phát, con giống không rõ nguồn gốc. Vì vậy dẫn đến chất lượng da cá sấu kém, không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

Đ.Khánh

 


“Yếu tố Bến Tre” đang được bộ thủy sản nhân rộng

Nguồn tin: WBTre, 24/2/2006
Ngày cập nhật: 26/2/2006

Ngày 11/2/2006, nhân chuyến về thăm và làm việc tại Bến Tre, Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc đã nói đến “yếu tố Bến Tre” đang được Bộ Thủy sản chuẩn bị nhân ra trong cả nước. Đó là mô hình tổ hợp tác nuôi tôm công nghiệp và tổ chức đánh bắt thủy sản bằng tổ, đội tàu luân phiên, khép kín.

Cách nay 5 năm, bên cạnh nghề nuôi tôm sú theo phương pháp quảng canh cải tiến, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành thủy sản tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đầu tư nuôi tôm công nghiệp, cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Lúc đầu, diện tích nuôi tôm công nghiệp chỉ có 16 ha, ở xã Thạnh Phước (Bình Đại), sau đó tăng lên vài trăm ha và ở rải rác, chưa hình thành vùng nuôi rộng và tập trung theo dự án như hiện nay. Nét mới của mô hình nầy ở Bến Tre là người dân không bị mất đất như một số tỉnh khác trong vùng ĐBSCL. Đó là nhờ chủ trương của tỉnh khuyến khích sự hợp tác giữa bốn nhà: nhà nông đưa đất vào hùn vốn nuôi tôm hoặc cho thuê đất lấy tiền rồi hùn vào; nhà doanh nghiệp góp vốn và là người tiêu thụ sản phẩm sau khi thu hoạch; nhà kỹ thuật (các kỹ sư thủy sản) hỗ trợ về kỹ thuật nuôi, chăm sóc tôm và cuối cùng là nhà băng (ngân hàng) cho vay tiền.... Nhờ vậy, mô hình nầy đã phát triển rất nhanh, đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 108 tổ hợp tác nuôi tôm công nghiệp, diện tích lên đến 6.500ha, vượt 18,2% so nghị quyết, thu hút được nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh tham gia, góp phần đưa sản lượng nuôi thủy sản đạt 66 ngàn tấn (2005), trong đó tôm biển chiếm trên 25 ngàn tấn...

Đối với mô hình đánh bắt thủy sản được tổ chức theo hình thức tổ, đội tàu luân phiên, quay vòng, Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc đặc biệt chú ý vì nó thích hợp trong thời điểm giá xăng dầu tăng cao trong năm 2005 và hiện nay vẫn còn ở mức cao, làm đội chi phí sản xuất của ngư dân. Ở Bến Tre, Công ty XNK Lâm thủy sản là doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện thành công mô hình nầy. Sau cơn bão số 5 (1997), Xí nghiệp chế biến lâm sản Bến Tre (tiền thân của Công ty XNK Lâm thủy sản hiện nay), vốn không liên quan gì đến chuyện tôm cá, bỗng nẩy ra ý tưởng đóng tàu đánh bắt xa bờ. Được UBND tỉnh cho phép, Xí nghiệp đã vay trên 37 tỉ đồng, đóng 17 chiếc tàu, công suất 380CV/chiếc, tổ chức thành tổ, đội, gồm có tàu khai thác và tàu hậu cần, khai thác thủy sản xa bờ. Các tàu khai thác trong một thời gian nhất định, thì gom sản phẩm lại chuyển cho tàu hậu cần từ bờ ra chở về bán ngay trong thời điểm có giá cao, đồng thời tiếp tế thêm lương thực, thực phẩm, xăng dầu... cho tàu khai thác tiếp tục đánh bắt. Cách làm nầy, tàu khai thác bám biển liên tục, dài ngày và đặc biệt là sản phẩm không bị ướp lạnh quá lâu (thường thì mỗi chuyến biển mất một tháng mới vào bờ). Do đó tôm cá tươi và bán được giá cao hơn.

Nhờ có phương pháp quản lý và khai thác tốt, chỉ 3 năm sau, Xí nghiệp đã trả hết vốn vay và chuyển lên thành lập Công ty, đồng thời được UBND tỉnh chấp thuận cho mở rộng ngành nghề sản xuất, kinh doanh, xây dựng nhà máy chế biến thủy sản Ba Lai, ở thị trấn Châu Thành, công suất 6.000 tấn/năm, vốn đầu tư trên 67 tỉ đồng, là một trong những nhà máy có công nghệ hiện đại nhất tỉnh hiện nay.

Ở Bến Tre, Công ty XNK Lâm thủy sản hiện là con chim đầu đàn của ngành thủy sản, góp phần cùng các đơn vị trong ngành chiếm ½ kim ngạch xuất khẩu của tỉnh: năm 2005 đạt 46 triệu USD và chỉ tiêu năm 2006 là 53 triệu USD...

 


Việt Nam được xuất khẩu 24.000 con cá sấu

Nguồn tin: TTXVN, 24/2/2006
Ngày cập nhật: 26/2/2006

 


Phát triển công nghệ sản xuất giống thủy sản

Nguồn tin: QDND, 25/2/2006
Ngày cập nhật: 26/2/2006

Mấy năm nay, công nghệ chọn tạo, nhân giống thủy sản; các chương trình sản xuất giống nhằm khai thác, sử dụng nguồn gen bản địa và giống nhập nội phục vụ đa dạng hóa sản phẩm nuôi... được triển khai tích cực, hiệu quả. Đến nay, (theo Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Việt Thắng) cho biết, khoa học và công nghệ (KH&CN) về giống thủy sản và các chuyên ngành liên quan như thức ăn và dinh dưỡng; quản lý sức khỏe ấu trùng và môi trường nuôi... đã tiếp cận và giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Công tác KH&CN về giống đã được Bộ Thủy sản đẩy mạnh (bằng nhiều giải pháp đồng bộ), như: Chỉ đạo tăng cường bổ sung nhân lực và trang thiết bị cho các tổ chức KH&CN trong ngành. Tập trung nguồn lực chủ yếu cho nghiên cứu cơ sở khoa học bảo tồn qũy gen; nghiên cứu thuần hóa giống nhập nội; nâng cao chất lượng giống đối với các loài cá nước ngọt; nghiên cứu công nghệ sinh sản nhân tạo một số đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao và qúy hiếm; tổ chức bảo tồn đàn giống và hoàn thiện công nghệ sản xuất giống. Đầu tư cho công tác chuyển giao công nghệ sản xuất giống các loài thủy sản nội địa từ các cơ sở nghiên cứu trong nước đến từng địa phương; nhập khẩu công nghệ sản xuất giống (đối với một số loài thủy sản có giá trị) của nước ngoài..

