Nuôi cá bống tượng đạt lợi nhuận cao
Nguồn tin: AG, 30/10/2006
Ngày cập nhật: 31/10/2006
Nông dân Huỳnh Văn Tây có trên 7 năm đam mê làm nghề nuôi cá bóng tượng. Nhiều lần thất bại trong quá trình nuôi, vậy mà giờ đây anh không chỉ nuôi cá thịt đạt hiệu quả mà còn ươm được con giống đạt chất lượng cao. Vừa rồi anh bán 2 đợt cá bóng tượng trên 300 kg, với giá 280.000 đồng/kg, thu nhập trên 80 triệu đồng. Hiện nay, anh đang thả nuôi đợt cá thịt mới và ươm thành công trên 50.000 cá bóng tượng giống, đang trong thời kỳ cung cấp giống cho người nuôi, với giá 1.000 đồng/con giống đúng chuẩn. Khách hàng hiện nay của anh Huỳnh Văn Tây ở nhiều tỉnh như: Cần Thơ, Đồng Tháp, Long An v.v... Ngoài cung cấp con giống, anh còn hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ nuôi cá bóng tượng. Có được kết quả đó là nhờ trước đây tự anh đi học hỏi nhiều nơi, tìm tài liệu nghiên cứu nuôi loại cá bóng tượng cho giá trị thương phẩm cao.
Xuân Giang
Bến Tre: Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, mua bán và nuôi tôm thẻ chân trắng
Nguồn tin: BCT, 30/10/2006
Ngày cập nhật: 31/10/2006
Ủy ban Nhân dân tỉnh Bến Tre vừa ban hành chỉ thị nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, mua bán và nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh. Việc này xuất phát từ yêu cầu đảm bảo cho nghề nuôi tôm sú trong tỉnh phát triển ổn định, ngăn chặn việc tự phát nuôi tôm thẻ chân trắng trong khi vật nuôi này còn đang ở giai đoạn nuôi thử nghiệm.
Được biết, hiện nay Công ty Xuất nhập khẩu Lâm thủy sản Bến Tre được cho phép nuôi khảo nghiệm tôm thẻ chân trắng ở huyện Ba Tri với diện tích nuôi 15 ha.
CAO DƯƠNG
Thức dậy vùng triều Giao Thủy
Nguồn tin: Nam Định, 30/10/2006
Ngày cập nhật: 31/10/2006
Với hàng nghìn ha bãi triều, tỉnh ta có tiềm năng rất lớn về nuôi trồng thuỷ sản, nhất là nuôi ngao. Từ việc nuôi thử nghiệm, nghề nuôi ngao ở các xã vùng triều huyện Giao Thuỷ đã phát triển mạnh, giúp người dân cơ hội làm giàu.
Về xã Giao Xuân (Giao Thuỷ) tìm hiểu nghề nuôi ngao, chúng tôi được người dân nơi đây kể nhiều về anh Nguyễn Văn Cửu. Anh là người đầu tiên ở Nam Định đưa con ngao về nuôi với số vốn hàng chục tỷ đồng và nhiều tài sản có giá trị khác, con ngao đã không chỉ giúp gia đình anh mà còn giúp nhiều hộ dân khác có cơ hội đổi đời. Anh cho biết: "Con ngao ở quê mình khi ấy vẫn chưa được nhiều người biết đến, chỉ thấy ruột của nó ăn rất ngon. Hồi đó, chưa có ai nuôi ngao vì ngao tự nhiên ngoài bãi rất nhiều, vẫn được trẻ con, người già đi cào về. Ngao bán ngoài chợ nhiều lắm, rẻ như bèo mà vẫn ít người mua. Nhưng ngao chỉ xuất hiện theo mùa, nhiều lúc muốn ăn lại không có, phải chờ đến mùa sau. Thế là tôi đặt câu hỏi: Tại sao mình không mua ngao của bà con rồi quây lại một vùng nuôi tiếp đến khi nào hết mùa ngao tự nhiên thì đem bán? Từ ý nghĩ đó, tôi quyết định nuôi thử nghiệm con ngao. Trước khi nuôi, tôi đã ba lần lặn lội sang các vùng Đông Nam Trung Quốc, như Đông Hưng, Kỳ Xá, Vạn Mỹ để tìm hiểu thị trường tiêu thụ". Bên cạnh việc tìm thị trường xuất khẩu, anh thử nghiệm mang ngao lên Hà Nội tiêu thụ thông qua các bà bán đồng nát. Nhớ lại những ngày "bén duyên" với con ngao, anh Cửu kể: "Khi ấy, không ít người Hà Nội còn chưa quen ăn ngao. Họ mua vì tò mò, nhưng ăn thấy ngon, dần thì thành quen". Vì thế, các bà bán đồng nát chuyển nghề sang bán ngao cho anh Cửu, với tiền lãi mỗi ngày cũng được hơn 10 nghìn đồng. Cơ hội tiêu thụ con ngao được mở ra.
Từ nuôi thử nghiệm, anh Cửu đã mở rộng diện tích nuôi ngao và làm đại lý thu gom sản lượng ngao không chỉ ở Giao Xuân mà cả các xã lân cận. Nhờ vậy, nghề nuôi ngao ở Giao Xuân phát triển mạnh, với mức lợi nhuận rất cao. Năm 2004, anh Cửu nuôi 42ha ngao, bảy ha sò cho thu hoạch 800 tấn, doanh thu hơn sáu tỷ đồng, lãi ròng hơn một tỷ đồng. Năm 2005, anh đầu tư thêm 10 tỷ đồng từ vốn tự có xây dựng Trung tâm sản xuất giống thuỷ sản Cửu Dung. Đến nay, trung tâm này đã sản xuất được ngao giống, từng bước đáp ứng nhu cầu con giống cho bà con trong vùng.
Bí thư đảng uỷ xã Giao Xuân Trần Văn Minh cho biết: Những năm 90 của thế kỷ trước, trên các bãi triều xuất hiện một số hộ dân cắm vây để nuôi ngao, thu gom trong dân mang đi bán. Nếu như ở xã Giao Lạc chỉ có ông Trịnh Ngọc Chỉ, thì ở xã Giao Xuân có các ông Nguyễn Văn Cửu, Lê Văn Khanh, Đoàn Danh Dự, Ngọc Điệp đi đầu về nuôi ngao. Sản lượng ngao của xã tăng từ 3000 tấn (năm 1991) lên 5000 tấn (1995), 10000 tấn (2005) có giá trị hàng trăm tỷ đồng. Cùng với nghề nuôi ngao thương phẩm, nghề thu gom ngao giống ở các xã vùng triều của huyện Giao Thuỷ đã giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn lao động. Phó Giám đốc Sở Thuỷ sản Nam Định Nguyễn Quang Trực cho biết: Đến nay, diện tích nuôi ngao vùng triều của tỉnh đạt 1000ha, trong đó huyện Giao Thuỷ có 700ha, Nghĩa Hưng 300ha. Lượng ngao giống thả hàng năm khoảng 700-1000 tấn, trong đó có 300 tấn ngao giống khai thác tự nhiên. Sản lượng ngao đạt 10 nghìn tấn, năng suất có nơi đạt 40-80 tấn/ha. Lợi nhuận từ nuôi ngao có thể đạt hàng trăm triệu đồng/ha.
