Thạnh Phú - thuỷ sản năm 2006 tiếp tục được mùa
Nguồn tin: BTre, 29/11/2006
Ngày cập nhật: 30/11/2006
Năm 2006, huyện Thạnh Phú đã thả nuôi 382 triệu con tôm sú giống trên diện tích 15.775 ha, đạt 99,8% so với kế hoạch đề ra. Theo báo cáo tổng kết của ngành thuỷ sản, vụ nuôi tôm năm 2006 phát triển bình thường, có phần chậm lớn hơn các năm trước, bệnh đốm trắng có xảy ra ở giai đoạn tôm từ 30 đến 60 ngày tuổi. Trên lĩnh vực nuôi thâm canh và bán thâm canh phải tiêu huỷ hoàn toàn 45 ha, phần còn lại đã thu hoạch xong, năng suất bình quân khoảng 6,1 tấn/ha mặt nước, tổng sản lượng được 2.847 tấn.
Tôm nuôi quảng canh, tôm rừng bị đốm trắng có chết rãi rác, nhưng mức độ thiệt hại không nhiều, người nuôi vẫn thu hồi được vốn. Phần còn lại thu hoạch đạt hiệu quả khá, năng suất bình quân 220 kg/ha. Riêng vùng tôm - lúa năm nay có hiện tượng chậm lớn và phải thu hoạch sớm, xã An Thạnh, An Thuận các hộ nuôi hoà vốn, các xã còn lại năng suất đạt bình quân từ 100 đến 150 kg/ha. Tổng sản lượng tôm quảng canh cải tiến, tôm rừng, tôm lúa là 2.657 tấn. Nhìn chung tôm nuôi trên các lĩnh vực năm 2006, kết quả năng suất đạt được cao hơn năm trước, hầu hết người nuôi có lãi.
Năm hợp tác xã (HTX) và lực lượng biên phòng quản lý thả nuôi 804 ha nghêu ở 2 xã Thạnh Phong, Thạnh Hải thu hoạch được 496 tấn nghêu thịt. Nuôi sò huyết trên diện tích 55 ha ở các bãi triều ven rạch và các ngư trường ven biển, thu hoạch 660 tấn. Nuôi cua được thả xen với các ao nuôi tôm sú, sản lượng thu hoạch 600 tấn (tăng gấp 10 lần năm 2005). Diện tích nuôi tôm càng xanh là 2.400 ha, trong đó nuôi chuyên 500 ha, sản lượng 120 tấn; nuôi luân vụ sau khi thu hoạch tôm sú là 1.900 ha, sản lượng 450 tấn. Nuôi cá trên diện tích 462 ha, sản lượng thu hoạch khoảng 3.000 tấn.
Toàn huyện có 100 cơ sở kinh doanh tôm sú giống và 15 trại sản xuất tôm giống, năm 2006 các trại đã cung cấp cho huyện hơn 90 triệu con tôm giống. Ngoài ra còn nhiều cơ sở kinh doanh giống cá: rô phi, trám cỏ, bống tượng, điêu hồng, cá trôi, cá chép, cá mè và tôm càng xanh… 27 cơ sở kinh doanh thức ăn, hoá chất, thú y thuỷ sản đã tạo được cầu nối trong việc chuyển giao tiến bộ khoa học và cung cấp dịch vụ cho người nuôi.
Bên cạnh thuận lợi: sự quan tâm đầu tư để đáp ứng cho nghề nuôi phát triển lâu dài và trình độ kỹ thuật của người nuôi luôn được nâng cao thông qua những lớp tập huấn, những buổi hội thảo, các lớp đào tạo ngắn hạn còn một số khó khăn chủ quan cần quan tâm: Số lượng Ban quản lý vùng nuôi các xã còn ít so với nhu cầu phát triển, số đã có ít hoạt động và hoạt động kém hiệu quả. Ý thức lịch thời vụ của người nuôi chưa cao, vẫn còn một số trường hợp thả giống sai qui định từ đó làm cho việc quản lý dịch bệnh gặp khó khăn. Ao hồ chuẩn bị nuôi tôm không bảo đảm về yêu cầu kỹ thuật. Trình độ người nuôi không đồng đều, do vậy rất hạn chế trong việc chuyển giao khoa học công nghệ và trao đổi kinh nghiệm. Hệ thống thuỷ lợi cho thuỷ sản có đầu tư nhưng vẫn còn yếu và thiếu.
Trần Tuyến
Trà Vinh: còn 1/3 hộ nuôi tôm chưa có lãi
Nguồn tin: TT, 30/11/2006
Ngày cập nhật: 30/11/2006
Vụ nuôi tôm sú năm 2006 nông dân Trà Vinh thu hoạch khoảng 19.700 tấn tôm sú, trị giá 1.458 tỉ đồng.
Trong số này có 65% số hộ nuôi có lãi, 35% hộ nuôi hòa vốn và bị lỗ vốn. Mô hình nuôi tôm sú thâm canh cho năng suất bình quân 1,9 tấn/ha, cá biệt có hộ nuôi đạt năng suất 6 tấn/ha; với nuôi bán thâm canh đạt 1,1 tấn/ha, nuôi quảng canh cải tiến đạt 0,46 tấn/ha.
Dự kiến, năm 2007 tỉnh Trà Vinh không tăng thêm diện tích nuôi tôm sú nhưng tăng hình thức nuôi thâm canh và quảng canh cải tiến.
VĨNH TRÀ
Bến Tre: Thành lập Liên hiệp Sản xuất Cá tra bền vững FAQUIMEX
Nguồn tin: CT, 29/11/2006
Ngày cập nhật: 30/11/2006
Sau sự ra đời của Tổ sản xuất liên kết tôm bền vững Faquimex, Sở Thủy sản tỉnh Bến Tre tiếp tục phối hợp với Công ty Xuất nhập khẩu Lâm thủy sản tỉnh với sự hỗ trợ của dự án VOCA, tiến hành thành lập Liên hiệp sản xuất cá tra bền vững Faquimex. Bước đầu đã có 9 hộ nuôi cá tra nộp đơn tham gia liên hiệp, với 21 ao nuôi, tổng diện tích thả giống gần 92.000m2.
Vào liên hiệp sản xuất cá tra bền vững Faquimex, người nuôi sẽ được hỗ trợ kỹ thuật, giới thiệu cơ sở cung cấp giống có uy tín, ký kết hợp đồng mua cá tra nguyên liệu và ứng vốn khi cá đạt trọng lượng trung bình 600gam/con trở lên (nếu người nuôi có yêu cầu). Công ty sẽ thu mua cá của thành viên theo giá thị trường (tối thiểu 10.000 đồng/kg loại 900 gam - 1.000 gam/con)...
Việc thành lập liên hiệp sản xuất cá tra bền vững Faquimex ở Bến Tre nhằm hướng đến hạn chế dịch bệnh, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tạo nguồn nguyên liệu chế biến và xuất khẩu của tỉnh.
CAO DƯƠNG
Cargill Vietnam tài trợ thiết bị cho phòng thí nghiệm của Khoa Thủy sản- Trường Đại học An Giang trị giá 20.000 USD
Nguồn tin: CT, 30/11/2006
Ngày cập nhật: 30/11/2006
ĐBSCL: Nhà máy giảm mua, cá tra rớt giá
Nguồn tin: SGGP, 29/11/2006
Ngày cập nhật: 30/11/2006
Năm 2007: Khu liên hợp sản xuất phụ phẩm cá tra, ba sa của Công ty Agifish sẽ chính thức hoạt động
Nguồn tin: AG, 29/11/2006
Ngày cập nhật: 29/11/2006
An Giang: Chuyển giao thành công quy trình sản xuất cá lăng nha
Nguồn tin: CT, 29/11/2006
Ngày cập nhật: 29/11/2006
Thạc sĩ Ngô Văn Ngọc, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Nông lâm TP Hồ Chí Minh cho biết: Sau 5 tháng triển khai, Khoa Thủy sản đã chuyển giao thành công quy trình sản xuất cá lăng nha cho Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang. Hiện nay, trung tâm đã sản xuất được hơn 65.000 cá giống cỡ từ 5-6cm. Những con giống này có chất lượng và thích nghi rất tốt trong điều kiện nuôi ao và nuôi bè tại An Giang.
Theo Thạc sĩ Ngô Văn Ngọc, cá lăng nha là loài cá sống phân bố trên các lưu vực sông Đồng Nai, Sài Gòn và sông Cửu Long. Cá có kích thước lớn, cơ thịt trắng, thơm ngon và có giá từ 83.000-85.000 đồng/kg. Hiện nay con giống ngoài tự nhiên rất khan hiếm nên sản lượng cá lăng nha đánh bắt từ tự nhiên đã suy giảm nghiêm trọng.
BÌNH NGUYÊN
Chế biến thủy sản thiếu nguyên liệu
Nguồn tin: TT, 29/11/2006
Ngày cập nhật: 29/11/2006
Ăn cá trắm, coi chừng... chết người!
Nguồn tin: Lao Động, 28/11/2006
Ngày cập nhật: 29/11/2006
Trong vòng một tuần, có 2 người chết và 22 người ngộ độc do ăn cá trắm đen (dân gian thường gọi cá trôi đen, cá thanh ngư). Ngộ độc từ ăn cá trắm - vốn được cho là lành tính - thì... thật hiếm hoi. Tại sao?
Trưa ngày 15.11.2006, ông Lê Đình Tình - 46 tuổi, Phó Chủ tịch HĐND xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai - ăn cá trắm đen (hay cá trôi đen). Sau khi ăn, ông Tình co giật tay chân, nôn mửa... Người nhà đưa ông đi cấp cứu. Ngày 22.11, ông Tình đã chết. Bệnh viện Chợ Rẫy xác định ông Tình "bị ngộ độc cá trôi...".
Được biết, cá trắm đen mà ông Tình ăn vào trưa ngày 15.11 nặng khoảng 1,7kg, nuôi ở ao cá ông Đỗ Trọng Nghĩa (ngụ ấp Bình Tân, xã Xuân Phú). Có 4 người dân khác ở xã Xuân Phú ăn cá trắm từ ao ông Nghĩa cũng bị ngộ độc, nhưng may mắn được cấp cứu qua khỏi.
Trong lúc đó, tại tỉnh Bình Thuận cũng xảy ra một vụ ngộ độc 17 người, do ăn loại cá trắm trên. Hậu quả, một cháu bé 2 tuổi đã tử vong, 16 người khác được cứu sống.
Từ 2 vụ việc trên, các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai đã vào cuộc tìm hiểu và cho biết: Tổng cộng 22 người ở 2 tỉnh Đồng Nai và Bình Thuận đã bị ngộ độc do ăn cá trắm đen; trong số đó, có 2 người đã tử vong.
Theo Phòng Y tế huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai: Ngày 14.11, bà Nguyễn Thị Sinh (ngụ ấp Bình Hoà, xã Xuân Phú) có mua của ông Đỗ Trọng Nghĩa khoảng 200kg cá các loại, gồm: Trắm, rô, trôi, rô phi và chép. Sau đó, bà Sinh mang cá về bán cho các nơi: - Ông Tình ở Bình Thuận (40kg), bà Diễm ở xã Suối Cát, huyện Xuân Lộc (40kg)...
Ngày 22.11, ngành y tế huyện Xuân Lộc đã lập biên bản, tạm đình chỉ xuất tất cả các loại cá trong hồ nuôi của ông Đỗ Trọng Nghĩa, lấy 5 lít nước dưới ao nuôi cá trắm về tỉnh nghiên cứu và Viện Pasteur Nha Trang đang thẩm định vụ ngộ độc này.
Cá trắm đen có tên khoa học Mylopharyngodon piceus, thuộc bộ phụ cá chép (Cyprinoidei), là loại cá nuôi lấy thịt. Đã có tài liệu ghi nhận ngộ độc do dùng mật cá trắm. Thường từ 1-2 giờ sau khi ăn hoặc uống mật cá trắm, sẽ xuất hiện những triệu chứng ngộ độc như: Đau bụng dữ dội và ỉa lỏng, nôn rất nhiều. Nếu không chữa kịp thời, đến ngày thứ hai, thứ ba sẽ thấy các triệu chứng đái ít, phù, khó thở và suy thận cấp, có người bị khạc ra máu, hôn mê và tử vong. BS Nguyễn Thanh Hương - Phó Trưởng phòng y tế huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
Cao Nguyễn Đông Anh
Cách nuôi tôm mới ở Bạc Liêu
Nguồn tin: ND, 28/11/2006
Ngày cập nhật: 29/11/2006
Từ năm 2000 đến nay, Bạc Liêu chuyển hơn 80.000 ha đất trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản (NTTS), nâng tổng số diện tích NTTS của tỉnh lên gần 180.000 ha. Ðiều đáng lưu ý là, sau hơn sáu năm thực hiện chuyển đổi sản xuất, đời sống không ít nông dân lại gặp nhiều khó khăn. Cùng với việc chuyển đổi sản xuất ồ ạt, cũng xuất hiện tình trạng nợ ngân hàng, bỏ đất trống và môi trường đất, nước bị ô nhiễm nặng.