Bộ Thủy sản đã tích cực triển khai đầu tư xây dựng hệ thống trạm, trại giống thủy sản, mở rộng quản lý lưu giữ những đàn giống gốc chất lượng tốt, cung cấp đàn hậu bị cho các địa phương, tham gia chuyển giao các tiến bộ KH&CN về giống thủy sản. Nhiều dự án sản xuất giống khác với các đối tượng nuôi nước lợ, mặn, ngọt (bằng các nguồn vốn khác nhau), cũng đã và đang được thực hiện tại nhiều địa phương, từ miền biển đến miền núi...

Theo số liệu thống kê (chưa đầy đủ), hiện nay, cả nước đã có hơn 500 trại giống thủy sản nước ngọt, sản xuất khoảng 12 tỷ con giống/năm (riêng ở miền Tây Nam Bộ có 145 trại, mỗi năm cung cấp 4 tỷ con giống cá da trơn (cá tra, ba sa), hơn 5000 trại giống tôm sú (sản xuất hơn 20 tỷ con giống/năm) và hàng nghìn trại giống sản xuất giống các loài cá biển, giáp xác, động vật thân mềm, bò sát, lưỡng cư... cung cấp con giống phục vụ nhu cầu phát triển nuôi trồng của nhân dân ở các vùng sinh thái khác nhau. Công nghệ sản xuất những giống cá nước ngọt chủ lực đã được phổ thông hóa, người dân và doanh nghiệp đã có thể tự sản xuất con giống...

Nhìn chung, công tác giống đã đáp ứng tương đối tốt nhu cầu của sản xuất. Đặc biệt là, các nhà khoa học đã tạo được một số đối tượng thủy sản nước ngọt mới có năng suất cao như cá Chép lai, Trê lai, Rô phi dòng GIFT; chọn giống và nghiên cứu thành công công nghệ sinh sản nhân tạo một số đối tượng thủy sản quý hiếm, có giá trị kinh tế cao (như các loài cá Song, cá Giò, cá Lăng, tôm Sú, tôm Rảo, cua biển, ghẹ, trai ngọc , hàu, sò huyết, ốc hương, vẹm xanh....). Một số loài khác, có giá trị kinh tế cao (như cá Mrigal, cá Rohu, Vược, cá Chim trắng nước ngọt...) đã được di giống thuần hoá thành công. Loài rong Sụn đỏ, một đối tượng có giá trị kinh tế, được du nhập, thuần và nhân giống hơn 10 năm nay, đã phát triển tốt ở các loại thủy vực nước mặn khác nhau (Nam Trung Bộ, Nam Bộ), tạo nguồn sản phẩm xuất khẩu có giá trị và khối lượng lớn.

Các tiến bộ về công nghệ sản xuất giống đã giúp giải quyết được phần lớn số lượng giống cho nhu cầu nuôi trồng, nhất là các đối tượng nuôi xuất khẩu đang giữ vị trí "chủ lực" như tôm Sú, cá Tra-Ba sa, tôm càng xanh... Hơn nữa, đã có những thành công trong những nghiên cứu công nghệ sản xuất giống rất độc đáo-chẳng hạn như ứng dụng công nghệ sản xuất tôm càng xanh toàn đực để đưa vào nuôi thương phẩm (vì con cái tăng trưởng chậm); hoặc công nghệ chuyển giới tính cá Rô phi, tạo ra hàng loạt cá đơn tính đực (để khắc phục nhược điểm cá đẻ nhiều lần trong năm, kích cỡ nhỏ, năng suất thấp)... đã tạo ra năng suất và hiệu quả kinh tế cao, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.

Chúng ta cũng đã làm chủ được công nghệ sản xuất giống các loài vi sinh vật, tảo biển làm thức ăn tươi sống cho ấu trùng (tôm cá), sử dụng loài vi tảo biển phân bố tự nhiên trong vùng biển nuớc ta, kết hợp với du nhập các giống vi tảo tốt từ bên ngoài bảo đảm có đủ bộ giống vi tảo làm thức ăn trong giai đoạn ương nuôi ấu trùng. Đây là một đóng góp có ý nghĩa quyết định nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng, đưa các công nghệ sản xuất giống thuỷ sản trở nên dễ áp dụng cho người dân và nâng cao hiệu quả kinh tế trong khâu sản xuất con giống.

Bên cạnh những nghiên cứu ứng dụng thành công các công nghệ sản xất giống thủy sản; các tiến bộ kỹ thuật quan trọng như ứng dụng sinh học phân tử và miễn dịch trong phòng và trị bệnh nguy hiểm đối với tôm, cá; kỹ thuật nhân giống vi sinh vật và nuôi tảo trong nuôi dưỡng ấu trùng; sử dụng chế phẩm sinh học để tăng khả năng chống chịu bệnh của vật nuôi trong quá trình thâm canh... đã được phổ cập vào thực tiễn sản xuất. Những kết quả nghiên cứu về các phương pháp bảo quản lạnh tinh động vật thủy sản cũng đã góp phần tích cực cho công tác chọn giống và bảo quản quỹ gen các loài quý hiếm.

Trong những năm tới, KH&CN về giống thủy sản sẽ hướng tới những đầu tư phát triển công nghệ cao, ứng dụng công nghệ sinh học... Đã có những ý kiến (của các nhà khoa học) đề xuất: Cần tiếp tục đầu tư xây dựng và nâng cấp các phòng thí nghiệm để có khả năng nghiên cứu tốt hơn các vấn đề có liên quan đến sản xuất giống thuỷ sản. Tập trung nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất giống đối với những đối tượng có lợi thế thị trường, những đối tượng nuôi trồng mới có giá trị và chú ý những đối tượng bản địa để làm phong phú mặt hàng xuất khẩu. Tiếp tục các hướng bảo tồn và khai thác quỹ gen, nâng cao chất lượng di truyền của một số đối tượng thủy sản nuôi có giá trị kinh tế. Cùng với việc bảo tồn nguồn gen động vật thủy sản sống, cần từng bước phát triển ngân hàng bảo quản lạnh; xây dựng ngân hàng gen vi sinh vật và vi tảo phục phụ sản xuất thức ăn tươi sống cho nuôi trồng; sản xuất chế phẩm sinh học phục vụ quản lý sức khỏe động vật thủy sinh và môi trường...