Từ vùng triều vốn "ngủ yên" nhiều năm nay đã được người dân Giao Xuân và các xã ven biển của huyện Giao Thuỷ đánh thức bằng nghề nuôi ngao. Bên cạnh hiệu quả kinh tế mang lại, nghề nuôi ngao nơi này đang phải đối mặt với nhiều khó khăn. Đã có lúc vùng triều trở thành điểm nóng về tranh chấp vùng bãi nuôi ngao. Theo đồng chí Trực, thì khó khăn lớn nhất là nguồn ngao giống. Hàng năm, nhu cầu ngao giống của tỉnh lên đến hàng nghìn tấn, nhưng ngao giống khai thác tự nhiên và sinh sản nhân tạo mới đáp ứng 40% lượng ngao giống thả nuôi. Mặt khác, hình thức nuôi ngao mới ở dạng quảng canh, quảng canh cải tiến; người nuôi chưa chủ động khâu thả giống, chủ yếu dựa vào tự nhiên. Các cơ chế, chính sách cho vùng nuôi ngao chưa có và chưa đồng bộ như việc quy hoạch, vay vốn, thời gian thuê đất, giá thuê đất chưa hợp lý. Anh Nguyễn Văn Cửu cho rằng: Việc nuôi ngao ở địa phương còn mang tính nhỏ lẻ; trong quá trình sản xuất, từ khâu chuẩn bị bãi nuôi, con giống, đến khâu nuôi thương phẩm, phòng, trị bệnh, thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm chưa đồng bộ nên hạn chế năng suất, sản lượng, hiệu quả nuôi ngao. Sự biến đổi về thời tiết, địa hình vùng bãi đang làm cho nghề nuôi ngao gặp nhiều khó khăn. Vấn đề tiêu thụ ngao thương phẩm vẫn ở dạng mạnh ai nấy làm, thiếu sự liên kết.
Trước những khó khăn như hiện nay, nghề nuôi ngao ở tỉnh ta cần có sự liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ. Đến nay, Hội nuôi nhuyễn thể huyện Giao Thuỷ đã được thành lập, với mục đích khai thác tốt nhất tiềm năng vùng triều để mở rộng diện tích nuôi ngao cũng như các loài nhuyễn thể khác; áp dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất nuôi trên một đơn vị diện tích, phấn đấu đến năm 2010, năng suất nuôi ngao bình quân đạt 30-40 tấn/ha; nâng cao tính cộng đồng bảo vệ môi trường sinh thái, nhất là bảo vệ các bãi ngao giống, phát triển bền vững./.
(Báo Nam Định)
VN đứng thứ sáu thế giới về nuôi trồng thủy sản
Nguồn tin: TT, 31/10/2006
Ngày cập nhật: 31/10/2006
Theo bản báo cáo tình hình nuôi trồng thủy sản thế giới năm 2006 của Tổ chức Lương nông thế giới (FAO), châu Á chiếm chín vị trí trong 10 quốc gia dẫn đầu về nuôi trồng thủy sản, trong đó VN đứng vị trí thứ sáu.
Trung Quốc là nước dẫn đầu bảng xếp hạng với 69,6% về sản lượng và 51,2% về giá trị các mặt hàng thủy sản được nuôi trồng trên thế giới. Vị trí thứ hai của Ấn Độ chỉ chiếm 4,2% cả về sản lượng cũng như giá trị. Ở vị trí thứ năm, Nhật vẫn chiếm đến 6% về mặt giá trị (4,24 tỉ USD) tuy sản lượng nuôi trồng chỉ khoảng 1,26 triệu tấn do sản phẩm của nước này chủ yếu là các loại thủy sản có giá trị cao.
Bản báo cáo cũng cho biết 43% (khoảng 45,5 triệu tấn) các loại thủy sản được tiêu thụ có nguồn gốc từ việc nuôi trồng với tổng giá trị là 63 tỉ USD. Thứ tự của bảng xếp hạng là Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Nhật, VN, Hàn Quốc, Bangladesh và Chile.
HỒNG THÀNH (Theo Business Standard)
Nâng quy mô chợ tôm Cà Mau lên thành chợ thủy sản đầu mối
Nguồn tin: Cà Mau, 30/10/2006
Ngày cập nhật: 31/10/2006
Được sự thống nhất về chủ trương của Bộ Thủy sản, UBND tỉnh Cà Mau đã chuẩn bị thủ tục đầu tư Dự án chợ tôm Cà Mau tại khu vực Cảng cá Cà Mau. Tuy nhiên, qua phân tích, đánh giá dự án cho thấy, việc đầu tư Chợ tôm tại Cảng cá Cà Mau sẽ gặp một số khó khăn do: quy mô diện tích mặt bằng Cảng cá Cà Mau nhỏ, không phù hợp với qui mô của Chợ thủy sản đầu mối và sẽ không thuận lợi đến công tác cải tạo, nâng cấp các công trình hiện có của Cảng. Mặt khác, Cảng cá Cà Mau nằm trong nội ô thành phố Cà Mau, giáp với khu dân cư đông đúc nên việc xây dựng thêm Chợ thủy sản tại khu vực này sẽ dễ phát sinh ô nhiễm môi trường đô thị; việc đầu tư Chợ chuyên tôm với qui mô nhỏ, chỉ đáp ứng kinh doanh cho một sản phẩm là con tôm, sẽ kém phát huy hiệu quả. Hơn nữa, theo quy hoạch sau này các nhà máy chế biến thủy sản sẽ tập trung chủ yếu vào Khu công nghiệp Hòa Trung.
Với những lý do nêu trên, ngày 18/10/2006, Bộ Thủy sản đã tổ chức thẩm định Đề cương dự án và thống nhất chủ trương điều chỉnh, nâng quy mô dự án Chợ tôm Cà Mau thành Chợ Thủy sản đầu mối Cà Mau. Theo yêu cầu của Bộ Thủy sản, UBND tỉnh Cà Mau đã thỏa thuận một số nội dung như: địa điểm xây dựng chợ tại Khu công nghiệp Hòa Trung; quy mô diện tích của chợ là 5 ha; chức năng, ngành nghề kinh doanh của chợ bao gồm: khu kinh doanh tôm, khu kinh doanh cá, khu kinh doanh hàng thủy sản khác; đồng thời chỉ đạo chủ đầu tư hoàn chỉnh Đề cương dự án trình Bộ Thuỷ sản quyết định chủ trương đầu tư và ghi kế hoạch vốn thực hiện dự án vào năm 2007./.
(Nguyễn Đức Thánh, Web Cà Mau, 30/10/2006)
Cà Mau: Ngư dân làm nghề lưới vây trúng mùa
Nguồn tin: TP, 28/10/2006
Ngày cập nhật: 30/10/2006
Chuyến biển vừa qua, ngư dân làm nghề lưới vây đánh bắt trúng cá trí, cá sòng số lượng lớn. Tàu ra khơi có thể mang về 30-40 tấn cá.
Ông Nguyễn Văn Kim, ngư dân kỳ cựu ở Sông Đốc (Trần Văn Thời), cho biết, mỗi ngày ngư dân Sông Đốc đánh bắt được 300-400 tấn hải sản các loại.
Cửa biển Sông Đốc không có năng lực chế biến, tiêu thụ các loại cá có giá trị cao nên ngư dân chuyển sang bán cho vựa cá tỉnh Kiên Giang.
Nguyễn Tiến Hưng
Mỹ tiếp tục bị kiện vì thuế chống bán phá giá tôm
Nguồn tin: TP, 29/10/2006
Ngày cập nhật: 30/10/2006
Biodiesel 7.600 đồng/lít chế biến từ mỡ cá sắp được bán rộng rãi
Nguồn tin: TTXVN, 29/10/2006
Ngày cập nhật: 30/10/2006
Phú Yên: Xô xát vì giành mặt nước nuôi tôm
Nguồn tin: NLD, 30/10/206
Ngày cập nhật: 30/10/2006
Thủ tướng Chính phủ: Tập trung phát triển ngành thuỷ sản
Nguồn tin: Dddn, 29/10/2006
Ngày cập nhật: 30/10/2006
Dạo chơi mùa nước nổi
Nguồn tin: SGTT, 29/10/2006
Ngày cập nhật: 29/10/2006
Từ xã Phú Thọ, chúng tôi quá giang chiếc ghe chở tôm của anh Năm Sĩ về thị trấn Tam Nông. Chiếc ghe chòn g chành chở hơn một tấn tôm càng đang rộng nước. Ông chủ vuông 39 tuổi dường như lúc nào cũng có sẵn một nụ cười mãn nguyện vì đang trúng mùa tôm.