Hạn chế của mô hình nuôi tôm công nghiệp - bán công nghiệp
Do việc chuyển đổi sản xuất diễn ra quá nhanh, trong khi đó lại thiếu quy hoạch, việc đầu tư làm thủy lợi, khoa học - kỹ thuật chưa thỏa đáng, thời gian qua, toàn tỉnh Bạc Liêu có hơn 2.000 ha NTTS phải bỏ hoang. Ðiều đáng nói là hầu hết diện tích này là diện tích làm theo mô hình nuôi công nghiệp, bán công nghiệp (CN-BCN). Ở TX Bạc Liêu, ai cũng biết ông Hai Tệch là người đầu tiên bỏ ra hơn hai tỷ đồng để đầu tư nuôi tôm công nghiệp tại xã Hiệp Thành vào năm 2000. Hai vụ đầu, ông Hai Tệch lãi hai tỷ đồng. Chính ông là một trong những người tạo ra "cơn sốt" đua nhau mua đất nuôi tôm tại vùng đất ven biển Bạc Liêu. Nhưng nay mọi chuyện đã khác. Mới đây, gặp chúng tôi, ông than thở: "Tôi thất bại liên tiếp mấy năm nay. Hiện toàn bộ 60 ha đất chẳng ai mua, chẳng ai mướn vì bị ô nhiễm nặng. Bây giờ đầu tư tiếp cũng chẳng dám vì đã hết vốn. Ðúng là nghề nuôi tôm sú công nghiệp mau giàu, nhưng nợ nần như chúa chổm cũng chẳng mấy chốc". Trường hợp như ông Hai Tệch ở Bạc Liêu khá phổ biến. Chỉ tính riêng tại TX Bạc Liêu, hiện có 1.252 ha đất nuôi trồng thủy sản theo mô hình CN-BCN bỏ trống...
Nuôi tôm bằng chế phẩm vi sinh - hướng làm ăn mới
Thời gian gần đây, tại Bạc Liêu, nhiều hộ nuôi tôm đã áp dụng phương pháp nuôi có sử dụng chế phẩm vi sinh. Mô hình này bước đầu mang lại hiệu quả khá cao, có đến gần 80% số hộ áp dụng mô hình này thu lợi nhuận ổn định. Ưu điểm của mô hình nuôi tôm sử dụng chế phẩm vi sinh là tạo nên môi trường sạch, chi phí thấp, tôm phát triển nhanh và hạn chế dịch bệnh, nhất là bệnh đốm trắng, đầu vàng, phân trắng... Theo kết quả khảo sát của Sở Thủy sản, nuôi tôm sử dụng chế phẩm vi sinh ngày càng phổ biến. Về mật độ nuôi 10 - 20 con/m2 chiếm 60%, trong đó số hộ sử dụng chế phẩm vi sinh đạt hiệu quả gần 80%. Ðối với hai dạng mật độ dưới 10 con/m2 chiếm 11% và dưới 20 con chiếm 29%, thì những hộ chỉ sử dụng chế phẩm vi sinh đạt hiệu quả từ 65 đến 75%.
Mô hình nuôi tôm ứng dụng vi sinh ngày càng được nhân rộng và đã xuất hiện nhiều điển hình làm ăn hiệu quả. Có thể kể tới ông Võ Hồng Ngoãn, ở xã Vĩnh Trạch Ðông, TX Bạc Liêu. Ông Ngoãn cho biết, ông nuôi tôm theo quy trình sinh học, mật độ từ 7 đến 10 con/m2. Trong quá trình nuôi tôm, định kỳ hằng tuần ông mang nước ao lên Trung tâm Khuyến ngư tỉnh để kiểm tra. Nếu mẫu nước trong ao có nhiều vi khuẩn gây hại cho tôm thì ông xử lý bằng đánh vi sinh liều cao để khống chế. Mới đây, ông thu hoạch vụ tôm trúng đậm, đạt gần 30 tấn tôm, thu lãi hàng tỷ đồng.
Từ năm 2004 đến nay, ông Dương Văn Mến, ở xã Long Ðiền Ðông, huyện Ðông Hải, chuyển sang quy trình nuôi tôm sử dụng chế phẩm vi sinh, do vậy môi trường ao nuôi luôn ổn định, tôm phát triển nhanh, thịt tôm sạch, năng suất và lợi nhuận cao.
Nuôi tôm sạch đáp ứng yêu cầu xuất khẩu
Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, làm sao để sản phẩm đáp ứng các yêu cầu khắt khe của các thị trường xuất khẩu là yếu tố rất quan trọng. Ðể nâng cao hiệu quả cho người nuôi tôm, từng bước khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, giảm rủi ro trong nuôi trồng thủy sản, tỉnh Bạc Liêu chủ trương quy hoạch, xây dựng nhiều mô hình nuôi tôm sinh thái, nuôi tôm vi sinh, nuôi tôm sạch... nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Ðồng chí Phan Trường Giang, Giám đốc Sở Thủy sản, cho biết: Khâu chế biến xuất khẩu của nước ta đang bị rào cản thương mại kiểm tra rất gắt gao về dư lượng kháng sinh, nguồn gốc tôm nuôi, việc dùng nguyên liệu như thế nào... Nếu sử dụng nhiều kháng sinh, hóa chất trong quá trình nuôi thì xem như vùng nuôi đó không đạt yêu cầu. Vì vậy, bà con nên nuôi theo quy trình sinh học để đạt chất lượng tôm sạch. Qua áp dụng và được các ngành chức năng công nhận, khi sử dụng chế phẩm vi sinh vào nuôi tôm, về trước mắt cũng như lâu dài sẽ không ảnh hưởng môi trường, góp phần bảo đảm sức khỏe cho con người và vật nuôi.
Về việc đưa chế phẩm sinh học EM vào ứng dụng tại Bạc Liêu, đồng chí Ðỗ Mạnh Thường, Phó Giám đốc Sở Khoa học - Công nghệ tỉnh cho biết thêm: Cách đây mấy năm, Bạc Liêu nhận chuyển giao công nghệ kỹ thuật chế phẩm EM từ Trung tâm nghiên cứu vi sinh ứng dụng Trường đại học Quốc gia Hà Nội, sản xuất theo công nghệ của Nhật Bản. Ðây được xem là bước khởi đầu thuận lợi cho tỉnh vì lúc đó chưa có địa phương nào trong cả nước được chuyển giao công nghệ này. Công nghệ sản xuất chế phẩm EM được giao cho Trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ thuộc Sở Khoa học - Công nghệ Bạc Liêu triển khai. Kể từ đó, chế phẩm EM được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, xử lý môi trường tại Bạc Liêu. Ưu điểm nổi bật của việc nuôi tôm theo phương pháp sử dụng chế phẩm sinh học EM là cải thiện chất lượng nước, làm phân hủy nhanh các chất cặn bã hữu cơ, nhất là các chất dư thừa từ thức ăn của tôm, ổn định độ pH (độ phèn), hạn chế ô nhiễm môi trường nước, đất..., giúp cho người nuôi tôm thu được hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
Tuy nhiên, chúng tôi được biết, người nuôi tôm theo mô hình áp dụng chế phẩm vi sinh còn gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn chế phẩm này, vì hiện tại trên thị trường bán nhiều loại, do vậy không ít người, nhất là nông dân không biết lựa chọn loại chế phẩm nào đúng chất lượng, phù hợp và có hiệu quả. UBND tỉnh Bạc Liêu cần chỉ đạo Sở Thủy sản, Sở Khoa học - Công nghệ và các ngành có liên quan kết hợp các cấp chính quyền tổ chức rút kinh nghiệm thường xuyên, đồng thời nhân rộng mô hình nuôi tôm vi sinh để bà con áp dụng. Mặt khác, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, khuyến cáo người dân nuôi tôm theo quy trình vi sinh theo hướng bền vững. Xúc tiến xây dựng nhiều chợ tôm sạch, các nhà máy chế biến, thu mua tôm sạch và xuất khẩu với giá cao hơn, nhằm khuyến khích người nuôi tôm sạch theo công nghệ vi sinh. Tỉnh cần có cơ chế thu hút đầu tư để các công ty sản xuất chế phẩm sinh học và thức ăn công nghiệp bổ sung men vi sinh..., nhằm từng bước khắc phục tình trạng nuôi tôm kém hiệu quả như thời gian qua, xác lập một quy trình nuôi tôm hiệu quả cao và bền vững trong những năm tiếp theo, giúp hàng chục nghìn hộ nuôi tôm trong tỉnh nuôi tôm theo phương pháp mới...
TRỌNG DUY
Mưu sinh mùa nước nổi
Nguồn tin: TP, 28/11/2006
Ngày cập nhật: 28/11/2006
Qua vài trận mưa đầu mùa, nước sông Như Ý đã dâng lên, nhấn chìm những cánh đồng ven sông thuộc Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế). Đó cũng là lúc những bạn chài rủ nhau ngược dòng sông, bắt đầu một cuộc mưu sinh mới.
Theo chân người đặt đó
Về làng Lưu Khánh (xã Phú Dương, Phú Vang) tìm những người quanh năm lăn lộn với sông nước, nhà nào cũng vắng hoe: “Bố mẹ em đi đặt đó đầu mùa mưa rồi”.
Chúng tôi ven theo sông Như Ý, đến cánh đồng phía Tây xã Thủy Thanh (huyện Hương Thủy).
Những cái chòi dựng tạm bợ trên mô đất rộng 4m, dài 20m nổi lên giữa cánh đồng nước. Ở cái chòi gần đó, anh Trãi đang chuẩn bị đồ nghề cho một ngày mưu sinh. Khi biết chúng tôi muốn theo ghe đặt đó, anh Trãi vui vẻ: “Đi cũng được nhưng không khéo uống no nước sông đó”.
Anh Trãi vừa chèo ghe vừa say sưa kể về gốc tích của nghề đặt đó. Ngày xưa, cứ tới mùa nước nổi, người làng Lưu Khánh lại bắt đầu “cày xới” những cánh đồng ngập nước.
Họ rủ nhau đi đặt đó, kiếm ít cá cấn về ăn. Loài cá bé chỉ bằng ngón tay út này được dân Huế rất ưa thích, ngày càng có giá. Nên từ chỗ đặt đó bắt cá để cải thiện bữa ăn hằng ngày thì nay đã trở thành nghề mưu sinh cha truyền con nối.
Ăn ngủ cùng đó
Cơn mưa nặng hạt lúc đêm kéo dài cho tới sáng. Khắp cánh đồng nước, những chiếc ghe chở đầy đó đang lắc lư trong màn mưa trắng xóa.
Làng Lưu Khánh hiện nay có hơn 200 hộ dân, có hàng chục hộ mưu sinh bằng nghề đặt đó, được truyền từ đời này qua đời khác. Mùa đặt đó bắt đầu từ tháng Bảy cho tới cuối tháng Tư.
Ba anh em anh Trãi, một tay chống sào, một tay lấy từng viên mồi được làm từ bột cám trộn với bột sắn rang vàng, thấm nước, vắt thành từng viên bằng quả trứng cút cho vào miệng đó rồi đặt từng cái xuống nước.
Mỗi chiếc đó được gắn vào một chiếc cần tre dài 1,5m để giữ không cho nước cuốn trôi. “Trời mưa gió thế này, một người vật lộn với hơn 250 cái đó phải mất cả ngày ”- Anh Nguyễn Thuyền (em anh Trãi) nói.
Nghề này đòi hỏi đặt số lượng đó rất lớn, có khi lên đến 300-400 cái mới có được 5, 6 kg cá cho vợ lên chợ phố bán.
Sáng ra, ba anh em họ bồng bềnh theo những chiếc ghe, hai ba tiếng đồng hồ mới về. Trời chưa sáng, họ đã có mặt trên nước. Mặt trời khuất sau rặng tre còn thấy họ hối hả thu lượm những cái đó cuối cùng.
Vừa cất đó lên ghe, anh Trãi tâm sự: “Nghề đặt đó này, ăn thua vào buổi chiều, lúc ấy cá cấn mới đi theo bầy. Chứ buổi sáng thì toàn lũ cá thia chui vào phá mồi thôi”.