Thiều Thục Oanh (tổng hợp)

 


Nuôi cá hồi ở Lâm Đồng

Nguồn tin: TT, 25/2/2006
Ngày cập nhật: 25/2/2006

Dự án đưa cá hồi và cá tầm nga lên nuôi ở cao nguyên Lang Bian vừa được Viện Nghiên cứu thủy sản (Bộ Thủy sản) cùng tỉnh Lâm Đồng triển khai với qui mô lên đến 25ha mặt nước.

Cá tầm nga và cá hồi sẽ được nuôi thử nghiệm trong bè tại các hồ Tuyền Lâm, Đa Thiện, Suối Vàng, Quảng Hiệp và một số ao hồ ở vùng sâu K’Long K’Lanh. Lâm Đồng dự tính đầu tư 1 tỉ đồng cho cuộc khảo nghiệm trên, bên cạnh hỗ trợ từ Viện Nghiên cứu thủy sản.

Theo các chuyên gia, nếu thành công giá trị kinh tế của 25ha mặt nước nuôi cá hồi, cá tầm nga sẽ tương đương 2.500ha mặt nước nuôi cá ở dưới xuôi.

N.H.T. - BÍCH VÂN

 


Cà Mau: Gần 97.000 ha nuôi tôm sú bị thiệt hại

Nguồn tin: TN, 24/2/2006
Ngày cập nhật: 25/2/2006

Ông Phạm Văn Đức, Giám đốc Sở Thủy sản ngày 23.2 cho biết hiện toàn tỉnh có gần 97.000 ha nuôi tôm sú bị thiệt hại với mức độ từ 20 - 80%, chủ yếu là tôm nuôi theo mô hình quảng canh, chiếm tỷ lệ hơn 40% tổng diện tích nuôi trồng của tỉnh.

Nguyên do thời tiết thay đổi làm cho các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ pH, độ mặn thường xuyên thay đổi dẫn đến tình trạng sốc nhiệt độ, mầm bệnh dễ phát sinh và sức đề kháng yếu gây ra tôm chết. Hiện các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu ở Cà Mau chỉ hoạt động cầm chừng khoảng 40 - 50% công suất do thiếu nguyên liệu. Dự báo tình trạng thiếu nguyên liệu sẽ kéo dài ít nhất 2 tháng nữa.

Thanh Trang

 


Đồng Nai: Tạm ngừng nuôi cá trên lòng hồ Trị An

Nguồn tin: LĐ, 24/2/2006
Ngày cập nhật: 25/2/2006

 


Vụ tôm 2006: Nợ khó đòi, người nuôi "khát" vốn

Nguồn tin: LĐ, 24/2/2006
Ngày cập nhật: 24/2/2006

 


Đồng bằng sông Cửu Long: "Chúa Chổm" vì tôm

Nguồn tin: LĐ, 24/2/2006
Ngày cập nhật: 24/2/2006

 


Tìm thương hiệu cho cá thác lác

Nguồn tin: TN, 22/02/2006
Ngày cập nhật: 24/2/2006

Từ thành công của mô hình nuôi cá thác lác của nông dân Lê Văn Dũng, lãnh đạo tỉnh Hậu Giang đã thiết lập chương trình xây dựng thương hiệu cho loại cá này với hy vọng mang về một nguồn thu lớn.

Vua cá thác lác

Con đường vào ấp Vĩnh Lộc, xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy (Hậu Giang) được trải nhựa phẳng phiu nhưng khá hẹp. Từ ngoài đầu lộ, chúng tôi phải thuê xe ôm đi thêm nhiều cây số mới đến được trại sản xuất của nông dân Lê Văn Dũng, người nổi tiếng cả vùng với danh hiệu "Vua cá thác lác". Anh Dũng kể: "Thu nhập từ trồng trọt của tôi ngày càng xuống dốc vì giống cây thoái hóa, sản phẩm mỗi ngày một xấu mà thị trường thì cạnh tranh khốc liệt. Năm 2002, một người thân trong gia đình đang công tác tại Đại học Cần Thơ đến thăm, thấy vườn nhà tôi đất rộng mà cây cối xơ xác quá, bèn chỉ cách chuyển sang nuôi cá. Tôi bắt đầu nghề mới từ đó".

Nuôi cá tra một thời gian, anh Dũng nhận thấy lợi nhuận không cao mà đầu ra ngày càng khó khăn. Suy tính mãi, anh thấy chỉ có cá thác lác là "hàng hiếm", giá lại cao. Trở ngại duy nhất là trước nay chưa có ai nuôi loại cá này nên nguồn giống không có. Anh Dũng lại nhờ đến sự hỗ trợ của Đại học Cần Thơ để nắm quy trình lai tạo và sinh sản. Năm đầu tiên, anh đi tìm từng con cá đem về nuôi thử nghiệm. Kết quả là nuôi con nào chết con đó vì không có kinh nghiệm. Ròng rã hai năm trời, anh Dũng mới "tuyển" được vài chục con cá có thể trạng tốt. Số lượng cá bố mẹ ít ỏi này được anh "nâng niu" nuôi lớn rồi tiêm thuốc và cho thụ tinh nhân tạo. Cuối cùng, những con cá thác lác giống cũng ra đời.

Một năm sau, kỹ thuật nhân giống của anh đã hoàn thiện, một hệ thống máy hút trứng, ao nuôi được anh đầu tư hàng trăm triệu đồng. Với 1,6 ha ao nuôi, chỉ 1 năm sau anh đã cho sinh sản được trên 40.000 cá thác lác giống, có con nặng gần 7kg. Anh Dũng hồ hởi: "Cá giống của tôi không đủ bán. Chỉ riêng nhu cầu mà tôi nắm được đã lên đến 10 - 20 tấn/năm, trong khi khả năng của trại tôi chỉ khoảng 10 tấn".