Nuôi trồng
Nhậu lai rai trong lúc chờ thu hoạch cá linh. Những người có vốn thì kiếm tiền từ nuôi trồng. Ít vốn hơn thì theo nghiệp hái lượm như đóng đáy cá linh
Anh Huỳnh Kim Thuật, trưởng ban biên tập Đài truyền hình Đồng Tháp cho biết, Năm Sĩ từng mang biệt danh là vua cá lóc, hai năm nay lại mang thêm biệt danh vua tôm càng. Đúng là con người ta đến lúc gặp thời thì tiền vô như nước. Năm Sĩ có 4ha đất nằm trong vùng dự án nuôi tôm. Anh trồng lúa mỗi năm một vụ đông xuân thu hoạch gần 30 tấn. Khi trời sắp sa mưa, anh bơm nước vào ruộng để thả cá lóc với tôm càng. Hai hầm cá lóc chỉ chiếm diện tích 4 công nhưng mỗi năm cho Năm Sĩ trên 50 tấn cá, trị giá gần một tỉ đồng. Còn lại 3,6ha, anh bao lưới thành hai vuông tôm, mỗi năm thu 8 tấn, trị giá trên 700 triệu đồng. Như vậy, ngoài vụ lúa đông xuân, mỗi mùa lũ Năm Sĩ thu lợi gần 1,7 tỉ đồng ngay trên diện tích đất mà bao nhiêu đời qua bị bỏ hoang trong mùa lũ.
1ha lúa + tôm + cá mỗi năm thu 19,5 triệu đồng lúa và 425 triệu đồng tôm + cá (theo tỷ lệ ông năm sĩ nuôi)
1ha lúa + cho thuê mặt nước đóng đáy mỗi năm thu 19,5 triệu đồng luá và 150 triệu đồng tiền cho thuê.
"Mỗi năm làm hai vụ lúa đủ ăn, sau vụ hè thu, đến mùa lũ anh cho thuê mặt nước để đóng đáy cá linh kiếm cũng được trên 30 triệu đồng. Tất nhiên là người thuê hưởng lợi nhiều hơn"
Anh Thuật cho biết, năm nay Tam Nông có 40 hộ nuôi tôm càng xanh, hộ nào cũng kiếm được vài trăm triệu đồng. Hiện nay tỉnh Đồng Tháp đang xúc tiến nhiều dự án khai thác thuỷ sản trong mùa lũ. Riêng Tam Nông đang triển khai dự án đầu tư cơ sở hạ tầng để phục vụ cho 3 ngàn ha đất nuôi tôm càng xanh. Tất nhiên không phải dễ ăn, bởi muốn nuôi tôm càng xanh phải có vốn, phải có kỹ thuật, ngân hàng chỉ hỗ trợ 60 phần trăm ở giai đoạn sau, nghĩa là khi con tôm được vài tháng tuổi, phát triển trong sự an toàn. Nhưng bù lại – anh Thuật nói người không có đủ điều kiện nuôi thì cho thuê đất, kẻ có gạo người có củi cũng làm nên một nồi cơm trong mùa lũ.
Chúng tôi vào căn nhà đầu tiên của cụm dân cư Phú Đức, anh chủ nhà khoảng 40 tuổi đang dọn cơm trưa, một tô mắm kho, một đĩa bông súng với rau nhút. Thấy khách vào, anh bảo vợ lấy thêm chén đũa với chai rượu rồi rót ngay mời khách mà không cần biết chúng tôi là ai. Uống cạn vài ly rồi mới hỏi tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp. Âu cũng là một kiểu chơi của dân vùng lũ. Nguyễn Hoàng Nghĩa anh chủ nhà cho biết, khác với những năm trước, mỗi mùa lũ giống như mùa chạy loạn, từ công an, bộ đội, đoàn thanh niên hối hả xuống các vùng lũ giúp dân kê nhà, dọn nhà, cứu nạn, cứu đói. Năm nay người ta đón lũ như đón một cơ hội làm ăn. Cụm dân cư Phú Đức có 120 hộ, mỗi hộ được mua một căn nhà bán kiên cố 40 mét vuông, trị giá 7 triệu đồng, có điện, có đường giao thông, có hệ thống cấp và thoát nước. Trước mắt cứ vào đó mà ở, năm năm sau mới bắt đầu trả góp trong năm năm. Xem ra mỗi năm chỉ bỏ ra 700 ngàn đồng để đổi lấy sự an cư cũng là điều hiếm thấy. Anh Thuật cho biết Đồng Tháp đã ổn định gần 30 ngàn hộ dân như vậy. Thuật nói: “Có thể xem đây là một cuộc đại di dân trong lịch sử của Đồng Tháp Mười”.
Chúng tôi đi vòng theo quốc lộ 30, nước hai bên đồng ngập sâu ba bốn mét, những chiếc xuồng câu, xuồng lưới nhấp nhô trên sóng nước giăng dài theo hàng dọc hàng ngang. Cuộc mưu sinh hãy còn nhọc nhằn gian khó nhưng dẫu sao thì sự an cư vẫn là niềm mơ ước của biết bao thế hệ đời người!
Nhớ mùa lũ năm 2001, từ Châu Đốc đi An Phú, chúng tôi phải thuê chiếc tàu đò để chở mấy chiếc xe gắn máy. Nhưng năm nay, qua phà Châu Giang thì đã có xe buýt chạy lên tới cửa khẩu Khánh Bình. Dọc hai bên đường dập dìu những chiếc xe đẩy bán hàng rong, từ rau quả, cá mắm, thực phẩm công nghệ, vải sợi, nhôm nhựa... nói chung là thượng vàng hạ cám đều được phục vụ tận nhà. Chúng tôi gọi điện cho anh Năm Thả, phó chủ tịch huyện, anh bảo qua Phú Hữu chơi, một xã nghèo nằm giáp với biên giới Campuchia.
Ở đầu kinh Cỏ Lau, trên tuyến đê Bảy Xã, vào một buổi sáng của mùa lũ năm 2001, tôi đã chứng kiến một cảnh màn trời chiếu đất của hàng trăm con người sau một đêm mưa gió, nước lũ từ Campuchia đột ngột tràn qua. Nhưng bây giờ, mọi sự đã bình thản đến lạ thường. Nhà thơ Hồ Thanh Điền cho rằng một mùa lũ đẹp. Tôi hỏi thăm anh Năm Kháng, một người quen cũ đã gieo cho tôi một ấn tượng về sự hy sinh của người cha, năm năm trước, anh đã thức đêm đi hái từng bông điên điển để đóng lãi số tiền vay cho thằng con trai học năm thứ nhất Đại học Sư phạm Cần Thơ. Chị Dung – cán bộ xã cho biết, cuộc sống anh Kháng càng khổ hơn khi anh bị tai biến cách nay hai năm, nhưng bù lại, cháu Dương, đứa con trai anh giờ đã ra trường, đang dạy toán và tin học cấp ba phổ thông trên xã. Cháu Dương là một thầy giáo tử tế. Có lẽ hồi trước, khi đêm đêm bơi xuồng trong mưa gió, soi ánh đèn pin để hái từng bông điên điển, anh Kháng cũng chỉ có một ước mơ bình dị thế thôi.
Dọc theo hai bên bờ kinh Cỏ Lau bây giờ đã trở thành một làng nghề nuôi cá lóc, những chiếc bè cá lớn nhỏ chen nhau lắc lư theo dòng nước xiết. Anh Thả cho biết, một chiếc bè nhỏ nhất thì trong mùa lũ cũng sinh lợi nhuận từ năm bảy triệu đồng. Tuy nhiên, để đóng được một chiếc bè tre nhỏ nhất khoảng 10 khối vuông thì cũng phải có vài ba triệu bạc, rồi tiền cá giống, tiền thức ăn, không phải ai cũng có khả năng làm được.
Hái lượm
Bông súng phục vụ tận nhà. Từ mấy năm nay, lũ trở thành cơ hội cho người dân miền Tây
Chúng tôi ghé vào quán cà phê của anh Mười Bổn nằm cạnh một đồng nước mênh mông. Phía trước là hàng trăm miệng đáy cá linh. Những cọc đáy, những đoàn xuồng với hàng trăm con người đang vật lộn với dòng nước xiết, bên cạnh bờ kinh là những đoàn ghe chài thả neo chờ mua cá. Nếu thử đặt mình vào cái nhìn của một du khách ở tận trời tây, hẳn sẽ bị cuốn hút vào một cuộc mưu sinh trong mùa lũ. Chủ quán Mười Bổn chỉ tay về phía hàng đáy trước mặt nhà cho biết, anh có hai công ruộng, mỗi năm làm hai vụ lúa đủ ăn, sau vụ hè thu, đến mùa lũ anh cho thuê mặt nước để đóng đáy cá linh kiếm cũng được trên 30 triệu đồng. Tất nhiên là người thuê hưởng lợi nhiều hơn.