Anh Trãi kể: “Hồi mới cưới vợ, cứ mờ sáng, tôi chèo ghe đi đặt đó. Vợ lên chợ bán cá, gom góp từng đồng tiền ít ỏi từ sông nước về dựng được ngôi nhà ngói hai gian, lo cho đàn con ăn học…Tất tật đều nhờ vào nghề đặt đó này”.
Nghề đặt đó như thân cò thân vạc, nay đây mai đó. Cánh đồng nào anh Trãi cũng chỉ trụ lại dăm bữa nửa tháng là dời chòi đi nơi khác. Ngược sông Như Ý từ đầu mùa nước nổi cho đến những ngày giáp tết mới về, anh Trãi không thể nhớ đã dời “nhà” bao nhiêu lần. Chỉ nhớ hôm nay ngược Truồi (Phú Lộc) mai lại về bào Ô, bào Đầm (Phú Vang)…
20 năm gắn bó với nghề, anh Trãi chỉ tạm nghỉ khi vợ vào kỳ sinh nở. Con của anh đứa lớn nay học đến cấp ba, đứa nhỏ gửi ở nội để xuôi ngược sông nước mưu sinh.
Không chỉ có hoàn cảnh như thế, người em của anh cũng gửi con cái ở nhà bà con đi tìm kế sinh nhai trên sông nước. “Suốt mấy tháng rong ruổi trên sông nước, mới có cha hoặc mẹ về thăm con. Khi đó mới có tiền đóng học phí, tiền mua sắm áo quần, tiền mua đồ ăn... Đêm nào nằm ngủ cũng thèm được nghe tiếng cười nói của chúng”– Vợ anh Trãi bùi ngùi.
Văn Định - Mỹ Hiếu
Xử lý tình trạng hải sản nhiễm Chloramphenicol
Nguồn tin: TP, 27/11/2006
Ngày cập nhật: 28/11/2006
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO: Các doanh nghiệp chế biến thủy sản "trở bộ" ra sao?
Nguồn tin: BCT, 28/11/2006
Ngày cập nhật: 28/11/2006
Miền Trung: Ngư dân trúng đậm ruốc
Nguồn tin: SGGP, 27/11/2006
Ngày cập nhật: 28/11/2006
Liên tục trong gần nửa tháng gần đây, ruốc xuất hiện dày đặc trên vùng biển các tỉnh miền Trung. Mỗi ngày có hàng nghìn ngư dân các tỉnh này dùng các ngư cụ như lưới quét, cào để đánh bắt với sản lượng khai thác bình quân mỗi tàu đạt từ 200-300kg/ ngày đêm.
Với giá hiện tại từ 2.000 đến 2.500đ/ 1 kg ruốc tươi; mỗi ngày, 1 tàu có thể thu nhập từ 400 đến 500 nghìn đồng. Nhiều ngư dân cho biết, chưa lúc nào ruốc xuất hiện nhiều và được giá như hiện nay.
Ng.H.
Nuôi tôm bằng cách… phá rừng?
Nguồn tin: SGGP, 27/11/2006
Ngày cập nhật: 28/11/2006
Những hồ tôm ken dày, lố nhố, những cánh rừng phòng hộ ven biển bị triệt hạ, nước thải tràn lan, những hàng dương trụi nhánh do nguồn nước bị ô nhiễm, hàng trăm hộ dân địa phương bức xúc viết đơn, phản ánh đến các cơ quan chức năng nhờ can thiệp nhưng rơi vào im lặng... Đó là hiện trạng nuôi tôm trên cát tại huyện Mộ Đức và Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
Từ phá rừng phòng hộ
Năm 2002, xã Phổ Khánh (H.Đức Phổ) cho 33 hộ dân (26 hộ trong xã và 7 hộ từ địa phương khác) thuê 38 ha đất ven biển để nuôi tôm. Thời hạn cho thuê 5 năm, các hộ thuê có “nghĩa vụ” đóng 2,5 triệu đồng/ha/năm vào ngân sách xã.
Những hộ dân sau khi được xã ký cho thuê đất đã cơi nới, lấn chiếm, phá rừng phòng hộ thuộc dự án trồng rừng ven biển – do tổ chức JICA (Nhật Bản) viện trợ. Qua tìm hiểu của chúng tôi, vùng ven biển từ thôn Phú Long đến thôn Quy Thiện (xã Phổ Khánh), các hộ dân đã xây dựng hồ nuôi tôm trên diện tích 27,4ha, nhiều hợp đồng thuê đất lấn vào đất rừng phòng hộ từ 10-40m.
Trong đó, hợp đồng số 10/HĐ ngày 9-9-2005 do ông Nguyễn Bá Kiều đứng tên, có cả Phó Chủ tịch UBND xã Phổ Khánh là ông Phạm Kim Oanh thuê 1ha, đã san phá lấn rừng phòng hộ 4.000 m2. Đặc biệt hơn là trường hợp của ông Nguyễn Minh Khiêm đứng tên thuê 1ha, đã phá cả cánh rừng dương để xây dựng hồ tôm. Trường hợp này Hạt Kiểm lâm huyện Đức Phổ và UBND xã Phổ Khánh đã lập biên bản, nhưng chưa xử lý (!?).
Ở thôn Phước Điền, 11 hộ dân thuê 12,5ha đã lấn chiếm 3,6ha rừng dương. Trong đó có ông Nguyễn Đức Tịnh (quê Gia Lai) lấn chiếm 8.000m2, được ông Võ Đông Dân, chủ tịch UBND xã ký đơn cho phép. Theo phản ánh của người dân địa phương, tình hình lấn chiếm đất và phá rừng phòng hộ ở Phổ Khánh diễn ra “ban ngày ban mặt”, người dân đốn hạ trên 10.000 gốc dương nhưng vẫn không thấy ai lên tiếng.
Trong khi đó, tại xã Đức Phong (H.Mộ Đức), 10 hộ lấn chiếm đất rừng phòng hộ nuôi tôm và 3 hộ lấn chiếm để… làm nhà. Điển hình trong số này là ông Bùi Út và nhóm 4 người xây dựng 5 hồ nuôi tôm trên cát rộng 1,7 ha. Họ đã tự đặt đường ống dài 300m băng qua rừng phòng hộ đưa nước biển vào ao tôm. Ông Út đã bị lập biên bản, xử phạt nhưng… vẫn tiếp tục. Ở Đức Phong, ngoài diện tích quy hoạch vùng nuôi 20,4 ha, người dân còn “ăn leo” ra ngoài gần 6ha, trong đó đất rừng phòng hộ 3,7ha và đất thuộc hệ thống cấp thoát nước phía Tây 2,1ha.
Đến vi phạm luật
Việc chính quyền xã Phổ Khánh, xã Đức Phong, Phổ Quang tự ý cho thuê đất với thời hạn 5 năm đã vi phạm quy định tại Điều 37 Luật Đất đai. Việc này đã gây bức xúc cho người dân bởi “những người có nhu cầu nuôi tôm” xin thuê đất, nhưng thực tế họ không nuôi tôm mà lại bán, sang nhượng trái phép cho những người đến từ các địa phương khác.
Trong số 26 hộ dân xin thuê đất ở xã Phổ Khánh thì hiện chỉ có khoảng hơn 10 hộ trực tiếp nuôi tôm. Người ngoài địa phương thuê đất được và cũng làm hồ nuôi, rồi... “chuyển nhượng” với giá cao hơn hàng chục lần, nhiều nhất là trường hợp của ông Nguyễn Đức Tịnh. Năm 2001, ông Tịnh thuê 2ha tại thôn Phước Điền để nuôi tôm thí điểm (nhưng thực tế ông Tịnh đã san ủi 3,1ha), xây dựng 12 hồ.
Tiếp đó, ông Tịnh mua lại của ông Trần Văn Dúi 1 ha (xây 4 hồ) và thuê thêm 2.500m2 ở thôn Phước Điền (xây dựng 2 hồ). Ông Tịnh đã “sang tay”… 16 hồ. Điều gây bất bình trong người dân là việc sang nhượng trái phép của ông Tịnh lại được ông Võ Đông Dân, chủ tịch xã xác nhận.
Lỗi tại… quy hoạch?!
Vấn đề của xã Phổ Khánh, theo Huyện ủy Đức Phổ thì một phần do lỗi quy hoạch(!?). Từ năm 2002-2004, Bộ NN&PTNT và tỉnh Quảng Ngãi đã ký 3 Quyết định quy hoạch “tréo ngoe”, đã tạo kẽ hở cho tiêu cực phát sinh.
Cụ thể: tại quyết định số 562 QĐ/BNN/HTQT ngày 20-02-2001 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT phê duyệt dự án trồng rừng trên cát ven biển Nam Trung bộ VN do Chính phủ Nhật Bản viện trợ không hoàn lại, trong đó có xã Phổ Khánh.
Ban Quản lý dự án của Bộ NN-PTNT cùng Sở NN&PTNT tỉnh, huyện và các xã có dự án khảo sát 2 lần, dự kiến sẽ triển khai trồng vào giai đoạn 2003-2006. Thế nhưng năm 2002, Sở Thủy sản Quảng Ngãi cũng... quy hoạch tổng thể nuôi trồng thủy sản của tỉnh đến năm 2010, trong đó có 133,5 ha quy hoạch hồ nuôi tôm trên cát thuộc huyện Đức Phổ. Sở NN&PTNT liền báo cáo UBND tỉnh việc chồng chéo quy hoạch, xác định rõ số diện tích các xã ven biển đã được Bộ NN&PTNT quy hoạch trồng rừng nhưng tỉnh Quảng Ngãi vẫn phê duyệt dự án tổng thể nuôi trồng thủy sản. Dự án chồng lên dự án (!?).
Ngày 14-6-2004, tỉnh Quảng Ngãi còn ban hành Quyết định số 154/2004/QĐ/UB về việc quy hoạch tổng thể phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2002-2010 có cả bản đồ rừng phòng hộ của các xã ven biển. Tuy nhiên, cả 3 đồ án đến nay đều chưa có quy hoạch chi tiết nên chưa có cơ sở xác định… hành lang bảo vệ rừng phòng hộ cụ thể.
HÀ MINH
Sản lượng tôm sú nuôi ở Bến Tre giảm 19,4%
Nguồn tin: Bến Tre, 27/11/2006
Ngày cập nhật: 27/11/2006
Tổng diện tích nuôi thủy sản của Bến Tre trong năm 2006 là 40.829 ha, đạt 93,8% kế hoạch, giảm 4,5% so với năm 2005. Trong đó, diện tích nuôi chuyên canh tôm sú là 31.149 ha, gồm nuôi thâm canh và bán thâm canh 5.189 ha; nuôi quảng canh, nuôi tôm rừng và xen trong ruộng lúa 26.230 ha. Năng suất bình quân đạt 5,1 tấn/ha. Tổng sản lượng 20.160 tấn, giảm 19,4% so với năm 2005.
Nguyên nhân do dịch bệnh đốm trắng hồi đầu vụ đã làm tôm chết hàng loạt. Mặc dù năng suất và sản lượng tôm sú nuôi giảm so với năm trước, nhưng giá tôm thương phẩm phục vụ cho các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu tăng cao, nên phần lớn người nuôi đều có lãi.
Nguyễn Bảy
Đề nghị cấm nhập khẩu và lưu hành kháng sinh cấm
Nguồn tin: TT, 27/11/2006
Ngày cập nhật: 27/11/2006
Triệu phú nuôi tôm trên “cánh đồng chó ngáp”
Nguồn tin: TP, 27/11/2006
Ngày cập nhật: 27/11/2006
TP - Quảng Trọng Phong (SN 1972), ngụ tại ấp Cạnh Đền III (xã Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận, Kiên Giang), người được mệnh danh là triệu phú nuôi tôm trên “cánh đồng chó ngáp”.
Tôi gặp Phong giữa trưa nắng trong một ngày đầu mùa khô cuối tháng 11/2006 khi anh đang vật lộn với ruộng tôm chuẩn bị cho vụ mới.
Phong chỉ ruộng tôm nói: Ông bà cha mẹ tôi mấy đời sống ở cái vùng đất chua phèn này, nơi mà người ta vẫn thường gọi là “cánh đồng chó ngáp”. Lúa mỗi năm chỉ trồng được một vụ nhưng năng suất chẳng được bao nhiêu, khoảng 3 tấn/ha.
Thanh niên lớn lên phần lớn bỏ làng, bỏ đất đi nơi khác làm thuê kiếm sống. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện và thực tế những điển hình về thanh niên nuôi trồng thủy sản giỏi trong những năm gần đây đã thôi thúc tôi quyết định bàn bạc với gia đình “giã từ” nghề lúa để chuyển sang nuôi tôm.