Sau hai năm đầu tư vào cá thác lác giống, tiếng tăm của anh Lê Văn Dũng đã lan khắp ĐBSCL, doanh số trong năm qua lên đến 1,2 tỉ đồng, lợi nhuận hơn phân nửa. "Hầu hết các trại nuôi cá thác lác ở vùng này đều do tôi cung cấp giống" - anh Dũng cho biết. Trước nhu cầu thị trường còn quá lớn, anh dự định mở rộng quy mô trại thêm 4.000m2 nữa và nâng cao sản lượng.

Đặc sản Hậu Giang

Thành công của anh Dũng đã khiến nhiều nông dân ở Hậu Giang chuyển sang nuôi loại cá này. Ông Võ Văn Hiệp ở xã Vị Trung, huyện Vị Thủy (Hậu Giang) cho biết: "Loại cá này dễ nuôi mà giá trị cao, nếu so với cá tra thì lợi nhuận cao hơn nhiều". Mới năm đầu tiên chuyển sang nuôi cá thác lác nhưng ông Hiệp đã nắm chắc phần thắng. Ông kể: "Tôi thả nuôi khoảng 15.000 con, dự tính thu về khoảng 16 tấn, dù chưa đến kỳ thu hoạch nhưng đã có đơn vị đặt mua hơn phân nửa sản lượng với giá 65.000 đồng/kg. Như vậy có lãi rồi".

Ông Lê Văn Nhiều, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hậu Giang cho biết: "Vùng ĐBSCL có nhiều cá thác lác sinh sản, nhưng chỉ ở Hậu Giang thì loại cá này mới có được vị ngon và mùi thơm đặc trưng mà không ở đâu có được, chính vì vậy chúng tôi đã đưa cá thác lác vào chương trình "5 cây, 5 con" trọng điểm của tỉnh. Tỉnh sẽ mở rộng diện tích lên trên 500 ha, đưa hàng loạt các hộ nuôi cá vào vùng nuôi quy hoạch, đồng thời đầu tư kỹ thuật và vốn để đưa ra thị trường sản lượng lớn cá thác lác mang thương hiệu Hậu Giang". Ông Huỳnh Phong Tranh, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang cho biết: "Sau hai năm chia tách, Hậu Giang vẫn còn là một tỉnh nghèo. Tỉnh đã chú trọng phát triển các sản phẩm đặc trưng của địa phương như cá thác lác, khóm, bưởi... và đã tính ngay đến chuyện xây dựng thương hiệu. Đối với cá thác lác, vấn đề khó khăn nhất là thiếu giống. Ngoài trại giống lớn nhất tỉnh của ông Lê Văn Dũng, một số doanh nghiệp cũng đã bắt đầu tham gia vào lĩnh vực này để tạo nguồn cung cấp cá giống. Sau Tết Bính Tuất, chúng tôi đã làm việc với ngân hàng. Họ rất sẵn sàng cho vay đối với các mô hình nuôi cá thác lác bởi đầu ra tốt và đề án xây dựng thương hiệu cá thác lác Hậu Giang đang ngày càng khả thi".

Quang Thuần

 


Xây dựng các khu công nghiệp tôm giống

Nguồn tin: TTXVN, 23/02/2006
Ngày cập nhật: 24/2/2006

Ông Nguyễn Văn Thành, Phó Vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thuỷ sản, Bộ Thuỷ sản, cho biết hiện cả nước đã có 3 tỉnh xây được khu công nghiệp chuyên sản xuất tôm sú giống gồm Khánh Hòa, Ninh Thuận, Kiên Giang.

Ba tỉnh khác gồm Cà Mau, Bạc Liêu, Quảng Nam đang trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp và dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm nay.

Sáu tỉnh này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt mô hình khu sản xuất giống thuỷ sản tập trung theo hướng công nghiệp thuộc Chương trình phát triển giống thuỷ sản đến năm 2010. Theo quyết định, mỗi khu sẽ gồm 200-500 trại tôm giống, công suất mỗi trại đạt 10 triệu tôm giống/năm.

Tỉnh Bình Thuận tuy không nằm trong dự án do Chính phủ phê duyệt cũng đã xây dựng được khu công nghiệp tôm giống./.

 


Cty Hồng Công đầu tư 350.000 euro xây trung tâm giống thuỷ sản

Nguồn tin: TTXVN, 23/02/2006
Ngày cập nhật: 24/2/2006

Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi vừa đồng ý cho Công ty Aqualive Asia Ltd, trụ sở tại Hồng Công, đầu tư 350.000 euro thực hiện dự án xây dựng Trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống thuỷ sản tại thôn Trung Lý, xã Phổ Vinh, huyện Đức Phổ.

Việc thực hiện dự án này sẽ góp phần giải quyết con giống thuỷ sản phục vụ nhu cầu nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Những năm vừa qua trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã phát triển được 13 trại tôm giống, mỗi năm sản xuất đạt trên 105 triệu con giống, đáp ứng được 10% nhu cầu thả nuôi trong tỉnh./.

 


Chủ động nguồn cua giống

Nguồn tin: BBD, 23/2/2006
Ngày cập nhật: 24/2/2006

Trong năm 2006, Trạm thực nghiệm Nuôi trồng thủy sản (TNNTTS) Cát Tiến (Phù Cát) sẽ sản xuất cua giống để đáp ứng nhu cầu đang ngày càng khan hiếm. Ông Võ Đình Tâm - Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư và Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật thủ sản Bình Định đã nói về hướng nghiên cứu mới này như sau.

* Lâu nay người nuôi cua trong tỉnh lấy nguồn giống từ tự nhiên để nuôi cua thương phẩm. Nay Trung tâm lại tính toán đến việc sản xuất cua giống. Thưa ông, ngoài lý do đáp ứng nhu cầu của người nuôi cua liệu còn có lý do nào khác nữa không?