Võ Đắc Danh
Theo SGTT
Phê duyệt chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2010
Nguồn tin: TTXVN, 28/10/2006
Ngày cập nhật: 29/10/2006
Bình Định: Tôm nuôi vụ 2 được mùa, được giá
Nguồn tin: Bình Định, 25/10/2006
Ngày cập nhật: 29/10/2006
(BĐ) - Vụ tôm thứ 2 năm 2006, một số diện tích nuôi tôm thường xảy ra dịch bệnh đã được người dân chuyển sang nuôi xen các đối tượng khác, nên diện tích dành cho nuôi tôm chỉ còn 414 ha, giảm hơn 500 ha so với năm 2005. Tuy nhiên, vụ tôm thứ 2 năm nay nhìn chung được mùa, diện tích tôm nuôi bị bệnh chỉ chiếm khoảng 18%, giảm hơn 1/2 so với vụ 2 năm 2005.
Hơn 1 tuần nay, các địa phương trong tỉnh đang khẩn trương thu hoạch tôm vụ 2 để tránh lũ. Đến nay, toàn tỉnh đã thu hoạch được hơn 250 ha, năng suất bình quân đạt trên 800 kg/ha, cao hơn vụ 2 năm 2005 hơn 50 kg/ha và nhìn chung phần lớn diện tích nuôi đều có lãi. Ngoài được mùa, giá tôm hiện nay cũng tăng cao và ổn định hơn các năm trước. Hiện nay, 1 kg tôm (kích cỡ 50 con 1 kg) có giá 80.000 đồng/kg, cao hơn năm 2005 hơn 15.000 đồng/kg.
N.T
Nam Định: Diện tích các đầm ao nước lợ trong tỉnh hiện nay có thể nuôi có bồng bớp là trên 5000ha
Nguồn tin: Nam Định, 27/10/2006
Ngày cập nhật: 29/10/2006
Theo số liệu thống kê của Sở Thủy sản tỉnh Nam Định: Diện tích các đầm ao nước lợ trong tỉnh hiện nay có thể nuôi có bồng bớp là trên 5000ha, nếu có đủ con giống thì sản lượng hàng năm có thể đạt từ 7500 đến 10 nghìn tấn cá, trị giá hàng nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên một vấn đề cần đặt ra hiện nay là nguồn con giống nông dân phải tự túc từ nguồn khai thác tự nhiên nên sản xuất bị động, năng suất sản lượng thu hoạch không ổn định. Từ thực tế này năm 2006 Cty TNHH nuôi trồng thủy sản Liêu Phong huyện Giao Thủy đã tiếp nhận công nghệ sinh sản nhân tạo giống cá bồng bớp từ trung tâm đào tạo chuyển giao công nghệ miền bắc (Bộ Thủy sản). Đến giữa tháng 6/2006 Công ty đã sản xuất được trên 1 vạn con giống đảm bảo chất lượng. Như vậy, việc mạnh dạn đầu tư sản xuất và đảm bảo nguồn con giống, trong những năm tới tỉnh ta có thể chủ động đưa trên 8000ha nược lợ vào nuôi bồng bớp sẽ cho thu nhập 200 triệu đồng/1ha/1năm, thu lãi khoảng 40%, từ đó giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động./.
(Nguồn Đài PTTH tỉnh)
Nuôi cá rô đồng trên ao bọc vải nhựa, dễ làm, cho thu nhập khá
Nguồn tin: BT, 27/10/2006
Ngày cập nhật: 28/10/2006
Hiện nay, nuôi cá rô đồng trên ao có bao bọc vải nhựa xung quanh bờ và mặt đáy, đang được nhiều nông dân tại xã Phước Thạnh (Châu Thành – Bến Tre) áp dụng và thu lãi khá cao.
Điển hình như trường hợp của anh Sáu Kiếm (ấp 1). Anh thả nuôi 37 kg cá rô đồng con (khoảng 500 con/kg, giá 40.000 đồng/kg) trên ao bọc vải nhựa có diện tích 500 m2. Sau 4 tháng, anh thu hoạch trên 650 kg cá thịt (giá bình quân 30.000 đồng/kg). Sau khi trừ chi phí, lãi trên hai triệu đồng (chưa tính hơn 20 kg cá nhỏ anh để nuôi tiếp). Tại ấp 2, chị Nguyễn Thị Thanh Loan thả 20 kg trên diện tích 300 m2. Đến nay, ao cá của chị được 2 tháng tuổi và đang phát triển tốt (khoảng 20 con/kg). Theo tính toán, toàn bộ chi phí chị bỏ ra khoảng 8 triệu đồng. Dự kiến sẽ thu hoạch vào đầu tháng 11-2006 với số lượng khoảng 400 kg cá thịt.
Cách nuôi: Khi xử lý ao hồ xong, dùng vải nhựa (vải bạt) phủ kín xung quanh bờ và đáy ao. Sau đó cho nước vào, có độ sâu khoảng 1,5 – 1,6 mét rồi tiến hành tạo môi trường sinh thái và thả cá. Tháng đầu, dùng thức ăn công nghiệp để cho cá ăn. Kể từ tháng thứ hai trở đi có thể cho cá ăn dặm bằng bèo cám (nếu có trùn quế thì càng tốt). Nhớ chú ý thay nước cho cá, khoảng 15 – 20 ngày/ lần để bảo vệ môi trường sống. Ưu điểm của cách nuôi này là tránh bị hao hụt, tránh ô nhiễm môi trường, tăng độ PH cho cá, dễ làm và cho lãi khá cao.
Hiện tại xã Phước Thạnh có 9 hộ dân đang nuôi cá theo mô hình này. Anh Nguyễn Nhựt Tân – phó chủ tịch Hội Nông dân xã, cho biết: “ Qua khảo sát các hộ nuôi, cá phát triển tốt và bà con đang học hỏi kinh nghiệm để làm theo”.
Đức Chính
Khu sinh thái Cồn Chim - Đầm Thị Nại: Nuôi khảo nghiệm thành công hàu thương phẩm
Nguồn tin: BĐ, 27/10/2006
Ngày cập nhật: 28/10/2006
(BĐ) - Đầu tháng 4-2006, Ban Quản lý Khu sinh thái Cồn Chim - Đầm Thị Nại tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ con giống cho 9 hộ dân ở khu vực quanh đầm Thị Nại nuôi khảo nghiệm 0,7 ha hàu thương phẩm tại khu vực nuôi động vật thân mềm. Trong quá trình nuôi khảo nghiệm cho thấy, môi trường nước ở khu vực này phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của con hàu. Hiện nay, người dân đã thu hoạch xong diện tích hàu nuôi khảo nghiệm, với sản lượng đạt gần 11 tấn, bán với giá hơn 5.000 đồng/kg. Như vậy, so với các khu vực nuôi hàu lâu nay trên địa bàn tỉnh, sản lượng và giá cả hàu nuôi tại Khu sinh thái Cồn Chim tương đương.
Từ thành công bước đầu này, năm 2007 Ban Quản lý Khu sinh thái Cồn Chim - Đầm Thị Nại sẽ tiếp tục tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ cho người dân triển khai nuôi hàu thương phẩm trên diện tích 16 ha ở khu vực nuôi động vật thân mềm.
Ngọc Thái
Giá tôm, cá tra tiếp tục tăng cao
Nguồn tin: TP, 26/10/2006
Ngày cập nhật: 28/10/2006
Kiến nghị kiểm soát kháng sinh cấm
Nguồn tin: TT, 28/10/2006
Ngày cập nhật: 28/10/2006
TT - Ngày 27-10, Hiệp hội các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản VN (Vasep) đã có văn bản gửi Bộ Thủy sản kiến nghị áp dụng một số biện pháp khẩn cấp nhằm kiểm soát nguồn lây nhiễm kháng sinh cấm.