Chuyển đổi một ngành nghề, chuyển đổi tập quán sản xuất là không dễ. Có người còn hù tôi rằng nuôi tôm công nghiệp giống như “sống dưới giá treo cổ”, nó là siêu lợi nhuận và cũng siêu rủi ro.
Trước khi phá ruộng bước vào nghề nuôi tôm vào năm 2003, tôi đã được tập huấn nghiệp vụ nuôi tôm sú thâm canh và bán thâm canh do Huyện Đoàn cùng phòng Nông Lâm – Ngư nghiệp huyện tổ chức.
Từ 20.000m2 đất trồng lúa của gia đình, Phong sử dụng cơ giới đào đắp, phân chia thành 5 ao. Đáy ao sau khi xử lý vôi khử chua được bơm nước sông vào qua hệ thống lọc, để 3 – 4 ngày tiếp tục diệt giáp sát và diệt khuẩn bằng Sundin. Sau đó tiếp tục dùng vôi để xử lý đến khi độ PH đạt yêu cầu…
Con giống trước khi đưa về ao nuôi đều được Phong chọn lọc lỹ lưỡng, kiểm tra bằng phương pháp PCR. Chuẩn bị rất kỹ từ các khâu kỹ thuật, học hỏi kinh nghiệm nhưng 2 năm đầu do “lạ ruộng” nên sản lượng tôm không đạt như yêu cầu, tiền bán tôm lợi nhuận chẳng bao nhiêu, chỉ đủ tái sản xuất.
Qua năm 2005 là năm đại thắng đối với Phong, đầu vụ anh thu 2,6 tấn tôm, bán được 237 triệu. Đến tháng 7/2005 tiếp tục thu hoạch 4 tấn, bán được 384 triệu. Trừ tất cả các chi phí sản xuất gia đình Phong thu lãi từ nuôi tôm năm 2005 là 355 triệu đồng.
Năm 2006 này Phong tiếp tục có bước đột phá mới khi mua thêm 20.000m2 đất nữa để mở rộng sản xuất. Đặc biệt Phong bắt tay với anh Vi Văn Đấu, nông dân sản xuất giỏi cấp huyện, tỉnh 7 năm liền, thành lập tổ hợp tác nuôi trồng thủy sản.
Hiện Phong đang nhờ Huyện Đoàn Vĩnh Thuận đứng ra tổ chức lớp quản lý HTX, chuẩn bị kiến thức cho việc ra đời HTX Thanh niên nuôi trồng thủy sản.
Hồng Lĩnh
Tôm nuôi chết nhiều nơi ở Cà Mau
Nguồn tin: eND, 26/11/2006
Ngày cập nhật: 27/11/2006
Khoảng 20 nghìn ha tôm nuôi bị chết ở nhiều nơi trên địa bàn Cà Mau, nhiều nhất là ở huyện Ðầm Dơi, diện tích tôm chết lên đến gần 9.000 ha, gây thiệt hại nặng nề cho người sản xuất. Nguyên nhân tôm chết vẫn là nguồn nước bị ô nhiễm, nguồn tôm giống thả nuôi không bảo đảm chất lượng.
Ðể khắc phục tình trạng tôm chết, tỉnh Cà Mau tăng cường công tác khuyến ngư: sản xuất, kiểm dịch chặt chẽ nguồn tôm giống tại các cơ sở sản xuất trước khi xuất bán; tập huấn nuôi trồng thủy sản; phổ biến rộng rãi mô hình thuộc Chương trình 135, Chương trình khuyến ngư quốc gia về nuôi tôm quảng canh cải tiến, đạt năng suất cao, cho nông dân tại các địa phương có diện tích tôm nuôi bị chết.
Mành tôm mùa biển động
Nguồn tin: PY, 26/11/2006
Ngày cập nhật: 26/11/2006
Mới hơn 3 giờ chiều, đàn ông, trai tráng trong làng đã tập trung đông đủ ở bãi biển Phú Thường. Đang mùa biển động nhưng ngư dân ở đây lại dong thuyền về hướng mũi Cao Biền để chong mành tôm. Ông Biện Rèn, lạch trưởng của thôn Phú Thường khề khà: “Ngày trước biển động, dân biển lo đói. Còn giờ, biển động, làm mành tôm càng trúng, người ta càng có nhiều tiền. Nhờ nghề mành tôm, dân biển An Hoà chúng tôi khá giả lên đấy!”.
Ông Biện Rèn chuẩn bị lưới để chong mành tôm - Ảnh: NGỌC DUNG
Ông Biện Rèn vốn rất rành nghề chong mành tôm hùm giống, cho biết: Dân Phú Thường (xã An Hoà, huyện Tuy An) bắt đầu làm nghề mành tôm từ năm 2003 trở lại đây. Hồi trước, bà con ở đây có người đánh lưới cũng bắt trúng con tôm xao (tên gọi của tôm hùm lúc nhỏ) nhưng không biết giá trị của nó. Chỉ từ khi nghe dân Sông Cầu vớt tôm bán cho những người nuôi ương với giá tiền rất cao (130.000 đồng/con), người Phú Thường mới đổ xô vào làm nghề này. Bây giờ không chỉ ở Phú Thường mà cả hai thôn Nhơn Hội, Hội Sơn của xã có đến gần 200 chiếc thuyền làm nghề mành tôm.
Tôm xao hay tôm trắng là loại tôm nhỏ như cây tăm, trong suốt. Hình thù của nó giống như con bò cạp lúc nhỏ. Phải nhìn thật kỹ mới phát hiện ra chúng. Mùa biển động cũng là mùa sinh sản của tôm hùm. Gặp sóng đánh mạnh, những con tôm xao ở ngoài khơi dạt vào. Ông Rèn cười: “Biển động, sóng càng mạnh thì người ta lại bắt được nhiều tôm xao”. Chúng thường xuất hiện ở những nơi kín gió, có chỗ ẩn núp như ở các gành, bãi rạng…
Để bắt tôm xao, người ta phải dùng lưới trủ xanh và chong đèn để nhử chúng. Loại tôm xao này rất ưa đèn. Để “dụ” được chúng đến phải thắp nhiều đèn, trung bình một chiếc thuyền thắp 20-30 bóng type và phải chạy máy nổ suốt đêm. Một lần đi chong mành tôm phải mua 10-15 lít dầu là chuyện thường.
Ông Biện Hiệp, một người làm nghề mành tôm bảo rằng: “Ngư dân đánh bắt tôm xao từ tháng 10 đến tháng 3 âm lịch. Nghề mành tôm chỉ sợ bão thôi chứ trời động, gió cấp 5-6 vẫn đánh. Sóng càng lớn, càng bắt được nhiều tôm xao. Để bảo đảm an toàn, mỗi thuyền đều có bộ đàm để liên lạc với nhau. Hệ thống điện đài giúp ngư dân cập nhật thông tin dự báo thời tiết 24/24. Nếu thấy tình hình không ổn là “dọt” vô bờ liền”. Làm nghề chong mành tôm nói chung là rất nhàn, 3 giờ chiều chạy thuyền ra để “xí” chỗ trước. Lưới rộng khoảng 10 mét nên phải bơi thuyền thúng để rắc lưới. Thả lưới xong, người thì ngồi tán gẫu, người thì ăn cơm, có người còn nấu cả cơm trên thuyền. Khoảng 2-3 giờ kéo lưới một lần. Đến 7 giờ sáng hôm sau là về bến.
Tôm xao được ngư dân bán cho những người nuôi ương hay những đại lý thu mua trung chuyển. Giá một con tôm xao tuỳ loại từ 130.000-170.000 đồng. Một đêm bắt được 2-3 con coi như ổn. Ông Đinh Chà ở Nhơn Hội, một “tay” chong mành tôm chuyên nghiệp không chỉ cắm bãi ở An Hoà mà còn có mặt ở Nha Trang (Khánh Hoà) cười: “Hên xui thôi! Có hôm về tay không lỗ tổn, có hôm hên đánh trúng luồng. Nếu gặp vận đỏ thì trung bình một con nước kiếm được 5-7 triệu. Có tháng gặp tôm xao chạy dày, kiếm được 50-70 triệu đồng ngon lành. Khi đó, thế nào cả làng cũng khao một bữa bia lon “thả dàn”!
Để chong mành tôm chỉ cần chạy thuyền ra cách bờ 2- 3 cây số. Một chiếc thuyền nhỏ khoảng chừng 7-8 thước, trên thuyền có 2-4 người đi bạn. Từ trẻ con 13 tuổi cho đến lão ngư gần 60 tuổi, miễn có sức khoẻ tốt là có thể đi chong mành. Một dàn mành tôm tuỳ loại gồm lưới và chì khoảng từ 5-10 triệu đồng. Chi phí cho một chuyến đi biển không cao, trong khi thu nhập lại ngất trời nên 3 năm trở lại đây, ngư dân từ Sông Cầu, An Hải cho đến Khánh Hoà làm nghề rất đông.
Gương mặt sạm nắng của ông Chà rạng rỡ nụ cười: Mấy năm trước, dân biển sợ nhất là mùa biển động, trong nhà không có tiền, đàn ông trai tráng chỉ biết tụ tập đánh bài, uống rượu. Từ khi có nghề mành tôm, không còn chuyện đó nữa. Nhiều lúc ham làm quá mà cả ngày 30, mùng một Tết người ta cũng ở ngoài biển để chong mành.
Phó Chủ tịch xã An Hoà Nguyễn Đình Thân chỉ tay về phía những căn nhà ngói mới mọc lên ở làng biển: “Cũng nhờ nghề mành tôm mà đời sống của bà con vùng biển Nhơn Hội, Phú Thường, Hội Sơn mấy năm nay khá hơn rất nhiều. Người ta còn mua ti vi, xe máy, xây cất nhà cửa”.
... Mới 3 giờ chiều, đàn ông, trai tráng trong làng đã tập trung đông đủ ở bãi biển Phú Thường chang chang nắng. Tiếng cười nói, tiếng gọi nhau í ới hoà trong tiếng sóng khua động ầm ào. Bốn người con trai của ông Biện Rèn là anh Biện Văn Sự, Biện Văn Lợi, Biện Ngọc Thạch, Biện Văn Thưởng đều có mặt. Họ mang theo lưới và máy sục khí (để cung cấp ô xy cho tôm xao sau khi vớt chúng lên) cùng lỉnh kỉnh nồi niêu xoong chảo để nấu cơm buổi tối. 3 giờ rưỡi, những chiếc thuyền chòng chành rời bến hướng về mũi Cao Biền. Hơn 4 giờ, mũi Cao Biền trước mặt đã ken dày những chiếc ghe thả mành tôm. 6 giờ, bóng tối dần bao phủ làng biển, những chiếc đèn được thắp lên. Ban đêm nhìn về mũi Cao Biền trong mùa biển động như nhìn về thành phố. Có những niềm vui, niềm hy vọng đổi đời được thắp lên từ đó!
NGỌC DUNG
Bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Nguồn tin: BCT, 22/11/2006
Ngày cập nhật: 26/11/2006
Nhiều năm qua, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thủy sản đã trở thành thế mạnh kinh tế đặc biệt ở khu vực ĐBSCL, biến nơi đây thành một vùng trọng điểm về nuôi trồng thủy sản cho tiêu dùng và xuất khẩu của cả nước.
Tuy nhiên sự phát triển nuôi trồng thủy sản mạnh mẽ lại kéo theo các tác động môi trường diễn ra ở quy mô ngày càng lớn và hết sức đa dạng. Bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL đang trở thành vấn đề bức xúc, cần được tập trung giải quyết để bảo đảm sự phát triển bền vững.
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN PHÁT TRIỂN NHANH
Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản ở khu vực ĐBSCL tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2000 là 445.300 ha với tổng sản lượng nuôi trồng là 365.141 tấn; năm 2002 là 570.300 ha, sản lượng 518.743 tấn; năm 2004 là 658.500 ha, sản lượng 773.294 tấn; năm 2005 là 685.800ha với sản lượng khoảng 983.384 tấn. Quy hoạch nuôi trồng thủy sản đến năm 2010 ở khu vực ĐBSCL đối với nuôi thủy sản nước mặn-lợ là 649.430 ha, nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 366.590 ha cho thấy nuôi trồng thủy sản ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực ĐBSCL.