- Lâu nay, giống cua mà người dân nuôi để bán ra thị trường là lấy từ nguồn cua tự nhiên. Hàng năm từ tháng 4 đến tháng 7, ven đầm Thị Nại cua giống xuất hiện rộ lên. Tuy nhiên có năm cua xuất hiện nhiều, có năm lại ít nên người nuôi không chủ động được nguồn cua giống. Phụ thuộc hẳn vào tự nhiên nên không thể chủ động sản xuất. Mặt khác do người dân đã khai thác tự nhiên ráo riết nên đã làm ảnh hưởng xấu đến sự bền vững của nguồn lợi thủy sản.

Như vậy nếu sản xuất được cua giống chúng tôi sẽ giải quyết được nhu cầu con giống của bà con, giúp bà con chủ động mở rộng sản xuất góp, phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản, ổn định môi trường.

* Liệu nguồn cua giống do Trung tâm sản xuất có đảm bảo chất lượng; có phù hợp với cách nuôi cua lâu nay của bà con không, thưa ông?

- Công nghệ nhân giống mà chúng tôi sử dụng do Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 3 (Nha Trang) chuyển giao. Sản phẩm của quy trình công nghệ này sản xuất ra loại cua thích hợp với nước lợ và hầu như các ao hồ ở tỉnh ta đều thả nuôi tốt. Trước khi đưa ra bán rộng rãi cho người dân, Trung tâm sẽ xây dựng một vài mô hình nuôi cua thương phẩm thí điểm để khảo chứng. Theo kế hoạch mỗi năm Trạm sẽ sản xuất và cung ứng khoảng 50 vạn con giống cua biển bằng phương pháp nhân tạo.

* Liệu khi chủ động được con giống, mở rộng diện tích ra như vậy, việc nuôi cua có khiến xảy ra dịch bệnh như đã xảy ra với nghề nuôi tôm không?

Hiệu quả kinh tế do nghề nuôi cua không bằng nuôi tôm và một số loài thủy sản khác. Thế nhưng so với nuôi tôm hoặc nuôi các loại thủy sản khác thì cua kháng bệnh tốt hơn, mức an toàn đầu tư cao hơn.

Các nhà khoa học đang khuyến khích người dân nên nuôi cua, bởi con cua có khả năng cải tạo môi trường ao hồ rất tốt. Hiện nay toàn tỉnh có khoảng 2.500 ha nuôi trồng thủy sản, lâu nay người nuôi chỉ tập trung vào việc nuôi tôm nên các hồ đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, vì thế mà nhiều năm liền bị dịch bệnh xảy ra. Bên cạnh đó nuôi cua có thuận lợi là thả nuôi sau vụ thu hoạch tôm, để tận dụng thức ăn của vụ nuôi tôm còn sót lại. Cua rất thích ăn mùn bã hữu cơ, đây là chất có nhiều trong các hồ nuôi tôm và cũng là tác nhân gây nên ô nhiễm, dịch bệnh xảy ra.

* Xin cảm ơn ông.

Nguyễn Phúc (thực hiện)

 


Thương hiệu cho cá ngừ: Lễ hội cá ngừ ở Phú Yên bao giờ diễn ra?

Nguồn tin: BPY, 20/2/2006
Ngày cập nhật: 23/2/2006

Trong không khí dồn dập của nhiều lễ hội văn hóa- du lịch đầu năm diễn ra sôi động (Lễ hội về Đất tổ, Quảng Nam- một điểm đến, hai di sản văn hóa thế giới, Festival Đồng bằng sông Cửu Long…), nhiều người đã quan tâm như vậy, phần vì hy vọng đây sẽ là một lễ hội đặc biệt, phần quan trọng hơn, là xem sự quảng bá cho thương hiệu cá ngừ đại dương ra sao, ở “vùng đất cá ngừ đại dương” của Việt Nam.

Và, mới đây, Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc tuyên bố: Trong năm 2006, ngành thủy sản sẽ tập trung xây dựng cho được 3 thương hiệu: tôm sú, cá basa và cá ngừ đại dương. Chi tiết hơn, riêng về cá ngừ đại dương, Bộ còn cho biết: sẽ dành 7 tỷ đồng để thực hiện chương trình điều tra, đánh giá tình hình sản xuất chế biến và xuất khẩu, cùng việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vệ sinh thực phẩm tại các vùng đánh bắt cá ngừ đại dương lớn ở: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa…nhằm xây dựng thương hiệu cá ngừ Việt Nam. Chương trình được thực hiện đến tháng 11-2007. Riêng tại Phú Yên, trong năm nay lần đầu tiên tỉnh sẽ tổ chức lễ hội cá ngừ đại dương để tôn vinh những người đánh bắt xa bờ và quảng bá sản phẩm có giá trị kinh kế cao này.

Xin nói về việc xây dựng thương hiệu.

Trước hết là chuyện logo. Nhiều du khách đến Tuy Hòa thắc mắc: Hình cá ngừ cách điệu trên các trụ đèn ở khu phố mới Hùng Vương có phải là hình từ logo của thương hiệu cá ngừ đại dương Phú Yên không? Khi biết không phải, họ lấy làm rất tiếc, vì ở các nơi, logo một thương hiệu truyền thống, thương hiệu hàng đầu của địa phương bao giờ cũng được ưu tiên chiếm ngự ở những vị trí quan trọng trên đường phố chính.

Như chúng ta đều biết: Xây dựng thương hiệu là quá trình lựa chọn và kết hợp các thuộc tính hữu hình cũng như vô hình với mục đích để khác biệt hóa sản phẩm, để tăng tính hấp dẫn của sản phẩm, trong đó, việc xây dựng logo là hết sức quan trọng. Logo là hình ảnh nhận biết cơ bản của thương hiệu, cùng với việc xác định các lợi ích của thương hiệu, niềm tin cho thương hiệu, tính cách thương hiệu… là bước xác định cấu trúc nền móng của thương hiệu- bước đầu tiên của quá trình xây dựng thương hiệu.

Do vậy, cần sớm có một logo cho thương hiệu cá ngừ. Chắc chắn rằng, với kế hoạch của Bộ Thủy sản, sẽ có một logo cá ngừ Việt Nam trên thị trường thế giới. Còn ở địa phương, chúng ta có nên xây dựng một thương hiệu cá ngừ Phú Yên có logo riêng hay không? Đây là một vấn đề cần phải được cân nhắc kỹ.