Trong đó có biện pháp lấy mẫu thức ăn và thuốc chữa bệnh tại các đầm nuôi để xét nghiệm xem trong thành phần thức ăn và thuốc có kháng sinh cấm hay không.
Theo khuyến cáo của Vasep, nếu không có các biện pháp hành động khẩn cấp và hiệu quả, phía Nhật sẽ đưa tôm VN vào danh sách cấm nhập khẩu, sản phẩm tôm VN sẽ mất thị trường Nhật Bản.
H.ĐĂNG
Xuất khẩu thuỷ sản phấn đấu đạt kim ngạch 4,5 tỷ USD
Nguồn tin: TTXVN, 27/10/2006
Ngày cập nhật: 28/10/2006
Giá cá tra giống tăng 43% so với 2 tháng trước
Nguồn tin: AG, 2710//2006
Ngày cập nhật: 27/10/2006
Nhật Bản kiểm tra 100% tôm nhập khẩu từ VN
Nguồn tin: NLĐ, 27/10/2006
Ngày cập nhật: 27/10/2006
Sinh sản nhân tạo cá bông lau
Nguồn tin: KHPT, 27/10/2006
Ngày cập nhật: 27/10/2006
Sau hơn 3 năm nghiên cứu, Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt Nam bộ (xã An Thái Trung, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) đã cho sinh sản nhân tạo thành công giống cá bông lau quý của sông Mekong.
ThS. Trịnh Quốc Trọng cho biết, sau nhiều năm nuôi và theo dõi đặc tính sinh sản, bước đầu Trung tâm đã thành công trong việc sinh sản nhân tạo cá bông lau. Đàn cá bông lau bố mẹ được tập hợp từ vùng cửa sông Trần Đề (huyện Long Phú, Sóc Trăng) trong năm 2003 và 2004. Cá được chuyển về nuôi trong bè và trong ao ở các địa điểm thuộc tỉnh Tiền Giang và Đồng Tháp. Trong năm 2005 cá đã có dấu hiệu thành thục, nhưng tỉ lệ cá thành thục còn thấp, chỉ khoảng dưới 5%. Năm 2006 đàn cá đã thành thục tốt hơn, tỉ lệ thành thục đạt khoảng 25%, hệ số thành thục cao nhất đạt 3%. Thành công này sẽ đưa thêm đối tượng mới vào nghề nuôi cá da trơn ở vùng ĐBSCL.
Cá bông lau thuộc họ cá da trơn, là loài cá quý, từ lâu được người dân ĐBSCL ưa chuộng do thịt cá thơm ngon hơn cá tra, cá basa nhiều lần. Nhu cầu tiêu thụ rất lớn, là món đặc sản ở các quán ăn, nhà hàng. Cá bông lau được thương lái thu mua từ người dân 25.000 - 40.000 đồng/kg tùy loại, tại chợ 70.000 đ/kg loại cá từ 7 kg trở lên. Loài cá này, trước đây từng được các nhà khoa học nghiên cứu đưa vào nuôi thương phẩm tại ĐBSCL nhưng chưa cho sinh sản nhân tạo thành công.
Cá bông lau (Pangasius krempfi) phân bố ở sông Mekong, sông và bãi ven biển Nam Việt Nam. Cá trưởng thành ăn chủ yếu là quả, tảo sợi và giáp xác, cá đạt kích thước đến 80 cm. Hàng năm, từ tháng 2 đến tháng 6, ngư dân đổ về sông Hậu câu cá bông lau, có con nặng trên 10 kg, nhiều ngư dân kinh nghiệm câu cá (mồi câu là con gián) trúng đậm nuôi cả nhà sau một mùa câu. Cá bông lau là một trong số rất ít các loài cá của sông Mekong có một khoảng thời gian trong đời sống ở biển. Nó cũng là loài cá có đường di cư dài nhất (loài thứ hai là cá tra dầu). Cá con thường sống ở biển Đông, khi đạt đến kích thước nhất định, chúng quay trở lại sông và cuối cùng là di cư ngược dòng tìm nơi sinh sản, đây cũng là thời điểm ngư dân ĐBSCL vào mùa săn cá bông lau.
T. TÂM
An Giang: Nuôi cá lóc trong bồn nilon
Nguồn tin: AG, 26/10/2006
Ngày cập nhật: 27/10/2006
Ở huyện Phú Tân đã có không ít nông dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong bồn nilon cho thu nhập cao lúc nông nhàn trong mùa lũ.
Xã Vĩnh Xương là địa phương có nhiều người nuôi cá lóc theo mô hình này, với gần 100 hộ nuôi trong 200 bồn nilon. Trung bình, mỗi mùa nước nổi, nông dân xuất bán trên dưới 200 tấn cá lóc thương phẩm, thu 350-400 triệu đồng.
Một nông dân cho biết, nuôi cá lóc theo mô hình này rất dễ, ít bệnh, dễ đánh bắt trong mùa nước nổi. Khâu chăm sóc cũng rất dễ, tỉ lệ hao hụt thấp, cá mau lớn.
Từ mùa nước nổi năm 2003-2005, nông dân Hồ Minh Trung ở xã Vĩnh Xương nuôi từ 2.000-2.500 con cá lóc giống, sau hơn 4 tháng chăm sóc, gia đình anh thu hoạch 2-2,5 tấn cá lóc thương phẩm, bán được từ 25-30 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi 10 triệu đồng.
Theo Nông Nghiệp Việt Nam
Làm mùng... nuôi cá
Nguồn tin: TBKTSG, 26/10/2006
Ngày cập nhật: 27/10/2006
Nhiều mô hình sản xuất như nuôi... cua đồng, quây đất lại rồi lót nilon nuôi lươn trong mùa lũ... đã được nông dân ĐBSCL “sáng chế” mà không nhờ sự gợi ý của ngành nông nghiệp. Nuôi cá lóc trong mùng vèo ở An Giang cũng là một trong những mô hình như vậy.
“Gọi là mùng vèo, bởi người ta lấy lưới dày may lại thành hình dáng tương tự chiếc mùng, rồi thả cá lóc vào nuôi”, ông Vũ Quang Cảnh, Chi cục trưởng Chi cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn An Giang, giới thiệu sơ lược. Ông nói, năm nay toàn tỉnh có tới 871 mùng vèo thả nuôi cá lóc. Tính sơ sơ, ít nhất mỗi mùng cũng thu lãi khoảng ba triệu đồng/vụ (từ 4-6 tháng).
Theo ông Cảnh, mô hình này xuất phát từ xã Tân Hòa, huyện Phú Tân, rồi dần dà lan rộng ra các huyện Châu Phú, Châu Thành... Anh Nguyễn Văn Cường, ở ấp Hậu Văn Hai, xã Tân Hòa, đoán rằng có lẽ thấy mấy trại ương cá thường rộng (thả) cá bột trong những cái lưới tương tự, được quây nhỏ, nên người ta nghĩ rằng cá lóc vẫn có thể phát triển trong đó. Để rồi, những cái mùng vèo ra đời... và nông dân vẫn ung dung nuôi cá được trong mùa nước tràn đồng.
Mấy năm trước, thấy ông Ba Đời ở ấp Trung Hai qua Đồng Tháp Mười mua mấy cặp cá lóc bố mẹ về nuôi thử, thấy hay hay nên anh Cường cũng bắt chước. Năm 2000, anh may cái mùng vèo rộng 24 mét vuông, sâu hơn một mét thả thử vài chục ngàn con cá lòng ròng (cá lóc con) mua được. Bốn tháng sau, thu hơn một tấn cá thịt, anh chắc mẩm mô hình nuôi cá mùng vèo rồi sẽ phát triển. Nuôi cá thịt lâu ăn, vậy là làm cá giống! Với 18 cặp cá bố mẹ đầu tiên, đến giờ anh đã có trong tay 32 cặp, mỗi năm đưa ra thị trường hàng trăm ngàn con cá giống.