Các mô hình nuôi trồng thủy sản trên vùng nước ngọt tập trung ở vùng ngập lũ Tứ giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười và vùng trũng nội địa thuộc Bán đảo Cà Mau, chủ yếu ở một số tỉnh, thành như: Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang... Các mô hình nuôi thủy sản phổ biến hiện nay là: canh tác lúa-tôm (tôm nước ngọt và tôm càng xanh), canh tác lúa-cá (cá lóc, cá rô, cá sặc, thác lác, cá chép, rô phi, mè vinh...), nuôi cá bè trên sông (cá ba sa, cá tra, cá lóc đen, cá lóc bông...), nuôi tôm/cá đăng quầng (cá linh, cá rô, các loại tôm tự nhiên...), nuôi cá lóc trong vèo, nuôi lươn mùa lũ, nuôi cá kết hợp VACB…
Các mô hình nuôi trồng thủy sản trên vùng nước lợ - mặn tập trung chủ yếu ở các vùng ven biển như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Kiên Giang, Tiền Giang... Các mô hình chủ yếu là: nuôi tôm quảng canh, nuôi tôm quảng canh cải tiến, nuôi tôm bán thâm canh, nuôi tôm thâm canh hay nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm sinh thái, luân canh lúa - tôm, luân canh lúa-cá, cá-tôm. Một số đối tượng nuôi khá đa dạng cũng được phát triển ở khu vực ven biển ĐBSCL như nuôi cua biển, nuôi cá kèo, nuôi các loại nhuyễn thể hai mảnh vỏ (nghêu, sò huyết, hàu biển...). Các mô hình này cũng đã đem đến nhiều lợi ích kinh tế cho người nuôi.
Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, đem lại nhiều lợi ích cho kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, quá trình phát triển đã bộc lộ những vấn đề bất cập cần sớm được giải quyết. Trong đó, bảo vệ môi trường là vấn đề hết sức quan trọng để có thể phát triển nghề nuôi trồng thủy sản bền vững ở ĐBSCL.
NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG TỪ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Môi trường đất, môi trường nước và các hệ sinh thái trong phát triển nuôi trồng thủy sản bị biến đổi gây suy thoái, ô nhiễm môi trường. ĐBSCL là vùng tập trung nhiều các loại đất phèn tiềm tàng (pyrite FeS2)và phèn hoạt động (jarosite (K/Na.Fe3/Al3(SO4)2(OH)6). Khi bị đào đắp ao nuôi thủy sản, đào kinh rạch cấp và thoát nước, vệ sinh ao nuôi sau mùa thu hoạch đã làm cho tầng phèn tiềm ẩn bị tác động bởi quá trình ôxy hóa sẽ diễn ra quá trình lan truyền phèn rất mãnh liệt làm giảm độ pH môi trường nước, gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh tôm, cá trong nuôi trồng.
Các nguồn thải ra sông rạch đã tác động làm cho môi trường nước bị biến đổi. Chất lượng nước trong các ao nuôi thủy sản gồm cá nước ngọt, nuôi tôm ven biển đặc biệt là trong các mô hình nuôi công nghiệp đã cho thấy dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ (BOD, COD, nitơ, phốt pho cao hơn tiêu chuẩn cho phép), có sự xuất hiện các thành phần độc hại như H2S, NH3+, và chỉ số vi sinh Coliforms, đã cho thấy nguồn nước thải này cần phải được xử lý triệt để trước lúc thải ra sông rạch. Số liệu quan trắc môi trường nước trên sông rạch khu vực ĐBSCL cũng đã cảnh báo nguy cơ ô nhiễm môi trường nước sông rạch ở vùng ĐBSCL là rất lớn. Số liệu quan trắc môi trường nước ở tỉnh An Giang trên sông Tiền có: BOD là 5mg/l, SS là 400mg/l, Coliforms là 143.103 MNP/100ml. Ở Vĩnh Long Sông Tiền BOD là 6,5 mg/l, SS là 54,17mg/l, amoniac là 0,46mg/l và coliforms là 8.167 MNP/100ml, Sông Hậu có BOD là 5,5mg/l, SS là 91,5mg/l, amoniac0,21mg/l, coliforms là 55.483MNP/100ml. Ở Long An sông Vàm Cỏ Đông có BOD là 10mg/l, amoniac là 0,364mg/l, SS là 16mg/l, sắt là 0,461mg/l, ở sông Vàm Cỏ Tây có BOD là 6mg/l, amoniac là 0,096mg/l, SS là 18mg/l, sắt là 0,447mg/l. ở Hậu Giang trên kinh xáng chợ Phụng Hiệp có BOD là 13mg/l, N-NH3 là 0,322mg/l, SS là 120mg/l, Sắt 0,930mg/l và coliforms là 2,4.105MNP/100ml. Ở Cà Mau nước trên các cửa sông thông ra biển cũng có dấu hiệu nhiễm bẩn hữu cơ và phèn lan truyền, trên Cửa Gành Hào có BOD là 7mg/l, N-NH3 là 6,2mg/l, SS là 683mg/l, Sắt 3,25mg/l và coliforms là 930MNP/100ml., trên Cửa Ông Trang có BOD là 9mg/l, N-NH3 là 5,8mg/l, SS là 323mg/l, Sắt 0,5mg/l và coliforms là 210MNP/100ml, trên Cửa Sông Đốc có BOD là 12mg/l, N-NH3 là 1,4mg/l, SS là 46mg/l, Sắt 1,13mg/l và coliforms là 4.300MNP/100ml,
Môi trường nước ở vùng ngọt hóa có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ, các vi sinh trong nước Coliforms, độ đục, amoniac trong nước... ảnh hưởng đến chất lượng môi trường nước, đặc biệt là nước dùng cho nhu cầu cấp nước. Môi trường nước ở vùng mặn hóa ven biển hàm lượng sắt (phèn hóa) trong nước do quá trình phèn hóa mạnh mẽ, N-NH3, Coliforms... gây ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản, đặc biệt độ đục môi trường cao do nước phù sa và quá trình đào đắp sên vét ao nuôi tôm phát sinh không được xử lý thải ra môi trường.
Quá trình chuyển dịch trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản diễn ra quy mô lớn ở vùng mặn hóa ven biển làm gia tăng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển. Tác động làm suy giảm rừng ngập mặn ven biển tiếp tục diễn ra ảnh hưởng đến các hệ sinh thái rừng ngập mặn. Nuôi cá bè trên sông rạch, nuôi thâm canh thủy sản vùng ngọt hóa đã gây nên các tác động đến chất lượng môi trường nước ở đây.
Chất thải trong nuôi trồng thủy sản là bùn thải chứa phân của các loài thủy sản tôm cá, các nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư của các loại vật tư sử dụng trong nuôi trồng như: hóa chất, vôi và các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-, các thành phần chứa H2S, NH3... là sản phẩm của quá trình phân hủy yếm khí ngập nước tạo thành, nguồn bùn phù sa lắng đọng trong các ao nuôi trồng thủy sản thải ra hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao nuôi. Đặc biệt, với các mô hình nuôi kỹ thuật cao, mật độ nuôi lớn như nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp... thì nguồn thải càng lớn và tác động gây ô nhiễm môi trường càng cao.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy: Chỉ có 17% trọng lượng khô của thức ăn cung cấp cho ao nuôi được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra môi trường dưới dạng phân và chất hữu cơ dư thừa thối rữa vào môi trường. Đối với các ao nuôi công nghiệp chất thải trong ao có thể chứa đến trên 45% nitrogen và 22% là các chất hữu cơ khác. Các loại chất thải chứa nitơ và phốtpho ở hàm lượng cao gây nên hiện tượng phú dưỡng môi trường nước phát sinh tảo độc trong môi trường nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, nguồn chất thải này lan truyền rất nhanh đối với hệ thống nuôi cá bè trên sông, nuôi cá bao ví trong các đầm trũng ngập nước... cùng với lượng phù sa lan truyền có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản phát sinh trong môi trường nước.
Đối với nuôi cá nước ngọt, lượng thải nhiều ít còn phụ thuộc vào thức ăn đưa vào chăn nuôi, thông thường chi phí thức ăn phải từ 1,5-2 kg thức ăn/1kg sản phẩm, ngoài ra còn lượng thức ăn dư thừa không tiêu thụ hết lắng xuống tạo ra nguồn thải rất dễ phân hủy hữu cơ gây ô nhiễm môi trường nguy cơ phát sinh và lây lan dịch bệnh. Các ao nuôi sau quá trình thu hoạch sản xuất thường phải nạo vét bùn cặn. Đây là một nguồn thải rất lớn có thể gây ô nhiễm môi trường.
Đối với nuôi tôm vùng ven biển Nam bộ nơi có hàm lượng phù sa trong nước biển lấy vào nuôi rất lớn từ 200-888mg/l, lượng chất rắn này lắng xuống ao nuôi tôm tạo thành lớp bùn hàng năm rất dày. Vấn đề quản lý bùn thải nuôi tôm là hết sức bức xúc cần phải được quản lý để xử lý triệt để ở khu vực nuôi trồng thủy sản nước mặn vùng ĐBSCL.
Những năm gần đây, dịch bệnh đã phát sinh trên diện rộng ở các loại cá, tôm nuôi diễn biến rất phức tạp gây nhiều thiệt hại đối với người nuôi trồng thủy sản. Nuôi cá nước ngọt trên sông ô nhiễm môi trường làm cá tra, cá ba sa... chết hàng loạt ở một số bè cá trên sông; dịch bệnh trên các ao hồ và cá đồng một số tỉnh lưu vực sông Tiền, sông Hậu trong khu vực ĐBSCL, dịch bệnh tôm nuôi đã phát sinh trên 20-60% diện tích nuôi ở các tỉnh ven biển Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng... Hậu quả: tôm nuôi chết hàng loạt ở vùng ven biển đã diễn ra nhiều năm, kéo theo nhiều hộ dân nuôi tôm, một số doanh nghiệp nuôi tôm quy mô lớn... đã phải lâm vào cảnh điêu đứng do nợ nần, phá sản. Cùng với tác động môi trường do chất thải trong sản xuất chế biến công nghiệp, nước thải sinh hoạt ở các khu dân cư và đô thị... cũng góp phần tác động đến chất lượng môi trường nước ảnh hưởng đến cả kinh tế và môi trường sinh thái.
Môi trường nước sạch và vệ sinh chưa đảm bảo, chế độ vệ sinh an toàn thực phẩm còn hạn chế... đã tác động đến trực tiếp sức khỏe của người dân vùng ĐBSCL. Ở nhiều địa phương, người dân phải đang đối mặt với các bệnh đường tiêu hóa, bệnh sốt xuất huyết, sốt rét do muỗi lây truyền, bệnh giun sán ký sinh trùng, bệnh suy dinh dưỡng trẻ em và cả ngộ độc thực phẩm hay hóa chất... trong quá trình sản xuất canh tác ở các vùng đất ngập nước nuôi trồng thủy sản.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC ĐBSCL
Trong quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản vùng ĐBSCL và các quy hoạch của các tỉnh, thành, cần nhanh chóng tập trung quy hoạch môi trường vùng và các kế hoạch bảo vệ môi trường cụ thể trong phân vùng quy hoạch. Tập trung quan tâm đến bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản nước ngọt, bảo vệ môi trường nuôi trồng thủy sản nước mặn ven biển, bảo vệ môi trường trong các trang trại vùng sản xuất nuôi trồng kinh tế hộ, bảo vệ môi trường nuôi thủy sản trên sông rạch... nhằm giải quyết vấn đề cấp và thoát nước trong nuôi trồng thủy sản. Quản lý và xử lý chất thải nuôi trồng thủy sản, các vật tư hóa chất, các chế phẩm hóa học và sinh học sử dụng trong các mô hình canh tác ở các vùng kinh tế đáp ứng tiêu chuẩn môi trường và hạn chế dịch bệnh nuôi trồng thủy sản lây nhiễm để phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản.
Đối với nuôi trồng thủy sản nước ngọt cần tập trung quản lý chất lượng nước nuôi trồng thủy sản, quản lý các mô hình phát triển nuôi trồng gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Ứng dụng các mô hình công nghệ xử lý chất thải nuôi trồng thủy sản thích hợp như: xử lý chất thải bùn thải, xử lý khử trùng nước thải trước lúc thải ra... đáp ứng tiêu chuẩn môi trường. Tập trung xử lý chất thải triệt để ở các mô hình nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp, nuôi cá bè trên sông rạch, quản lý chặt chẽ dịch hại tổng hợp trong nuôi trồng thủy sản.
Đối với nuôi trồng thủy sản nước mặn ven biển cần tập trung giải quyết: Khi đào đắp phát triển các vuông nuôi tôm cá mới ở các vùng đất phèn hoặc khi nạo vét bùn thải vuông, vệ sinh ao nuôi cần bố trí hồ thu hồi bùn, xử lý chất thải thủy sản và khử phèn nước thải trước lúc thải ra sông rạch bằng các giải pháp ủ khử trùng, trung hòa bằng vôi, hóa chất... đáp ứng tiêu chuẩn môi trường đặt ra. Nước thải nuôi trồng thủy sản ở các mô hình nuôi công nghiệp, nuôi thâm canh, nuôi mật độ cao phải được bố trí diện tích hồ chứa để xử lý triệt để nguồn bệnh có thể lan truyền ra môi trường xung quanh. Nước cấp vào cần được xử lý đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, đặc biệt vùng nuôi tập trung cần có giải pháp quản lý cộng đồng đối với vấn đề ngăn chặn các hành vi thải chất thải nước thải nhiễm bệnh trong các ao nuôi có dịch bệnh ra môi trường nước sông rạch làm tổn thất cộng đồng người dân nuôi trồng thủy sản trong khu vực.