Việc xây dựng thương hiệu cá ngừ không chỉ nhằm tăng sức cạnh tranh cho mặt hàng cá ngừ Việt Nam trên thị trường thế giới; mà để làm được điều đó, việc đánh bắt, bảo quản, chế biến cá ngừ phải được đầu tư phương tiện và công nghệ hiện đại để sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, vì thế ngư dân sẽ được lợi nhiều hơn. Tình trạng không có cơ quan nào của Việt Nam đứng ra xác định tiêu chuẩn, xếp loại chất lượng cá ngừ, mà việc này hầu như do các đại lý thu mua quyết định, như hiện nay, hy vọng sẽ chấm dứt.

Xây dựng thương hiệu cho cá ngừ, như đã được xác định, không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực từ Bộ Thủy sản, mà còn cần rất lớn từ sự hợp sức của các địa phương, vì thế mà, ý tưởng tổ chức lễ hội cá ngừ của Phú Yên đang được rất nhiều người đón đợi.

HUỲNH HIẾU

 


50% trại sản xuất tôm giống phải đóng cửa

Nguồn tin: BPY, 22/2/2006
Ngày cập nhật: 23/2/2006

Phú Yên là địa phương sản xuất giống tôm sú post với số lượng nhiều nhất trong các tỉnh duyên hải miền Trung. Lâu nay, ngư dân từ các tỉnh phía Nam đến Phú Yên mua tôm giống về để thả nuôi. Thế nhưng mùa này tôm post giống rớt giá thê thảm lại bán không chạy nên những người sản xuất tôm giống bị lỗ nặng. Hiện toàn tỉnh chỉ còn một nửa trong tổng số 160 trại sản xuất tôm giống còn hoạt động.

CÁC TRẠI TÔM GIỐNG LỖ NẶNG

Tại xã Bình Kiến (TP Tuy Hòa) có đến gần 60 trại sản xuất tôm giống và đây cũng là khu sản xuất tôm giống tập trung lớn nhất Phú Yên hiện nay. Các trại giống đều được đầu tư với quy mô hiện đại, mỗi năm sản xuất từ 10 – 100 triệu tôm sú post. Thế nhưng trong vụ sản xuất năm nay, đa số các trại tôm giống ở đây đều lâm vào cảnh lao đao, bởi tôm giống bố mẹ nhiễm bệnh bị chết hoặc đẻ kém. Thêm vào đó thời tiết, môi trường nước biến đổi xấu, gây ô nhiễm và làm tôm post chậm phát triển.

Thời gian qua, giá tôm post đang “rớt” thê thảm, chỉ còn 12-15 đồng/con, thấp nhất từ trước đến nay (giá tôm post bình thường dao động từ 30 –40 đồng/con). Hiện nay giá tôm đã nhích lên hơn 20 đồng/con, nhưng các chủ trại giống không mấy vui vẻ vì không có tôm giống để bán, vả lại người mua ở miền Nam yêu cầu đếm tôm post bằng “mẫu đôi” (nghĩa là bán 2 con tôm, chỉ tính tiền… 1 con)! Ông Phạm Trọng Thịnh - một người sản xuất tôm giống giỏi có tiếng ở khu trại giống Bình Kiến bức xúc: “Tôi thuê cơ sở trại giống này với 60 bể để sản xuất khoảng 70 – 80 triệu con/năm. Thế nhưng từ đầu năm đến nay, chỉ mới sản xuất được 2 triệu tôm post. Con giống làm ra vừa bán vừa cho nên lỗ nặng. Gần chục công nhân của trại làm ăn theo phương thức chia sản phẩm không có tiền lương, nên phải nghỉ việc. Hiện nay, tôi phải tự xoay xuở để sản xuất cầm chừng khoảng vài triệu post/đợt để giữ tôm giống bố mẹ, giữ bạn hàng, chứ bỏ trại thì biết làm gì”.

Ở các vùng sản xuất tôm giống tập trung như Gành Đỏ, Hoà An (huyện Sông Cầu), Hoà Hiệp (huyện Đông Hoà) cũng đang gặp nhiều khó khăn vì sản xuất giống bấp bênh, giá tôm giống lại thấp. Ông Nguyễn Hữu Đệ, chủ trại ở Gành Đỏ, xã Xuân Thọ 2 (Sông Cầu) nói: “Trại nào sản xuất nhiều thì càng lỗ vốn nặng, nếu không muốn nói là bị phá sản, nợ nần chồng chất”.

KHÓ CÓ THỂ “CỨU” CÁC TRẠI TÔM

Nhiều trại sản xuất giống tôm sú ở Bình Kiến đã đóng cửa im ỉm, các bể ương đều phơi đáy khô khốc trong nắng; rải rác một số cơ sở treo bảng “bán trại”! Hiện đã có trên 50% trại ngưng hoạt động. Nhiều chủ trại giống cho biết: Nghề sản xuất tôm giống bị rủi ro rất lớn. Nguy cơ phải bỏ trắng phần lớn các trại giống tôm trong thời gian lâu dài là điều khó tránh khỏi. Hiện một số trại đã chuyển sang sản xuất các đối tượng thuỷ sản khác như ốc hương, cua...

Nhiều trại giống ở Sông Cầu cũng lâm vào cảnh lỗ nặng, phải xả bỏ bể. Theo kỹ sư Nguyễn Thái Hải Anh – cán bộ Phòng Kinh tế huyện Sông Cầu, toàn huyện có 67 trại giống sản xuất với sản lượng 250 - 300 triệu tôm post/năm, nhưng vụ mùa này chỉ sản xuất được 60 triệu post. Hiện đã có hơn 60% trại ở địa phương này đã bỏ sản xuất tôm, số còn lại hoạt động cầm chừng.

Theo Viện Nghiên cứu thủy sản 3 (Bộ Thủy sản): Để sản xuất tôm giống có hiệu quả và bền vững, ngành thủy sản cần tăng cường các biện pháp quản lý, kiểm tra, kiểm dịch chất lượng nguồn tôm giống bố mẹ, tôm post, tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Hiện nay, đa số các trại giống không có kỹ sư nuôi trồng, mà chỉ có công nhân lành nghề, nên trình độ quản lý, sản xuất tôm giống chưa cao. Do vậy, để “cứu” các cơ sở sản xuất giống, ngành thủy sản quan tâm đào tạo đội ngũ kỹ sư thủy sản ở các trại giống để áp dụng các quy trình sản xuất giống hiện đại, có chất lượng, nhằm hạn chế thiệt hại do dịch bệnh, giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận kinh tế, đảm bảo ổn định sản xuất lâu dài.