“Nuôi mùng vèo dễ ợt”, ông Trương Văn Dước, ở ấp Vàm Nao, xã Tân Trung, huyện Phú Tân, khẳng định. Chỉ cần lựa những bờ sông có bãi bồi, nước sạch, cắm bốn trụ để cột mùng rồi thả cá. Để có một cái mùng lớn chỉ mất 500.000- 700.000 đồng, nhưng xài được vài ba năm. Vào mùa nước nổi, nông dân thả mùng vèo ngay trên ruộng. Nước nổi mang theo đầy rẫy thức ăn tự nhiên, cộng thêm cá linh, cá trắng... mua cho ăn thêm, chỉ vài tháng sau mỗi mùng vèo có thể thu từ 1-2 tấn cá thịt.
Mùa nước nổi thuận tiện nhất cho việc nuôi cá trong mùng vèo. Nước đầy, khỏi lo chuyện ô nhiễm, cá mua làm thức ăn cũng rẻ. Chỉ có điều, sản lượng nuôi thì cầm chắc, nhưng trúng hay thất còn phải tính tới giá cá thịt cao hay thấp.
Còn anh Cường so sánh tỉ mỉ: “Nuôi cá trong ao khó quản lý nguồn nước, thức ăn thừa dễ gây ô nhiễm, cá bệnh khó trị. Còn nuôi trong mùng vèo thì dòng chảy nước sông, nước lũ... giải quyết hết ô nhiễm từ thức ăn. Hễ cá bệnh thì cứ “kéo” mùng lên tắm, xức thuốc cho cá, xong lại thả mùng xuống. Tới chừng thu hoạch cũng dễ ợt, chỉ cần hai người kéo hai đầu mùng lên mặt nước là tha hồ xúc cá”.
Trên sông Vàm Nao, đó đây rải rác những mùng vèo trụ bên dòng nước chảy xiết. Ông Dước nói rằng, năm nay cá thịt xuống giá - chỉ còn 15.000-16.000 đồng/ki lô gam nên người nuôi nản lòng, chứ mấy năm trước khi giá cá còn 28.000-30.000 đồng/ki lô gam, thì nhiều đoạn sông mùng vèo được dựng san sát. Nói vậy, chứ mới đây ông Tư Nguyên vừa thu hoạch một mùng vèo lớn (dài 8 mét, ngang 5 mét) thả ven sông Vàm Nao cũng được hơn hai tấn cá, lãi trên năm triệu đồng chỉ sau bốn tháng nuôi. Còn mùa nước năm trước, ông Tám Giang ở gần nhà anh Cường cũng thu lãi khoảng mười triệu đồng/mùng vèo...
“Lúc được thấy tận mắt, các cán bộ khuyến nông An Giang vẫn hoàn toàn bất ngờ về mô hình này bởi “tác giả” là chính là những nông dân”, ông Cảnh khẳng định. Nông dân không hề thiếu óc “phát minh”, sáng chế. Nhưng có lẽ, điều cốt lõi giúp họ thành công với mô hình cá lóc mùng vèo là dựa vào quy luật tự nhiên và nương theo đó để làm. Con cá lóc sông trên mương ruộng, sông ngòi lớn mau, chắc thịt... thì khi sống trong mùng vèo, chúng cũng phát triển tương tự bởi môi trường sống không khác, dù bị giới hạn bằng tấm lưới mỏng manh.
Nếu như trước đây, người nuôi cá lóc phải mua gom từng mớ cá lòng ròng đánh bắt được ngoài mương, ruộng, thì giờ trại cung cấp cá giống đã đầy rẫy. Chỉ đoạn đường chưa đầy một ki lô mét từ ngã ba Móc Ngoán hướng về xã Tân Hòa, đã có trên mười trại cung ứng cá giống. “Riêng ở ấp Hậu Văn Hai, có cả trăm hộ làm nghề ương cá giống”, anh Cường nói. Thấy người này làm được, người khác cũng học theo, dần dà ấp này trở thành cái nôi cá giống. Lúc đầu, cá chỉ đẻ vào tháng 3-4, nay những nông dân kiêm nghề bán cá giống này cho cá đẻ được cả năm. Cứ vào đầu mùa nước nổi hoặc độ tháng 9, hàng đoàn xe gắn máy, xe tải nhỏ... từ các nơi khác kéo về mua cá, náo nhiệt cả xóm.
Với giá cá giống từ 120-200 đồng/con, mỗi năm anh Cường thu lãi trên hai chục triệu đồng. Chẳng như trước đây, có ba công đất ruộng, kiêm thêm nghề nuôi vịt chạy đồng cũng chỉ đủ ăn. Độ này vào mùa hút cá giống vì chuẩn bị cho lứa cá thịt bán vào dịp Tết nên nhiều người đến hỏi mua, anh Cường đành phải lắc đầu, khuyên sang nơi khác.
Còn anh Lê Văn Chén ở xã Bình Thạnh Đông, chỉ với nghề “lái” cá giống cũng ung dung sống khỏe. Cá từ những trại ương ở xã Tân Hòa, được anh Chén đưa đi tiêu thụ khắp nơi, từ Kiên Giang, Cần Thơ đến Hậu Giang... Nông dân nào cần, cứ điện thoại liên hệ là anh Chén giao “hàng” tận nơi. Mỗi năm, riêng anh Chén chuyển trên mười triệu con cá giống đi khắp các tỉnh.
Lệ Hương
Nuôi cá chẽm giống: Hướng đến một thương hiệu
Nguồn tin: KH, 26/10/2006
Ngày cập nhật: 26/10/2006
Ngày trước, người ta biết đến ông vì ông là người đầu tiên nuôi thành công con tôm sú giống. Còn bây giờ, người ta biết đến ông bởi ông là một trong những người nuôi thành công cá chẽm giống ở thị xã Cam Ranh (Khánh Hòa). Ông là Nguyễn Khánh Nam - một ngư dân ở phường Cam Lợi mà những người thân quen hay gọi ông một cách thân thiện là “Nam cá chẽm”.
Mang trong mình căn bệnh đau tim nhưng người cán bộ về hưu non Nguyễn Khánh Nam không vì thế mà nghỉ ngơi. Vốn đam mê nghề nuôi trồng thủy sản (NTTS) nên ông đã dùng khoảng thời gian đáng lẽ phải dành cho việc nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng để lao vào nghiên cứu và NTTS. Ông đã có một thời nổi danh vì nuôi tôm sú giống nhân tạo thành công. Hết nuôi tôm sú giống, tôm sú thịt ông lại nuôi cá hồng, cá mú, cá chẽm thịt…
Hôm chúng tôi đến nhà, ông Nam đang lọc ấu trùng cho cá ăn. Nói về nghề nuôi cá chẽm giống, ông kể khoảng tháng 6-2005, ông được mời tham gia lớp học chuyển giao công nghệ sản xuất nhân tạo giống cá chẽm do khoa NTTS trường Đại học Nha Trang phối hợp với Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa tổ chức cho bà con ngư dân. Từ đó, ông không nuôi cá chẽm thịt nữa mà chuyển sang nuôi cá chẽm giống. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng - khoa NTTS trường Đại học Nha Trang, cho biết: “Ông Nguyễn Khánh Nam là một trong những học viên ứng dụng rất thành công kỹ thuật nuôi cá chẽm giống của trường”. Trại cá giống của ông Nam hiện có 19 bể, trung bình 1 tháng ông bán ra thị trường khoảng 600 nghìn con giống, nhưng vẫn không đủ giống cung cấp cho các đầu mối. Với nghề này, một năm ông thu nhập hơn 100 triệu đồng. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là ở Cam Ranh và các tỉnh phía Nam. Ông cho biết, hiện nay ông còn lấy trứng cá chẽm của trường Đại học Nha Trang để cấy giống. 80 con cá chẽm mẹ sắp vào giai đoạn sinh sản mà ông đang nuôi sẽ là nguồn cung cấp trứng cho những trại cá giống mà ông dự định mở rộng thêm để xây dựng một thương hiệu cá chẽm giống trong thời gian tới.
Hiện nay, những nơi cung cấp cá chẽm giống chủ yếu ở Khánh Hòa như: trường Đại học Nha Trang, Trung tâm Nghiên cứu NTTS III, Công ty TNHH Hải Tiến… không đủ cung cấp nguồn giống cho ngư dân. Vì vậy, cần phát triển phong trào nuôi cá chẽm giống trong ngư dân. Và trường hợp ông Nam là một ví dụ.
M.T
Xuất khẩu thủy sản tăng 12%
Nguồn tin: TTXVN, 25/10/2006
Ngày cập nhật: 26/10/2006
"Tùng cá" trên đất Tân Trung, Gò Công Đông, Tiền Giang
Nguồn tin: Tiền Giang, 26/10/2006
Ngày cập nhật: 26/10/2006
“Tùng cá” là biệt danh của anh Lê Thanh Tùng (SN 1970) ở xã Tân Trung, huyện Gò Công Đông. Nhiều người gọi anh như vậy vì đôi vợ chồng trẻ này có được cơ ngơi như ngày nay là nhờ từ con cá mà ra.
Năm 1993, anh hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương. 6 năm sau anh cưới vợ là một cô gái cùng quê hương Gò Công. Gia đình thuộc loại không phải là khá giả nên đôi vợ chồng ra riêng với vốn liếng chỉ có 1 triệu đồng và 1 chiếc xe lam chở hàng hóa thuê kiếm sống, thu nhập kinh tế chẳng bao nhiêu. Anh mượn thêm tiền mua 2.160m2 đất cặp quốc lộ 50, tọa lạc ấp Sơn Qui B, xã Tân Trung. Cơ nghiệp bắt đầu từ đây. Anh đào ao, cất 1 căn chòi để ở và mở cơ sở mua bán cá giống. Để thành công với nghề này, tháng 9-2003 Tùng theo học lớp bồi dưỡng kỹ thuật nuôi và sản xuất cá giống do Trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp vụ Thủy sản II tổ chức. Được trang bị kiến thức cơ bản nên anh càng vững tin hơn, đầu tư vốn liếng khuếch trương quy mô sản xuất. Từ chỉ đơn thuần mua bán cá giống, anh bắt đầu nuôi cá bố mẹ cho đẻ để ương cá giống bán tại địa phương. Nhờ chất lượng cá giống tốt nên nhiều mối lái ở ngoài tỉnh cũng tìm đến đặt mua. Vốn chịu làm, say mê với con cá nên hết mùa cá giống, Tùng chuyển sang nuôi cá thịt. Hiện tại, ngoài 1,3ha đất của gia đình đào ao nuôi cá, Tùng còn thuê thêm ao, đất ruộng ở nhiều ấp khác trong xã Tân Trung với diện tích gần 3ha mặt nước và 1ha đất ruộng của cha mẹ ruột cũng đã đào 3 ao để sản xuất cá giống và nuôi cá thịt.
Để quản lý các cơ sở sản xuất, anh phải thuê 3 lao động làm quanh năm, trả công mỗi tháng 900.000 đồng/người, không tính chi phí tiền ăn hàng ngày và trang bị mỗi người 1 xe gắn máy đi lại. Bản thân Tùng cũng chạy liên tục như con thoi. Vợ anh ở nhà cũng luôn tất bật, vừa quản lý gia đình, lo 2 con nhỏ, vừa trông coi cửa hàng bán thức ăn nuôi cá và cá giống. Chiếc xe lam ngày nào bây giờ đã được thay bằng chiếc xe tải nhẹ để vận chuyển giao hàng tận nơi cho khách hàng mua thức ăn, mua cá giống có nhu cầu.
Ngoài biệt danh “Tùng cá”, gần đây nhiều người gọi anh thêm một biệt danh nữa là “Tùng liều” vì anh là người đầu tiên ở Gò Công dám nuôi cá kèo nước ngọt với quy mô lớn. Diện tích ruộng thuê 2,15ha ở ấp Ông Cai, xã Tân Trung anh không làm lúa như bao người khác ở đây, mà anh nuôi cá. Với tất cả 6 vuông ruộng được anh đắp cao thêm bờ, gia cố chắc chắn, tấn nylon giữ nước, chống cá và các loài khác đào hang làm thất thoát lượng cá ra sông. Cả 6 ao này từ năm 2003 đến đầu năm 2006 anh sản xuất cá giống, sau đó bắt đầu nuôi cá kèo.
Anh cho biết: Cá kèo giống được mua ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu… của người dân khai thác từ tự nhiên, lượng cung cấp không đủ nên phải chia ra thả nuôi nhiều đợt. Ao đầu tiên diện tích 0,5ha thả 250.000 con giống vào đầu tháng 6 và 2 ao thả sau cùng 350.000 con giống với diện tích 0,35ha vào đầu tháng 10. Mật độ cá ao thả nuôi sau nhiều hơn ao trước. Cá ở tất cả các ao nuôi đều phát triển tốt. Ao nuôi đầu tiên, sau 40 ngày, thu hoạch chưa hết nhưng sản lượng được hơn 2,5 tấn, bình quân 52 con/kg, giá bán 47.000 đồng/kg, anh lời được hơn 100 triệu đồng. Anh nói: Cá kèo dễ nuôi, ít bị bệnh; nếu cá bị bệnh thì điều trị cũng dễ, chi phí không cao. Mực nước trong ao luôn giữ ở mức 0,4-0,5m, không để ô nhiễm. Cho cá ăn bằng thức ăn viên của Công ty UP sản xuất cho cá kèo vào buổi sáng, trưa và chiều mỗi ngày với lượng thức ăn bằng 2,5-3% trọng lượng cá. Hiện tại 1 ao 0,5ha và 2 ao 0,7ha sau gần 2 và 3 tháng nuôi cá phát triển tốt và khả năng cho năng suất cao hơn ao đã thu hoạch.
Kết quả nuôi cá kèo nước ngọt của anh Lê Thanh Tùng được rất nhiều nông dân quan tâm, mở ra hướng cho nông dân chuyển đổi sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao trên đất sản xuất lúa, nuôi cá không cần đầu tư kinh phí đào ao. Vấn đề lo ngại là, một khi mở rộng diện tích nuôi thì không có con giống đủ để cung cấp cho người nuôi. Thiết nghĩ cần có sự theo dõi, đánh giá của ngành thủy sản để phổ biến nhân rộng.
Nguồn tin: Báo Ấp Bắc
Mừng tôm được giá, lo quá “phong trào”…!
Nguồn tin: VOV, 24/10/2006
Ngày cập nhật: 26/10/2006
Chuyện vui buồn ở một “mỏ” nghêu
Nguồn tin: CT, 25/10/2006
Ngày cập nhật: 26/10/2006
ĐBSCL: “Sốt” giá nghêu
Nguồn tin: SGGP, 24/10/2006
Ngày cập nhật: 25/10/2006
Sáng 24-10, thương lái Bến Tre và Trà Vinh thu mua nghêu thịt loại 30 con/kg với giá kỷ lục 19.000đ - 21.000đ/kg; nghêu loại 50 con/kg giá 16.000đ - 17.000đ/kg… nhưng người dân không đủ nghêu để bán.
Tám loại cá xuất khẩu sang thị trường Mỹ phải sạch bệnh
Nguồn tin: NLĐ, 25/10/2006
Ngày cập nhật: 25/10/2006
Thông tin từ cơ quan kiểm dịch Hoa Kỳ, từ ngày 30- 10, 8 loại cá (cá chép, cá tàu, cá trắm cỏ, cá mè trắng, cá mè hoa...) của VN cũng như nhiều nước khác khi xuất sang thị trường Mỹ phải có giấy phép nhập khẩu của USDA, giấy chứng nhận kiểm dịch của cơ quan thẩm quyền nước xuất khẩu.
Do các loại cá trên có khả năng nhiễm bệnh KHV và bệnh SVC. Do đó, ngày 24- 10, Cục Quản lý Chất lượng, An toàn vệ sinh và thú y thủy sản đã tổ chức hội thảo phổ biến các quy định mới về nhập khẩu các loài cá sống vào thị trường Mỹ cũng như chương trình giám sát dịch bệnh KHV, bệnh SVC cho các doanh nghiệp chăn nuôi, xuất khẩu và các cơ quan chức năng tại các tỉnh, thành phía Nam.
N.Hải
Đặc sản mùa lũ bắt đầu về Tp. Hồ Chí Minh
Nguồn tin: NLD, 22/10/2006
Ngày cập nhật: 25/10/2006
Hơn một tuần nay, một số loại đặc sản mùa lũ như: cá linh, bông điên điển, ốc bươu, lươn đồng... đã bắt đầu xuất hiện ở một số chợ trong TP, nhất là các chợ An Lạc, Kiến Đức II (Q. Bình Tân), Trần Chánh Chiếu (Q.5)...
Theo nhận định của tiểu thương kinh doanh các sản phẩm này thì năm nay các loại đặc sản mùa lũ về ít và trễ hơn mọi năm. Vì vậy giá bán của những loại đặc sản mùa lũ năm nay khá cao. Cụ thể, cá linh tươi giá 28.000 - 30.000 đồng/kg, lươn đồng giá 60.000 - 65.000 đồng/kg, bông điên điển 15.000 - 18.000 đồng/kg, ốc bươu 10.000 đồng/kg...
S.Nhung
Thành công trong việc sản xuất giống và nuôi cá ngựa thương phẩm
Nguồn tin: Fistenet, 24/10/2006
Ngày cập nhật: 25/10/2006
Theo TS Trương Sĩ Kỳ -hiện nay Viện Hải Dương học đang thử nghiệm sản xuất giống và nuôi thương phẩm ba loài cá ngựa có tên khoa học là cá ngựa đen (Hippocampus kuda), cá ngựa vằn (Hippocampus comes), cá ngựa gai (H. spinosisimuss).
Mục đích của việc nghiên cứu là để nhân rộng số lượng loài cá đang có nguy cơ cạn kiệt, tạo công ăn việc làm và lợi ích kinh tế của người dân, cũng như phục vụ xuất khẩu, phục vụ cho việc nuôi cá cảnh ở Mỹ, Singapore...
Song song với việc sản xuất giống, Viện cũng tiếp tục bố trí các thí nghiệm nhằm hoàn thiện qui trình nuôi. Việc nghiên cứu chuyển đổi màu sắc cá ngựa cũng đang được tiến hành. Với thành công này, sau mỗi tháng, Viện sẽ nhân giống thành công từ 5.000 – 7.000 con giống ở quy mô trại sản xuất nhỏ, dung tích bể nuôi khoảng 20 khối nước biển.
Vốn đầu tư cho nuôi cá ngựa không nhiều nhưng lợi nhuận tương đối cao, tỷ lệ sống đạt trên 70%. Mặc dù được nhân giống nhân tạo, nhưng chất lượng con giống vẫn đảm bảo sinh trưởng tốt, cá ngựa có phát triển và tỷ lệ sinh sản cao so với cá ngựa sinh sống tự nhiên. Cá nuôi đến sáu tháng tuổi sẽ tái phát dục và sinh sản cho thế hệ F2, khép kín vòng đời của cá ngựa. Chất lượng không thua kém gì cá tự nhiên và so với thế giới.
Ở Việt Nam, hầu như tất cả công trình nghiên cứu cá ngựa là do tập thể cán bộ của Viện tiến hành từ những năm 80 của thế kỷ trước. Việc nhân giống thành công sẽ đem lại lợi ích kinh tế rất lớn, nếu đầu tư tốt và tìm thị trường tiêu thụ cá ngựa sống dùng cho y học ở Trung Quốc, Hồng Công và nuôi cảnh ở các nước phương Tây thì hiệu quả kinh tế đạt được sẽ gấp nhiều lần so với các mô hình chăn nuôi khác. Trước đây, biện pháp phục hồi nguồn lợi loài cá quý hiếm này thả hàng chục ngàn con cá ngựa giống ra biển, nhưng thành công với quy trình này của Viện Hải dương học trong việc nhân giống và nuôi thương phẩm sẽ làm giảm áp lực khai thác ngoài tự nhiên.
Theo tiến sĩ Kỳ, trị giá công nghệ nhân giống khoảng 2 tỷ đồng, nhưng với thành công vừa đạt được, có thể nói đây là thành quả to lớn nhất không chỉ ở Việt Nam mà so với thế giới, vì ưu điểm của qui trình nuôi cá ngựa ở Viện Hải Dương Học là kỹ thuật thấp, vốn đầu tư không lớn, nhưng năng suất đạt được lại rất cao.
“Trong một tương lai rất gần, người dân có thể nuôi được cá ngựa ở trong các trại tôm giống (hiện tại đang bỏ hoang, vì nghề nuôi tôm sú ở nước ta đang gặp nhiều khó khăn về dịch bệnh). Điều này sẽ làm ổn định công ăn việc làm cho các hộ nuôi nghèo. Ngoài ra, thành công trong việc chuyển đổi màu sắc cá ngựa phục vụ cho nuôi cảnh là một điều rất thú vị trong khi nghiên cứu của chúng tôi, kết quả đạt được chỉ do sự ngẫu nhiên. Thông thường cá ngựa có màu đen, nhưng chúng tôi có thể chuyển chúng sang màu vàng, có khi là màu đỏ” - tiến sĩ Kỳ cho biết.
Hiện nay, quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá ngựa chưa chuyển giao chính thức cho một đơn vị hay cá nhân nào, nhưng Viện Hải Dương học cũng đã phổ biến quy trình nuôi cho một số hộ dân ở Khánh Hòa, kết quả đạt được rất khả quan.
Theo Khoa học và phát triển
Nuôi cá thiên nhiên vốn ít lời nhiều
Nguồn tin: AG, 24/10/2006
Ngày cập nhật: 24/10/2006
4 ha mặt nước nuôi cá thiên nhiên của ông Tôn Văn Phán ổ xã Vĩnh Châu, thị xã Châu Đốc đã đem lại thu nhập cho gia đình ông từ 8 đến trên 10 triệu đồng/năm, tùy theo thời điểm giá cá thu hoạch.
Mô hình rất đơn giản, không đòi hỏi nhiều chi phí đầu tư ban đầu và thức ăn cho cá. Mỗi năm, sau 2 vụ lúa Đông xuân và Hè thu ông Tôn Văn Phán cho gia cố lại các bờ bao, sau đó dùng lưới thưa bên dứơi và lưới dầy bên trên bao xung quanh nuôi cá thiên nhiên vào mùa nước nổi. với số vốn đầu tư gần 2 triệu đồng để mua lưới bao là có thể sử dụng được 2 - 3 năm. Mỗi ngày, ông Tô Văn Phán bơi xuồng thả thức ăn làm bằng cám để nhử cá nhỏ vào ăn, sau khi nước rút cá sẽ xuống các ao đào sẵn xung quanh ruộng và tiếp tục nuôi thêm từ 1 đến 2 tháng nữa khi cá có gía thì bán.
Năm nay, ông Tôn Văn Phán còn thả thêm vào mô hình sản xuất của mình 10 kg cá chép, cá rô phi tương đương 5.000 con. Theo kinh nghiệm lâu năm nuôi cá thiên nhiên vào mùa nước nổi, ông có thể biết được năm nào cá nhiều hay ít. Đặc biệt việc nuôi cá thiên nhiên trên diện tích sản xuất lúa vào mùa nước nổi sẽ làm cho đất thêm màu mỡ nên năm nào vụ sản xuất lúa đông xuân trên diện tích đất của ông năng suất đều đạt rất cao, trên 8 tấn/ha.
Xuân Giang
Bộ Thủy sản phát động đợt thi đua 60 ngày nước rút
Nguồn tin: NLĐ, 23/10/2006
Ngày cập nhật: 24/10/2006
An Giang: Hậu quả nặng nề từ vụ cháy kho thuốc
Nguồn tin: TN, 23/10/2006
Ngày cập nhật: 24/10/2006
Ô nhiễm ngay trong lòng thành phố Phan Thiết
Nguồn tin: Binhthuan, 23/10/2006
Ngày cập nhật: 24/10/2006
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.