Vấn đề thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản nước ngọt và nước mặn là vấn đề cực kỳ quan trọng để bảo đảm phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL. Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn đến việc đầu tư đáp ứng các yêu cầu cấp nước cho nuôi trồng, thoát nước và làm sạch nước sau quá trình nuôi để bảo vệ môi trường trong toàn khu được quy hoạch nuôi trồng thủy sản.
Tăng cường giám sát chất lượng môi trường nước để dự báo diễn biến môi trường cũng như dịch bệnh có thể phát sinh. Từ đó, có các giải pháp xử lý kịp thời khi có sự cố xảy ra. Quản lý chặt chẽ nguồn vật tư hóa chất cung ứng trên thị trường phục vụ cho nuôi trồng thủy sản theo quy định của nhà nước. Quản lý chất lượng sản phẩm nuôi trồng cung ứng cho thị trường chế biến sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm.
PHẠM ĐÌNH ĐÔN
(Chi cục Bảo vệ Môi trường khu vực Tây Nam bộ)
Niềm vui mùa tôm ở Cờ Đỏ
Nguồn tin: 24/11/2006
Ngày cập nhật: 26/11/2006
Trước đây, người dân xã Trường Thành, huyện Cờ Đỏ (TP Cần Thơ) chỉ sản xuất độc canh cây lúa. Một năm, bà con nông dân có thể sản xuất 3 vụ lúa, nhưng bù lại vùng trũng này ngày càng nghèo đi chất dinh dưỡng của đất. Giờ đây, Trường Thành đã có nhiều đổi thay. Nhiều đồng lúa đã trở thành những vuông tôm bạt ngàn, nối tiếp nhau. Hiện nay, đang vào mùa thu hoạch tôm, nông dân xã Trường Thành càng phấn khởi vì có được một vụ bội thu.
MUỐN GIÀU NUÔI TÔM!
Nông dân xã Trường Thành kiểm tra tôm chuẩn bị thu hoạch.
Trở lại Trường Thành vào những ngày đầu tháng 11, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên trước những cánh đồng mênh mông nước nhưng bờ đê vẫn cao ngút chạy dài bao bọc từng thửa ruộng. Đó là những vuông tôm nối tiếp nhau từ đầu đến cuối kinh Mương Khai trên 3km. Anh Huỳnh Thanh Liêm ở ấp Trường Thạnh A, xã Trường Thành, một trong những nông dân đầu tiên biến đất lúa vụ hè thu và thu đông sang nuôi tôm càng xanh, khoe: Từ năm 2003, gia đình anh chuyển 7.000m2 đất ruộng sản xuất sang mô hình lúa - tôm càng xanh và năm nào cũng thu được kết quả cao. Năm đầu tiên 7.000m2 vuông tôm của anh thu hoạch gần 600kg, đến các năm sau từ 700 đến 900kg. Hàng năm, tôm càng xanh bán với giá khá cao, thấp nhất 1 kg cũng là 80.000 đồng. Năm nay, 7.000m2 vuông tôm của anh chuẩn bị cho thu hoạch với sản lượng khoảng 900kg. Anh Liêm nói: “Nuôi tôm cực lắm, nhưng bù lại, năng suất cao, lợi nhuận thu được gấp 10 lần so với trồng lúa. Ở vùng sâu này, nhiều bà con có cuộc sống khấm khá hơn nhờ nuôi tôm trên ruộng”.
Còn anh Nhân (ở ấp Trường Thạnh A, xã Trường Thành) nuôi tôm trên ruộng với diện tích 3.000m2, vui vẻ cho biết: “Tôi mới thu hoạch xong vuông tôm được 520 kg, bán với giá 88.000 - 95.000 đồng/kg, trừ chi phí ra thu được lợi nhuận gần 20 triệu đồng”. Đây chỉ là vụ nuôi đầu tiên của gia đình anh. Để chuẩn bị cho vụ tôm này, anh Nhân đã tham gia đầy đủ các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi tôm càng xanh, tham quan các mô hình nuôi tôm giỏi, có năng suất cao... Anh Nhân nói: “Năm nay, tôi chuyển hẳn sang mô hình 1 lúa - 1 tôm. Vụ tôm này nuôi thành công cũng là nhờ các cán bộ kỹ thuật trạm thủy sản huyện và bà con trong câu lạc bộ nuôi tôm càng xanh ấp Trường Thạnh A quan tâm, tận tình hướng dẫn kỹ thuật, từ cải tạo ao đến chọn con giống, thức ăn...”.
Phong trào nuôi tôm càng xanh trên đồng ruộng ở huyện Cờ Đỏ bắt đầu từ năm 2001. Những năm tiếp theo diện tích nuôi đều tăng, năng suất bình quân mỗi năm mỗi cao. Từ 400kg/ha trong năm đầu đến 700 kg và trên 1 tấn trong những năm kế tiếp. Năm 2006, Cờ Đỏ nuôi tôm càng xanh trên diện tích gần 140 ha. Từ đó, nhiều gia đình đã đổi thay cuộc sống từ con tôm càng xanh. Anh Nguyễn Ngọc Giàu, cán bộ kỹ thuật Liên Trạm Thủy sản Ô Môn - Cờ Đỏ, cho biết: “Nuôi tôm có năng suất mỗi năm mỗi cao là nhờ bà con có kinh nghiệm nuôi từ các khâu cải tạo ao, thả tôm dày và thu tỉa tôm trứng, tham gia đầy đủ các lớp tập huấn kỹ thuật...”.
HƯỚNG ĐI ĐÚNG
Đồng chí Đào Anh Dũng, Chủ tịch UBND huyện Cờ Đỏ, cho biết: “Mô hình tôm - lúa ở Trường Thành đã phát huy hiệu quả. Một vụ tôm nông dân có thể thu được lợi nhuận từ khoảng 30 triệu đồng/ha. Mô hình này sẽ được huyện nhân rộng trong thời gian tới”. Nhận định của đồng chí Đào Anh Dũng là có cơ sở, bởi trong 46ha nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa của ấp Trường Thạnh A, xã Trường Thành đã có trên 20 ha thu hoạch và đều đem lại lợi nhuận cho nông dân trung bình 30 triệu đồng/ha.
Để Trường Thành có được kết quả nuôi tôm càng xanh phấn khởi này, huyện Cờ Đỏ đã nỗ lực đầu tư cơ sở hạ tầng; triển khai thực hiện dự án phát triển thủy sản theo mô hình 1 lúa - 1 tôm và hoàn thành vào đầu năm 2006, với tổng diện tích phục vụ trên 100 ha. Tổng kinh phí thực hiện trên 350 triệu đồng. Đồng chí Nguyễn Văn Bé Ba, Trưởng Trạm Khuyến nông Cờ Đỏ, cho biết: “Dự án này hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giúp bà con thay đổi tập quán sản xuất lúa 3 vụ trong năm, góp phần cải tạo đất, tăng thêm thu nhập cho từng nông hộ. Từ khi hoàn thành dự án, không những bà con trong dự án chuyển sang nuôi tôm mà còn nhiều hộ dân có đất nằm ngoài dự án cũng tự xây dựng đê bao và nuôi tôm càng xanh trên ruộng”.
Song song với việc hình thành và phát triển của dự án này, câu lạc bộ nuôi tôm càng xanh ấp Trường Thạnh A cũng phát triển theo. Khi thành lập (cuối năm 2005) câu lạc bộ mới có 16 thành viên, đến vụ tôm năm 2006 đã phát triển lên 56 thành viên với diện tích nuôi tôm 46,2 ha, tăng gấp 4 lần so với thời điểm ban đầu. Nuôi tôm, trồng lúa cho lợi nhuận cao nên nhiều thành viên trong câu lạc bộ đã mua sắm được xe gắn máy, ti vi, đầu đĩa, thậm chí có hộ xây dựng nhà mới. Vụ tôm này kết thúc là các thành viên trong câu lạc bộ chuẩn bị sản xuất lúa chất lượng cao trong vụ đông xuân. Một trong những hộ xây dựng nhà mới là ông Ngô Văn Nhì, trước đây ông thuộc diện gia đình nghèo trong ấp. Những năm gần đây, ông chịu khó học hỏi kinh nghiệm nuôi tôm và mạnh dạn chuyển đổi 5.000m2 đất ruộng sang mô hình lúa - tôm. Dựa vào hiệu quả và kinh nghiệm nuôi tôm trên đồng ruộng của mình trong những năm qua, vụ tôm năm 2006, ông Nhì vạch ra kế hoạch phát triển kinh tế gia đình bằng cách tách ra 2.000m2 đất nuôi tôm theo mô hình 1 lúa - 1 tôm, 3.000m2 nuôi chuyên canh. Hiện nay diện tích nuôi chuyên canh tôm phát triển rất tốt, 2.000m2 đất nuôi theo mô hình 1 lúa - 1 tôm đã cho thu hoạch được 400kg.
Nuôi tôm càng xanh trên đồng ruộng không những thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, góp phần tăng thu nhập cho từng nông hộ mà còn giúp nông dân sử dụng tài nguyên đất hợp lý, hạn chế tình trạng sản xuất 3 vụ lúa/năm làm suy thoái đất, ô nhiễm môi trường. Đây là một hướng đi mới, hợp lý của huyện Cờ Đỏ góp phần xây dựng một nền nông nghiệp chất lượng cao, phát triển bền vững.
HÀ VĂN
Kiến nghị cấm nhập khẩu hoá chất có chứa kháng sinh cấm
Nguồn tin: LĐ, 25/11/2006
Ngày cập nhật: 25/11/2006
GAP cứu cánh cho nghề nuôi tôm ở Bến Tre
Nguồn tin: Bến Tre, 24/11/2006
Ngày cập nhật: 25/11/2006
Sản phẩm tôm xuất khẩu nuôi bằng qui trình GAP của Công ty XNK - LTS Bến Tre Cơn sốt chạy theo con tôm sú ở Bến Tre đã bắt đầu có dấu hiệu hạ nhiệt. Cái thời đổ xuống vuông tôm tiền triệu nhưng ôm về tiền tỷ bây giờ trở nên mong manh. Nạn virus đốm trắng hoành hành, con giống lại phải sinh ra trong trạng thái “đẻ non”. Còn người nuôi thì nôn nóng thu lợi, vun tay quá trớn đủ loại hóa chất, khiến cho môi trường dần dà bị suy thoái, dẫn đến nạn tôm chết hàng loạt từ vụ này đến vụ khác.
Để cứu lấy nghề nuôi tôm công nghiệp, một qui trình công nghệ nuôi tôm sạch ra đời và được Cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh thú y thủy sản (NAFIQAVED) thuộc Bộ Thủy sản triển khai tại 5 tỉnh: Ninh Thuận, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Bến Tre. Qui trình này gọi tắt là GAP, giám sát chặt chẽ từ đầu vào đến đầu ra, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm - một qui định khắc khe đối với thị trường Nhật Bản, Bắc Mỹ và EU.
Ở Bến Tre, vào tháng 4/2004, qui trình GAP được áp dụng thí điểm tại Thạnh Phước (Bình Đại) và khu K22 - xã An Nhơn (Thạnh Phú), với tổng diện tích 68,5 ha. Qui trình này phải tuân thủ nghiêm ngặt các yếu tố đầu vào như: xử lý ao nuôi với độ pH chuẩn, con giống phải qua kiểm dịch bằng hệ thống PCR, hạn chế sử dụng đến mức thấp nhất các loại hóa chất và thuốc thú y thủy sản. Mỗi ao nuôi đều ghi chép cẩn thận, có sổ nhật biên thật chi tiết như “hồ sơ bệnh án” để tiện theo dõi, xử lý kịp thời. Dựa vào ghi chép này, dùng làm cơ sở để truy nguyên nguồn gốc khi sản phẩm đưa ra thị trường trục trặc về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Cán bộ kỹ thuật NAFIQAVED thường xuyên kiểm tra, tư vấn, không để một lỗi dù nhỏ xảy ra trong qui trình nuôi. Và, không ai khác hơn, chính cơ quan này có đủ thẩm quyền cấp giấy xác nhận nuôi tôm đạt tiêu chuẩn GAP. Đây được xem là “tấm giấy thông hành” để “tôm GAP” dễ dàng thâm nhập vào các nhà máy, xí nghiệp chế biến hàng thủy sản xuất khẩu, với giá cao mà không cần kiểm dịch.
Ứng dụng qui trình GAP, các chuyên gia hàng đầu của ngành thủy sản khuyến cáo, không nên thả nuôi ở mật độ cao vì sẽ làm cho tôm chậm lớn, kích cỡ không đồng đều. Thường mật độ thả nuôi từ 28 - 30 con/m2. Trong khi qui trình cũ có thể thả nuôi từ 35 - 40 con/m2. Nhờ áp dụng qui trình GAP, mặc dù năng suất bình quân chỉ ở mức từ 5 - 6 tấn/ha, nhưng bù lại, đây là loại tôm đạt tiêu chuẩn chất lượng, có giá trị xuất khẩu cao, người nuôi thu lãi nhiều.
Qua 3 năm triển khai thí điểm mô hình nuôi tôm sạch theo tiêu chuẩn GAP, Bến Tre đã rút được nhiều kinh nghiệm quí báu để tiến tới tổ chức nhân rộng ra 3 huyện vùng biển. Hiện toàn tỉnh có gần 40.000 ha diện tích nuôi tôm. Trong đó, diện tích có khả năng nuôi theo phương thức công nghiệp - bán công nghiệp trên 6.500 ha. Như vậy, nếu đưa toàn bộ diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp vào qui trình GAP, thì chẳng những đạt được sản lượng tôm rất lớn, tạo tâm lý yên tâm cho người nuôi, mà còn khẳng định được uy tín trên thương trường quốc tế, mở ra cơ hội đầy triển vọng cho nghề nuôi tôm bền vững ở Bến Tre trong tương lai.
Tuy nhiên, để cho mọi người đều áp dụng qui trình này một cách đồng bộ, chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thứ nhất, do ảnh hưởng phương thức nuôi cũ. Thứ hai, thiếu nguồn vốn đầu tư. Thứ ba, tâm lý e ngại của người nuôi khi áp dụng qui trình mới. Thứ tư, thông tin về đầu ra của sản phẩm chưa được cung cấp đầy đủ. Thiết nghĩ, nếu giải quyết thấu đáo 4 vấn đề trên thì qui trình nuôi tôm GAP sẽ không dừng lại ở mô hình thử nghiệm, mà trở thành một bài toán kinh tế có lời giải đẹp, như trước đây, chỉ có 2.000m2 thử nghiệm nuôi tôm công nghiệp của Trung tâm khuyến ngư đã dấy lên phong trào làm giàu chính đáng từ con tôm sú một thời cho người dân vùng biển Bến Tre.
Văn Tông
Bình Thuận: Tích cực chuyển giao kỹ thuật nuôi, khai thác, bảo quản thủy sản cho ngư dân.
Nguồn tin: Binhthuan, 23/11/2006
Ngày cập nhật: 25/11/2006
Nghề nuôi ốc hương ở Vạn Ninh
Nguồn tin: KH, 22/11/2006
Ngày cập nhật: 25/11/2006
Sau nhiều vụ ốc hương chết hàng loạt, nghề nuôi ốc hương ở Vạn Ninh (Khánh Hòa) đã dần ổn định và phát triển. Tuy nhiên, do là nghề mang tính tự phát nên bà con ngư dân vẫn lúng túng, bị động khi phát triển nghề này.
Anh Đặng Tri Thông - chuyên viên Phòng Kinh tế huyện Vạn Ninh cho biết do gặp rủi ro về dịch bệnh, nên những năm trước đây, diện tích trại, lồng, đìa nuôi ốc hương giảm mạnh. Nhưng đến nay, nghề này đã phát triển trở lại. Nếu như năm 2004, toàn huyện chỉ còn khoảng 25 hộ nuôi cầm chừng và 6 trại ốc giống, thì đến năm 2005 đã tăng lên 54 trại. Bà con ngư dân đã chủ động hoàn toàn trong việc sản xuất giống ốc hương nuôi thương phẩm. Số hộ nuôi ốc hương lồng và ốc hương đìa cũng tăng lên hơn 60 hộ. Hiện nay, bà con đang có xu hướng đầu tư mạnh vào nghề này.
Phong trào nuôi ốc hương của ngư dân Vạn Ninh còn mang tính tự phát, vì thế họ thường bị động trong quá trình sản xuất cũng như tìm đầu ra cho sản phẩm. Thực tế, chưa có một doanh nghiệp nào trực tiếp thu mua sản phẩm nhằm ổn định giá cho người nuôi. Phần lớn ngư dân tự lo tìm đầu mối tiêu thụ nên nhiều lúc không tránh khỏi bị thương gia ép giá. Năm nay tuy được mùa nhưng ốc lại rớt giá nên lợi nhuận không cao. Năm ngoái, ốc thịt có giá từ 150 - 160 nghìn đồng/kg. Năm nay hạ xuống còn 120 - 130 nghìn đồng/kg. Bên cạnh đó, nhận thức về kỹ thuật nuôi ốc hương của bà con ngư dân còn nhiều hạn chế nên hiệu quả chưa cao. Các bệnh của ốc do vi khuẩn, nấm và trùng lông gây ra trong thời gian qua chưa có thuốc chữa nên bà con chỉ phòng ngừa là chính.
Nuôi ốc hương có giá trị kinh tế cao. Nhưng sau nhiều đợt dịch bệnh xảy ra, người dân vẫn chưa hết lo lắng khi phát triển nghề này. Vì thế, hướng tới quy hoạch tổng thể vùng chuyên canh ốc hương, tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi cho ngư dân và tìm đầu ra ổn định cho thương phẩm là những vấn đề mà huyện Vạn Ninh cần quan tâm để giúp bà con yên tâm sản xuất.
M.T
Những tỉ phú từ hàu
Nguồn tin: SGTT, 24/11/2006
Ngày cập nhật: 25/11/2006
Theo đủ nghề, từ đi biển, lập đùng nuôi tôm, làm ruộng muối... cuộc sống dân đảo Long Sơn, Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn cứ bấp bênh. Nhưng từ khi theo con hàu, dân xã đảo khá lên trông thấy, sản sinh cho Long Sơn những triệu phú, tỉ phú. Những đại gia Sài Gòn nghe tiếng cũng tìm đến theo nghề…
Từ cây cầu mới bắc ngang sông Rạng nối liền Bà Rịa với Long Sơn buổi sớm, khi thuỷ triều xuống, có thể nhìn thấy những hàng cừ nuôi hàu liên tiếp dọc ven hai bờ. Nghề hàu đang trở thành nghề chính của toàn Long Sơn, người người nuôi hàu, nhà nhà nuôi hàu. Chỉ cần đầu tư số vốn nhỏ làm bè, hoặc đóng cọc treo tôn ximăng cũ, vỏ xe, canh con nước thả xuống, hàu tự động bám vào, tự sinh sống phát triển, người theo nghề hàu chỉ chờ khi hàu lớn là thu hoạch.
Cô Hai (chà lát) ngụ thôn 10 xã Long Sơn cho biết: “Gần như cả xã, ai trước đây theo nghề biển giờ đều chuyển sang nghề nuôi hàu. Người vốn lớn lập bè, vốn nhỏ đóng cừ tràm ngoài mé sông treo tôn, vỏ xe cho hàu bám vào. Hiện thời 1kg hàu được bán tại Long Sơn với giá 12 nghìn, so với nghề đi đáy, đi cào, đánh bắt gần bờ, theo nghề hàu có cuộc sống ổn định và an toàn hơn...”.
Những khúc sông bạc tỉ
Từ nuôi hàu bán, anh Tư mở thành một khu du lịch sinh thái trên sông Rạng cho khách tham quan quy trình nuôi hàu, câu cá thư giãn. Đây là loại hình nhà hàng, du lịch sinh thái về hàu đầu tiên ở Long Sơn, dù chỉ mới thành lập nhưng được nhiều người biết đến. Khách du lịch đến kín vào những ngày cuối tuần, các tour du lịch cũng đặt hàng đưa khách đến tham quan.
Mối lái đến Long Sơn thu gom hàu với giá 12 nghìn đồng/kg (trung bình 4 con), bỏ mối về Sài Gòn, con hàu lên giá 15 nghìn/kg, vào nhà hàng trung bình 1 đĩa hàu giá 35 nghìn (4 con), khách ăn từng con giá trung bình từ 12 – 15 nghìn đồng/con. Những món hàu phổ biến: hàu chấm washabi (mù tạt), hàu đút lò, hàu chiên bơ, hàu nướng, cháo hàu...
Theo con hàu và phát triển nghề hàu sớm thứ nhì Long Sơn (người đầu tiên phát triển nghề này là bác Tám Khẩn), cô Hai nay sở hữu 4 khúc sông nuôi hàu chỗ nhỏ diện tích 5 công, chỗ lớn rộng cả mẫu, mỗi năm thu nhập từ bè hàu trung bình 300 triệu.
Cô Hai nói, cuối những năm 90, nhà tui đi ghe cào theo nghề biển như những người trong xã, đánh bắt gần bờ và trên sông Rạng. Thời đó đánh bắt hên xui, có ngày kiếm được, có ngày chẳng kiếm được cá mú gì đáng giá.
Lượng đánh bắt ngày càng giảm, ghe cào quần nát các khúc sông, tôm cá lớn nhỏ cạn kiệt hết. Gia đình chuyển sang lập đùng (làm đầm) nuôi tôm nhưng cũng không có ăn, xui gặp bịnh là tôm chết hàng loạt, lỗ chổng vó.
Nhìn mấy cọc cừ trong đùng, thấy hàu bám cũng nhiều, con nào cũng mập, ông xã nghĩ chuyện đóng cừ nuôi hàu. Nghĩ vậy rồi ra sông tự chọn lấy khúc sông thích hợp cắm cọc nuôi. Thấy có ăn, dân trong xã cũng theo dần.
Mỗi người nuôi hàu ít nhất một vài bè với 10 – 15 triệu đồng vốn. Còn nhiều hộ đầu tư cho bè hàu lên đến bạc tỉ. Anh Tư – thường gọi Đực Nhỏ - đầu tư cho khúc sông nuôi hàu ở Bến Đá cả hai mé sông thuộc Long Sơn và Hội Bài từ năm 2003 đến nay đã hơn 2 tỉ.
Anh Tư nói chuyện nghề: “Tui nuôi tổng cộng 80 bè, mỗi bè trung bình thu hoạch khoảng 2 tấn, khai thác gối đầu quanh năm. Hiện diện tích đặt bè ở hai khúc sông là 250m, sắp tới đầu tư thêm 50m để nuôi hàu, và mở thêm tận bên đảo Gò Găng”.
Không chỉ riêng dân Long Sơn ồ ạt theo nghề nuôi hàu, những đại gia ở Sài Gòn, và các địa phương khác cũng lần lượt kéo đến đầu tư, lập công ty, hùn vốn lập bè nuôi hàu, thu mua hàu trong vùng để chuyển cho các thị trường tiêu thụ lân cận.
Con sông Rạng từ cửa Ông Bền vào đến Gò Găng dài hơn 15km đều được phủ đầy bè hàu dọc hai bờ. Hiện gần như không còn chỗ để lập bè. Người Long Sơn gọi đây là khúc sông tiền tỉ.
Dễ như... nuôi hàu
Chỉ cần treo dây, thả tôn xi măng, vỏ xe cũ cắt thành từng miếng nhỏ, bỏ vào bè hoặc treo cọc cừ là hàu tự bám vào. Không tốn kém tiền đầu tư con giống, nguồn hàu ở đây có quanh năm. Những tấm tôn xi măng bị lỗi, nứt bể được đưa về tận dụng xẻ treo dây nuôi hàu, các loại vỏ xe đạp, xe máy cũ cũng được thu mua làm điểm tựa để hàu bám. Các loại vỏ xe bỏ đi rất bền, giá mua vào từ 1.000 đến 1.500đ một vỏ xe cũ, nhưng xài đi xài lại hết năm này năm khác mà không sợ hư hại.
Với nghề hàu, vốn đầu tư nhỏ, hiệu quả thu lợi lớn. Các hộ nuôi hàu ở Long Sơn cho biết, hơn 6 năm theo nghề hàu, chưa có khi nào nguồn hàu thu hoạch bị tồn đọng. Thường hàu khai thác đến đâu là thị trường tiêu thụ hết đến đó.
Nghề hàu phát triển mạnh, lại vô tình làm lợi cho nguồn thuỷ sản. Trước, cá tôm trên sông Rạng bị đánh bắt cạn, vì sông rộng, không vật cản nên ghe cào, đáy mành mành, ghe trang bị cào điện đánh bắt sạch.
Giờ, các bè hàu nằm dọc hai bờ, che chắn nên không đánh bắt được. Cá các loại chui vào bè hàu trú ngụ và sinh sản, ăn các loại tảo và vi sinh bám quanh con hàu. Cá chẻm, cá bống mú, cá nâu, cá đối... lềnh khênh dưới bè hàu. Dân đi câu gần đây câu được những con chẻm lớn nặng gần chục ký.
Nghề hàu phát triển giữ cho tài nguyên thuỷ sản không bị cạn kiệt, không tốn mồi cho hàu ăn, chỉ mất công cho người gác, vì nạn trộm cắp cũng diễn ra rải rác, phải mướn người canh giữ bè để chờ ngày thu hoạch. Xem ra theo nghề hàu dễ dàng và có lợi nhiều lần so với lập đùng nuôi tôm, cá.
Nuôi con hàu một năm thu hoạch, đến tháng 3 âm lịch hàu đẻ, canh con nước thả tôn và vỏ xe cho hàu bám vào. Nuôi đúng một năm sau thu hoạch, con nào lớn lấy trước, nhỏ sau, nhờ kiểu nuôi và thu hoạch gối đầu như vậy, nguồn hàu của Long Sơn cung cấp quanh năm cho hai thị trường chính là Sài Gòn và Vũng Tàu. Thường đến tháng 11 âm lịch – vào mùa lạnh – hàu chết hàng loạt, có bè chết đến 80 – 90%, có nhiều nguyên nhân khác nhau, người bảo do nước thải từ các KCN lân cận, người cho rằng do thời tiết thay đổi.
Hàu chết nhiều, nhưng đó không phải là nỗi lo của người theo nghề. Anh Tư cho biết: “Hàu chết mấy vẫn lời, vì kỳ thực vốn đầu tư ban đầu vẫn còn đó, đâu có tốn công nuôi hay chăm sóc gì, chỉ tốn thêm chút thời gian (khoảng 6 tháng) cho hàu con lớn và lượng hàu mới bám vào là lại thu hoạch tiếp”.
Lam Phong
Trà Vinh: Đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất tôm giống
Nguồn tin: BCT, 24/11/2006
Ngày cập nhật: 24/11/2006
Trà Vinh hiện có 244 cơ sở sản xuất và ương giống tôm sú, mỗi năm cung cấp cho người nuôi trong tỉnh hơn 1 tỉ con giống. Với diện tích nuôi tôm sú ngày càng mở rộng (25.000 ha), đồng thời tỉnh đang thực hiện công nghiệp hóa nghề nuôi tôm sú, nên dự báo trong năm 2007 nhu cầu về con giống ở Trà Vinh sẽ tăng lên từ 3 - 3,2 tỉ con mới đảm bảo cung ứng cho người nuôi.
Trà Vinh đang tập trung đầu tư nâng cấp, mở rộng các cơ sở hiện có, bên cạnh đó tiến hành xây dựng các trại sản xuất giống chất lượng cao do Nhà nước quản lý, như trại sản xuất Giống Hiệp Mỹ (Cầu Ngang) vốn đầu tư hơn 2,8 tỉ đồng, đang triển khai xây dựng Trung tâm sản xuất giống Ngãi Hiệp (Châu Thành) vốn đầu tư khoảng 10 tỉ đồng... Ngành thủy sản tỉnh sẽ tổ chức tập huấn về kỹ thuật sản xuất giống cho chủ các cơ sở theo qui trình hạn chế hoặc không sử dụng hóa chất và kháng sinh.
Q. D
Cà Mau: thêm 840 ha tôm sinh thái
Nguồn tin: TT, 24/11/2006
Ngày cập nhật: 24/11/2006
Ông Lê Thanh Bình, phó giám đốc vườn quốc gia Mũi Cà Mau, cho biết UBND tỉnh đã chấp thuận cho vườn quốc gia Mũi Cà Mau tiến hành nuôi tôm sinh thái trên diện tích 840 ha. Khu vực nuôi thuộc tiểu khu 1A, nằm trong phân khu phục hồi sinh thái vườn quốc gia Mũi Cà Mau.
Tổ chức chứng nhận tôm đạt chất lượng sinh thái IMO đã khảo sát địa bàn, hướng dẫn kỹ thuật và lập các thủ tục cần thiết để xây dựng thương hiệu tôm sạch cho vườn quốc gia.
Đây là khu vực nuôi tôm sinh thái thứ hai tại Cà Mau. Giá bán tôm mang thương hiệu sinh thái luôn cao hơn giá thị trường 20%.
NHƯ Ý
Agifish: 100 tỷ đồng xây khu sản xuất thực phẩm cá tra, basa
Nguồn tin: TTXVN, 23/11/2006
Ngày cập nhật: 24/11/2006
Phú Thọ: Phát hiện cá Anh vũ tại Vườn Quốc gia Xuân Sơn
Nguồn tin: TTXVN, 21/11/2006
Ngày cập nhật: 24/11/2006
Ban quản lý Vườn quốc gia Xuân Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, đã phát hiện những cá thể đầu tiên của giống cá quý Anh Vũ tại phía hạ nguồn khu vực thác Kẹm trong vườn quốc gia này.
Điểm đặc biệt là cá Anh Vũ xưa nay chỉ sống ở khu vực ngã ba sông Bạch Hạc, thành phố Việt Trì. Cá có mắt màu xanh ngọc bích, miệng ở phía dưới loe ra, da như da cá chép, trên lưng hơi có mầu xanh, bụng nhỏ màu vàng và đổi màu bụng theo mùa.
Cá thể cá Anh Vũ đầu tiên được phát hiện tại khu vực thác Kẹm có trọng lượng khoảng 1kg và là cá cái. Theo lời đồng bào dân tộc ở khu vực này, cá trưởng thành có trọng lượng tới 3kg.
Đây là loài đặc hữu thứ ba được phát hiện tại rừng quốc gia Xuân Sơn, cùng với loài Chuối Bạc Hà và cá Cóc Sần./.
Giá tôm nguyên liệu cuối năm tăng cao
Nguồn tin: SGGP, 24/11/2006
Ngày cập nhật: 24/11/2006
Mô hình nuôi cá - ếch cải tiến
Nguồn tin: KHPT, 24/11/2006
Ngày cập nhật: 24/11/2006
Sau khi đi tham quan tận mắt nhìn thấy hàng chục mô hình “ếch - cá” khắp đất nước, ông Nguyễn Phú Thơ 56 tuổi, ở Khuê Đông 1, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn (TP. Đà Nẵng), hăm hở bắt tay xây dựng mô hình nuôi cá - ếch... cải tiến.
Ông Thơ sáng tác ra một kiểu mô hình rất độc đáo: xây 23 bể nhỏ có đánh số thứ tự từ 1 - 23, mỗi cái có bề dài 2 mét, rộng 1 mét, cao 1,5 mét. Đáy của các bể nhỏ này cao hơn mặt nước của ao lớn khoảng 0,5 mét, có ống thoát nước thông ra ao chính và được bố trí hình chữ U ở xung quanh ao chính. Giữa các bể, ông trồng 1 cây cau, vừa đẹp, vừa mát cho ếch, cá… Cái ao lớn có diện tích gần 800 m2, sâu 2,5 mét, chủ động được nguồn nước vào và ra hàng ngày, nuôi các loại cá chép, mè, rô phi, cá trắm… Các bể nhỏ, có lúc ông ươm nuôi cá con cho “cứng cáp”, sau đó được xả xuống ao bằng một ống thoát. Thức ăn thừa của ếch được chảy ra ao lớn cho cá ăn.
Đầu tháng 5/2006, ông bắt đầu nuôi 2 lứa ếch, mỗi lứa hơn 4.000 con, kết thúc mùa nuôi ếch vào cuối tháng 8/2006.
Kinh nghiệm nuôi ếch mau lớn, ít hao hụt của ông áp dụng như sau: Khi mua ếch giống về, ông chia đều cho 5 bể, ươm nuôi khoảng 10 ngày trước khi đưa ra lồng, mỗi ngày ông cho ăn 3 lần, thay nước bể 3 lần. Thức ăn trong 10 ngày đầu, khi ếch còn trong bể xi măng, là loại thức ăn công nghiệp đóng bao (CP 9950). Sau 10 ngày, ông đưa ếch ra các lồng lưới ngoài ao và cho ăn loại CP 9951. Về sau ếch lớn dần, cho ăn loại CP 9952. Nhưng quan trọng nhất là phải “tiếp sức” khi mới bắt ếch về nuôi trong bể, để ếch con quen với môi trường lạ. Ông bật mí: Lấy khoảng 2 kg thức ăn loại nhỏ (CP 9950), đập một trứng vịt vào trộn đều, sau đó trộn thêm một ít dung dịch dầu gan mực (theo hướng dẫn liều lượng), mang phơi nắng 15 phút cho khô mặt, rồi cho ếch con ăn. Ngoài ra, hàng ngày, sau khi vệ sinh bể, ông lựa những con ếch lớn đưa vào các bể kế tiếp. Trước khi thả ếch, ông còn sát trùng bể bằng thuốc tím 5%. Nhờ vậy ếch của ông có độ đồng đều cao, hao hụt ít (dưới 5%). Theo ông, không nên nuôi ếch trên 3 lạng/ 1 con vì khó bán - ít lời và không nuôi ếch trong mùa đông. Mỗi lứa ếch trung bình từ 38 - 50 ngày.
Ông còn ươm nuôi 3.000 con trê lai trong 3 bể xi măng khoảng 1 tháng, sau đó “xổ lù” để đàn cá trê con theo nước xuống bể lớn. Song song với việc nuôi ếch - cá, mỗi lứa ếch, ông nuôi kèm 1 lứa vịt khoảng trên 200 con vịt ta, 20 vịt xiêm (có chích ngừa vaccin), để ăn các con ếch bị chết; nuôi 10 con heo, trồng rau muống để có chất xanh cho cá, heo...
Đến cuối tháng 8/2006, ông đã thu khoảng 2 tấn ếch được 70 triệu; đầu tháng 11/2006, ông thu hoạch hai tấn cá là 30 triệu. Trừ chi phí, khấu hao... xong thì cũng lãi 50 triệu đồng (trong vòng 6 tháng). Đó là chưa kể các khoản thu khác từ vịt, heo trên 10 triệu đồng. Mô hình này hiện đang trong giai đoạn thể nghiệm, nhưng xem ra có nhiều triển vọng, nhờ áp dụng triệt để quy trình sản xuất chăn nuôi khép kín.
Ngoài ra, cảnh quan nơi đây rất sạch - đẹp, hấp dẫn nhiều đoàn khách du lịch “miệt vườn” của Nhật và nhiều nông dân đến tham quan, tìm hiểu...
LÊ QUỐC KỲ (Đà Nẵng)
WTO xem lại việc đánh thuế chống phá giá tôm
Nguồn tin: Lao Động, 23/11/2006
Ngày cập nhật: 24/11/2006
Cổ phiếu hải sản đắt hàng
Nguồn tin: VNECONOMY , 22/11/2006
Ngày cập nhật: 24/11/2006
Kiên Giang: Lúng túng trong việc xử lý ruộng nuôi tôm - trồng lúa bị nhiễm bệnh
Nguồn tin: BCT, 23/11/2006
Ngày cập nhật: 24/11/2006
Trên 30 ha tôm-lúa ở huyện An Minh (Kiên Giang) đã bị nhiễm bệnh VL-LXL. Điều đáng nói là nhiều nông dân vì tiếc tiền đầu tư nuôi tôm nên chưa chịu tiêu hủy lúa. Trong khi đó cơ quan chức năng chưa biết giải quyết cách nào thỏa đáng cho dân. Ngoài kinh phí hỗ trợ theo quy định của Chính phủ, địa phương không dự phòng nguồn kinh phí nào để hỗ trợ con tôm bị ảnh hưởng do phải tiêu hủy lúa. Do không được khuyến cáo trước nên hiện nay nhiều nông dân vẫn tiếp tục thả tôm giống trên ruộng trồng lúa.
Theo dự báo của ngành nông nghiệp, diện tích tôm – lúa bị nhiễm bệnh chưa dừng lại ở con số này. Nếu thời gian tiêu hủy lúa bị bệnh kéo dài, mầm bệnh trên 30 ha tôm – lúa đang bị nhiễm sẽ phát tán sang những cánh đồng khác. Những hộ canh tác theo mô hình tôm- lúa này cho biết ngoài mức hỗ trợ tiêu hủy lúa theo quy định của Chính phủ họ cũng đang cần sự hỗ trợ của Nhà nước về chi phí ban đầu thả tôm giống.
THÀNH NGUYỄN
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.