NGUYÊN LƯU

 


An Giang phải làm đầu tàu phát triển ngành nuôi thủy sản cho ĐBSCL !

Nguồn tin: WAG, 22/2/2006
Ngày cập nhật: 23/2/2006

 


Cà Mau: Nhà máy chế biến tôm thiếu nguyên liệu

Nguồn tin: SGTT, 21/2/2006
Ngày cập nhật: 23/2/2006

 


Đông Hòa: Phấn đấu nuôi trồng thủy sản đạt sản lượng 1.450 tấn

Nguồn tin: BPY, 19/2/2006
Ngày cập nhật: 22/2/2006

Tại xã Hòa Hiệp Nam, UBND huyện Đông Hòa vừa triển khai thực hiện kế hoạch nuôi trồng thủy sản (NTTS) năm 2006. Mục tiêu của huyện trong năm là đưa tổng diện tích NTTS lên 1.050ha (trong đó diện tích nuôi tôm sú, thẻ 850ha), và sản lượng NTTS đạt 1.450 tấn.

Để đạt kết quả này, Đông Hòa đề ra các biện pháp chủ yếu là tổ chức xây dựng và thực thi quy chế quản lý vùng NTTS tập trung; quy hoạch lại các vùng nuôi theo hướng đa dạng hóa, luân canh, xen canh các loài nuôi. Đặc biệt huyện quy hoạch lại vùng hạ lưu sông Bàn Thạch thành 3 vùng nuôi luân canh 1 vụ lúa, cói và 1 vụ tôm với quy mô diện tích từ 100 – 150ha, nuôi cá và thủy đặc sản nước lợ từ 150 – 200ha, vùng chuyên nuôi tôm từ 700 – 800 ha. Các ngành chức năng của tỉnh, huyện cùng phối hợp hướng dẫn cho bà con các biện pháp xử lý môi trường, quản lý giống; phổ biến lịch thời vụ, mật độ thả nuôi, thông tin cảnh báo môi trường… UBND huyện tác động với ngành ngân hàng tìm biện pháp khoanh nợ cũ và có giải pháp cho vay vốn để người dân đầu tư vào NTTS đạt hiệu quả.

LƯU PHONG

 


Cá cơm xuất hiện dày, gần bờ

Nguồn tin: BPY, 19/2/2006
Ngày cập nhật: 22/2/2006

Những ngày qua cá cơm xuất hiện với mật độ dày, gần bờ tại các vùng biển Đông Hoà, Tuy An và Sông Cầu. Trung bình một tàu có công suất 20 – 50 CV mỗi đêm đánh bắt được 500 – 800 kg.

Theo những ngư dân lớn tuổi, đây là hiện tượng hiếm thấy bởi thông thường hàng năm cá cơm chỉ xuất hiện nhiều, gần bờ vào khoảng tháng 5 – 6 dương lịch. Hiện cá cơm trái vụ nên có giá rất cao, từ 9.000 – 10.000đ/kg, gấp đôi so với chính vụ. Do không phải đầu tư chi phí đánh bắt lớn nên sau mỗi chuyến biển, mỗi thuyền thu lãi từ 3 – 5 triệu đồng.

Hiện nay, các cơ sở chế biến nước mắm và chế biến cá cơm xuất khẩu đang tập trung đến các vùng biển Phú Yên để thu mua, các cơ sở chế biến cá cơm trong tỉnh cũng nâng công suất chế biến. Theo nhiều ngư dân, việc cá cơm xuất hiện sớm báo hiệu biển lặng, hứa hẹn một mùa đánh bắt bội thu, cho thấy môi trường biển Phú Yên đang dần cải thiện.

MINH NGUYỆT

 


Chưa chọn được logo cá tra, basa Việt Nam

Nguồn tin: SGTT, 22/2/2006
Ngày cập nhật: 22/2/2006

Chiều 21.2, tại thành phố Long Xuyên (An Giang), ban điều hành sản xuất và tiêu thụ cá tra, basa Việt Nam (gọi tắt là BĐH) đã thống nhất đề xuất Bộ Thủy sản cho triển khai 5 dự án: chất lượng - thương hiệu; thống kê - thông tin thủy sản; nghiên cứu khai thác tổng hợp 2 dòng sông Tiền và sông Hậu; xây dựng trung tâm kiểm nghiệm vùng ĐBSCL và nâng cấp hoạt động của các hội nghề cá các tỉnh ĐBSCL. Trong năm qua, ban điều hành đã đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện "chương trình hành động của ngành thủy sản vế chất lượng và thương hiệu cá tra, basa Việt Nam 2005 - 2010". Ngoài ra, thông qua cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) cho sản phầm cá tra, basa Việt Nam, hội đồng nghệ thuật đã họp thống nhất chọn ra logo cá tra, basa Việt Nam thông qua 215 tác phẩm dự thi. Lo go này sẽ được chính thức công bố vào quý II/2006.

Một nguồn tin thông thạo từ hai nghiên cứu sinh Việt Nam tại Bỉ cho SGTT biết, Chính phủ Thái Lan sẽ chi 20 triệu USD để tập trung nghiên cứu quy trình, hỗ trợ người nuôi cá da trơn xuất khẩu. Nguồn tin này cho rằng sự trù trừ khi đưa ra quyết sách phát triển cá tra, ba sa Việt Nam sẽ là cơ hội tốt cho Thái Lan.

Nguyễn Thủy - Hoàng Lan

 


"Hạn" nghêu giống

Nguồn tin: SGTT, 21/2/2006
Ngày cập nhật: 22/2/2006

Mùa nghêu năm nay, gần phân nửa ruộng nghêu thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ (TP.HCM) lại tiếp tục bỏ trống, dù nghêu thịt trên thị trường đang có giá, hút hàng. Trong tiếc rẻ, ông Nguyễn Văn Quang, cán bộ khuyến nông huyện nói: “Ở đây tụi tui sẵn sàng bỏ tiền tỉ để mua giống về, nhưng ngặt nổi nghêu giống không có thì đành bó tay thôi!”.

Gía nghêu giống lên tới ,1 tỉ đồng/tấn cao gấp 3 .lần so với năm 2000, người dân vẫn phải bấm bụng mua

Thị trấn Cần Thạnh hiện có 1.168 hecta diện tích đã phân lô, phân khu về các hợp tác xã để nuôi nghêu. Nhưng thực tế ba năm qua, khai thác chỉ có phân nửa, mùa vụ nào “đông tay” nhất thì được khoảng 3/4 diện tích. Như năm nay chỉ có 605 hecta diện tích trên lô một (lô gần bãi biển nhất) thả nghêu giống, còn lại phần lô hai, ba hoàn toàn bỏ trống. Ngay chính ở lô một, nhiều sân nghêu hàng chục hecta như của ông Ba Minh, ông Bảy Dũng mùa này cũng ngưng không thả. Ông Quang nói: “Chính ra phần sân ở lô hai, ba mới là nơi thả nghêu thuận lợi nhất, con nghêu mau lớn, chắc thịt, năng suất cao; nhưng vì thiếu giống nên bà con chỉ thả ở lô một để tiện việc coi sóc”. Tình trạng thiếu nghêu giống cũng xảy ra tương tự tại các địa phương như ở huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang; huyện Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú tỉnh Bến Tre. Diện tích nuôi trồng giảm do không có nghêu giống, trong khi giá nghêu thịt đang tăng và hút hàng khiến bà con đứng ngồi không yên.

Hiện tại giá nghêu giống mùa vụ năm nay, theo bà con huyện Cần Giờ đã lên đến 800 triệu đồng/tấn; cao gấp 3 lần so với thời điểm năm 2000. Giá cao nhưng bà con vẫn mua, vẫn chịu đi vay để có tiền đầu tư. Có những hộ như ông Bảy Q. đã phải mua giống với giá 1 tỉ đồng. Nhưng nghêu giống vẫn không đủ để nuôi thả. Nguồn nghêu giống mà Cần Giờ, Tiền Giang và một số tỉnh khác như Nam Định, Thanh Hóa đang nuôi thả là lấy từ Bến Tre. Trong khi tỉnh này trước nay khai thác nguồn nghêu giống từ thiên nhiên. Khi nguồn nghêu giống bị biến động, thị trường lập tức biến động theo.

Trong lo ngại, ông Trần Văn Hùng, phó giám đốc Sở Thủy sản tỉnh Bến Tre cho biết: “Mấy năm gần đây có hiện tượng con nghêu giảm sản lượng và rõ ràng nhất là mùa nghêu năm 2005 giảm tới 30-40%. Năm ngoái Bến Tre thu hoạch chỉ có 22.000 tấn nghêu thịt, trong khi mọi năm từ 30.000-40.000 tấn. Năm nay tôi e nghêu giống cũng sẽ giảm sản lượng và giá còn tăng”. Về nguyên nhân của việc giảm sản lượng, đến nay theo giải thích của Sở Thủy sản Bến Tre cũng chỉ có nguyên nhân chung chung là do ảnh hưởng thời tiết, môi trường. Tuần trước cơ quan này đã kết hợp với Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2 lấy mẫu nghêu, nước, cát... xét nghiệm các chỉ tiêu để tìm ra nguyên nhân cụ thể hơn.

Việc thiếu nghêu giống đã làm ảnh hưởng đến sản lượng nuôi trồng của các địa bàn và đẩy giá nghêu thịt tăng vọt. Năm 2000, giá nghêu thịt cân tại tàu từ 3.000-4.000 đồng/kg, năm 2004 tăng lên 8.000 đồng/kg và hiện nay là 13.000 đồng/kg. Gía bán ra trên thị trường cũng tăng từ 8.000 đồng kg lên tới 17.000-18.000 đồng/kg. Theo ghi nhận của Sở Thủy sản tỉnh Bến Tre, đã xuất hiện hiện tượng một số đơn vị xuất khẩu nghêu của tỉnh phải nhập ngược nghêu thịt từ Thanh Hóa, Nam Định về mới đủ nguồn cung cấp cho đối tác.

Thanh Dy

 


Sẽ sản xuất thí điểm 10 vạn con giống cua biển

Nguồn tin: BBD, 21/2/2006
Ngày cập nhật: 22/2/2006

Nhằm từng bước đa dạng hóa đối tượng nuôi và hướng đến những mô hình nuôi trồng thân thiện với môi trường, trong năm 2006, Sở Thủy sản sẽ đầu tư khoảng 170 triệu đồng để triển khai dự án sản xuất nhân tạo thí điểm 10 vạn con giống cua biển tại Trạm thực nghiệm Nuôi trồng thủy sản Cát Tiến (Phù Cát). Công nghệ nhân giống cua do Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 3 (Nha Trang) chuyển giao. Mục tiêu của dự án hướng tới, mỗi năm tại Trạm này sẽ sản xuất và cung ứng khoảng 50 vạn con giống cua biển bằng phương pháp nhân tạo (thay thế nguồn tự nhiên đang khan hiếm dần), để đáp ứng cho nhu cầu thả nuôi trong các cánh rừng ngập mặn.

Hưng Thịnh

 


Nghịch lý xuất khẩu nông, thủy sản đầu năm

Nguồn tin: SGGP, 17/2/2006
Ngày cập nhật: 22/2/2006

 


Chế phẩm từ cá tra bán chạy

Nguồn tin: SGGP, 22/2/2006
Ngày cập nhật: 22/2/2006

Khô cá tra phồng sản xuất tại thị xã Châu Đốc (An Giang) đang tiêu thụ mạnh với giá bán khá cao (giá xuất xưởng khoảng 35.000 - 36.000 đồng/ký).

Đại diện Công ty TNHH Trương Hải cho biết, 10 đại lý vệ tinh đóng trên địa bàn thị xã mỗi ngày tiêu thụ ngót một tấn khô.

Các phụ phẩm từ cá tra như bong bóng, bao tử cũng bán rất chạy. Bao tử hiện có giá bán 22.000 đồng/kg, bong bóng tươi giá 80.000 đồng/kg.

Các công ty chuyên doanh cá tra ở An Giang bắt đầu mở rộng quy mô sản xuất, thu hút hàng ngàn lao động tại địa phương.

TH.T


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang