Hàn Quốc miễn thuế nhập khẩu gần 10.000 tấn thủy sản Việt Nam
Nguồn tin: SGGP, 16/12/2006
Ngày cập nhật: 17/12/2006
Cá bè chết hàng loạt do rỉ mật tại sông Đồng Nai
Nguồn tin: Dân Trí, 17/12/2006
Ngày cập nhật: 17/12/2006
Sau vụ việc tàu hàng chở rỉ mật từ Cần Thơ về thành phố Biên Hòa va chạm vào cầu cảng khiến toàn bộ 125 tấn rỉ mật trên tàu bị chìm tan vào nước sông Đồng Nai, hiện rất nhiều cá bè nuôi tại đây đã chết vì ô nhiễm.
Sáng 15/12, một số hộ nuôi cá bè trên sông Đồng Nai ở khu vực hạ lưu thuộc khu phố Thái Hòa, phường Long Bình Tân (cách điểm chìm tàu khoảng 4 km) đã phát hiện cá nuôi trong các lồng bè bị chết hàng loạt.
Đến sáng 16/12, cá vẫn tiếp tục bị chết. Ông Hoàng Văn Thái, chi hội trưởng chi hội cá bè khu phố Thái Hòa cho biết: Toàn khu phố có 112 hộ nuôi với 158 bè cá, chủ yếu là cá điêu hồng và cá chép. Hiện gần một nửa số bè nuôi đã phát hiện cá chết với số lượng lên tới hàng tấn.
Ngay sau sự cố trên, Sở Tài nguyên và môi trường đã lấy mẫu nước tại vị trí tàu chìm và khu vực xung quanh để xác định mức độ ô nhiễm xảy ra trên sông Đồng Nai và cùng các cơ quan chức năng cũng như chủ tàu tìm cách khắc phục thiệt hại.
Theo TTXVN
Khai thác sò con ở cửa biển Khánh Hội (U Minh)
Nguồn tin: CRTV, 16/12/2006
Ngày cập nhật: 17/12/2006
Hiện ngay tại cửa biển Khánh Hội, huyện U Minh đang vào mùa Sò Huyết sinh sản. Đây cũng là lúc người dân tại địa phương tiến hành khai thác sò con.
Hoạt động khai thác sò con tại cửa biển Khánh Hội diễn ra khoảng 2, 3 ngày nay. Do giá mua của loại sò giống này hiện nay rất cao, nên hàng ngày có đến hàng ngàn người tụ tập trên bãi sò để khai thác. Đa số họ đều là người dân nghèo ở địa phương và khai thác bằng những vật dụng thủ công. Tuy nhiên vẫn có một số đối tượng đã dùng phương tiện không đúng quy định vào khu vực sinh sản của sò huyết để khai thác. Hiện đội kiểm ngư tại cửa biển Khánh Hội đã tạm bắt giữ phương tiện và tiền hành xử phạt các đối tượng vi phạm trên ./.
Chí Hải
An Giang: Nguy cơ khủng hoảng thừa cá tra, ba sa nguyên liệu
Nguồn tin: Lao Động, 16/12/2006
Ngày cập nhật: 16/12/2006
Nuôi tôm trên cát bằng nước biển khép kín
Nguồn tin: ND, 07/12/2006
Ngày cập nhật: 16/12/2006
Tại Hội nghị về nuôi trồng thủy sản biển miền trung vừa tổ chức tại Huế, ông Cham-long Ko-la-tút, Giám đốc Chi nhánh Công ty TNHH chăn nuôi CP Việt Nam tại Quảng Trị đã làm sửng sốt nghị trường khi tuyên bố mô hình nuôi tôm trên cát bằng nước biển với quy trình khép kín đã thành công. Với quy trình này, mối lo về nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngầm và ô nhiễm môi trường chung quanh đã được giải quyết một cách cơ bản.
Tại huyện Hải Lăng có một khu nuôi tôm công nghiệp lớn nhất và cũng từng bị tai tiếng nhất tỉnh Quảng Trị. Sau mấy năm khởi động, dự án này đã để lại hậu quả nặng nề không chỉ về kinh tế mà quan trọng hơn là nguy cơ sa mạc hóa và ô nhiễm môi trường tác hại đến cuộc sống của hàng vạn người dân trong khu vực. Hành trình của dự án này bắt đầu từ Công ty An Sinh (ASC), Công ty Việt Mỹ (ATI), rồi nay là Công ty chăn nuôi CP Việt Nam (CP VINA). CP VINA đến Quảng Trị với loại tôm thẻ chân trắng xuất xứ từ Hawait. Con tôm sú Việt Nam với những nhược điểm khó khắc phục đã chính thức thoái vị tại dự án nuôi công nghiệp lớn nhất tỉnh này. Cùng với sự xuất hiện của tôm thẻ chân trắng, tuyên bố trên của Công ty CP VINA lại mở ra hy vọng mới về tính hiệu quả của dự án nuôi tôm trên cát ở Quảng Trị.
Khác quy trình nuôi của hai công ty ASC và ATI, với Công ty CP VINA chỉ dùng nước biển và tuần hoàn từ ao nuôi qua ao dự trữ xử lý. Trong hệ thống ao, CP VINA phân bố 60% dùng để nuôi, 30% dùng để dự trữ nước, còn 10% là ao chứa chất thải và xử lý vệ sinh. Nước từ biển bơm qua lưới lọc vào ao chứa, sau khi được xử lý sẽ đưa vào ao nuôi, thu hoạch xong, nước sẽ được đưa ra ao xử lý bằng chlorine 3-5 phần nghìn và sục khí điều hòa ô-xy rồi quay trở về ao chứa, lại tiếp tục xử lý và đưa vào ao nuôi. Lượng nước hao hụt do bốc hơi sẽ được bổ sung từ hệ thống cấp.
Như vậy, quá trình nuôi không cần phải thay nước sau mỗi vụ thu hoạch như với con tôm sú trước đây. Nền đáy ao được lót bạt dày 0,75 cm bảo đảm nước không rò rỉ ra chung quanh. Với quy trình này, không lo về nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngầm vùng ven biển do lấy nước nuôi tôm và môi trường không bị ảnh hưởng bởi nước thải thay ra sau mỗi vụ nuôi.
Vậy nuôi tôm thẻ chân trắng có khác nuôi tôm sú trước đây?
Khác với tôm sú, tôm thẻ chân trắng vẫn phát triển bình thường trong môi trường nước có độ mặn bình thường từ 20 đến 30 phần nghìn. Và thực tế qua hai vụ nuôi ở Hải Lăng, có khi độ mặn lên đến trên 50 phần nghìn nhưng tôm vẫn phát triển. Vụ đầu tiên CP VINA nuôi vào mùa hè. Thả tôm vào tháng 7-2005 và thu hoạch vào tháng 10-2005 trên diện tích 26 ha. Thời kỳ này nắng nóng đã khiến nước bốc hơi mạnh, độ mặn khi thả tôm giống là 35 phần nghìn, sau tăng lên trên 50 phần nghìn, nhưng tôm vẫn phát triển bình thường và cho năng suất 14 tấn/ha. Tiếp đến vụ này CP VINA nuôi trên diện tích 40 ha, thời tiết dịu hơn nên năng suất đạt 18 tấn/ha.
Nuôi tôm bằng nước biển tuần hoàn ở vùng nắng nóng như Hải Lăng thì giải pháp khắc phục khi độ mặn lên cao chỉ có thể là tăng cường sục khí, cấp bù nước và giảm mật độ.
Theo ông Cham-long Ko-la-tút, cái quan trọng nhất của quy trình nuôi tôm khép kín là phòng bệnh và xử lý môi trường. Bởi thế, đầu tư cho hệ thống trại tôm và kỷ luật vệ sinh ra vào trại hết sức nghiêm ngặt. Ngoài sự phòng ngừa mầm bệnh xâm nhập từ ba đường: nước, trên không và trên bộ bằng hệ thống lưới, lọc, có bể sát trùng cho phương tiện và người vào trại. Mỗi ao lại có bể thuốc tím rửa tay, chân. Dụng cụ từng ao được để riêng sau khi vệ sinh khử trùng, v.v.
Kinh nghiệm gần 20 năm trong nghề nuôi tôm ở Thái-lan mà ông Cham-long đúc kết được là tôm sú hay tôm thẻ chân trắng đều có nguy cơ mắc bệnh và lây nhiễm như nhau. Riêng bệnh Tau-ra lây nhiễm từ vi-rút thật sự là thảm họa với loài tôm thẻ chân trắng. Mắc bệnh này, coi như mất trắng bởi hiện tại vẫn chưa có thuốc đặc trị. Ðiều này không như một số ý kiến cho rằng loại tôm này có khả năng kháng bệnh cao hơn tôm sú và những ao nuôi tôm sú trước đây phải bỏ vì dịch bệnh ô nhiễm nặng vẫn nuôi được tôm thẻ chân trắng bình thường.
Vậy, vì sao tôm thẻ chân trắng tỏ ra thắng thế hơn tôm sú?
Nguyên do là giống tôm thẻ chân trắng đang được đưa vào nuôi ở Việt Nam đã qua khâu kiểm nghiệm nghiêm ngặt. Tôm thẻ chân trắng được nhập từ những trung tâm thuần hóa ở Ha-oai về Thái-lan. Tại đây, tôm tiếp tục được tuyển thành tôm bố mẹ và đưa về Việt Nam. Vì vậy, giống tôm thẻ chân trắng được trải qua rất nhiều khâu kiểm tra chất lượng. Ngược lại, tôm sú bố mẹ được bắt từ tự nhiên, từ nhiều nguồn khác nhau mà không kiểm soát được chất lượng, độ rủi ro cao và ngày càng khó khăn do bệnh tật phát triển nhanh. Chính vì thực tế này mà hiện nay một số nước, như Thái-lan, Trung Quốc đã phải thay con tôm sú bằng tôm thẻ chân trắng. Ông Cham-long cho hay, hiện ở Thái-lan, diện tích nuôi tôm sú chỉ còn hơn 10% mà thôi.
Như vậy, tôm thẻ chân trắng có mặt ở Việt Nam hiện nay tỏ ra ưu thế bởi kiểm soát được đầu vào. Nhưng nếu phong trào nuôi loại tôm này ngày càng tự phát như tôm sú trước đây và không kiểm soát được nguồn giống cũng như quy trình nuôi nghiêm ngặt thì liệu số phận con tôm thẻ chân trắng có theo đuôi con tôm sú ở nhiều vùng dịch bệnh hoành hành hay không? Chắc chắn điều đó sẽ xảy ra! Bởi từ kinh nghiệm của Thái-lan mà ông Cham-long cho biết, hội chứng Tau-ra đã khiến không ít vùng tôm ở nước này lao đao. Qua điều tra, nguyên nhân cho thấy do bùng phát phong trào nuôi mà nguồn giống không kiểm soát được, dẫn đến hậu quả này.
Trở lại với trại tôm Hải Lăng. Tôm vụ thứ hai đang tiếp tục thu hoạch. Ðể đến được ao nuôi, chúng tôi phải đi ủng bảo hộ của trại, lội qua máng nước tím khử trùng. Tại mỗi cầu ao lại có thêm một thùng thuốc tím để khử trùng tay và đồ dùng khi chăm sóc tôm. Khác với các trại nuôi tôm thông thường, ở đây ao nuôi như nằm trong nhà kính, với hệ thống lưới, rào bảo vệ cả dưới đất, dưới nước lẫn trên không. Mỗi ao nuôi chỉ gần ha mà lắp đến chín máy quạt nước sục khí xoáy loại lớn. Trong ao suốt 24 giờ trong ngày nước tung bọt trắng xóa và chảy thành dòng vòng quanh ao. Với cách lắp đặt quạt nước này, không những lượng ô-xy được điều hòa mà toàn bộ chất cặn bã đều bị dồn vào giữa. Khi thu hoạch xong, chỉ cần bơm nước ra là dọn vệ sinh lòng ao dễ dàng hơn.
Ông Cham-long kéo rá đựng thức ăn ở một ao nuôi bắt lên mấy con tôm đã hơn 100 ngày tuổi. Ông giới thiệu đây là những ao được nuôi dài ngày hơn bình thường để tạo ra tôm cỡ lớn cho các hợp đồng đã ký với đối tác tiêu thụ. Với loại này, khoảng 140 ngày tuổi, tôm sẽ đạt 40-45 con/kg. Ông tính toán, vụ này CP VINA sẽ thu được khoảng 720 tấn tôm, mỗi ha đạt doanh thu gần một tỷ đồng và lãi rất cao, gần 40%.
Chúng tôi cũng đến thăm trại tôm của một nông dân Quảng Trị đầu tiên ở Triệu Lăng (Triệu Phong) với sự hỗ trợ kỹ thuật của CP VINA đã mạnh dạn nuôi một héc-ta tôm theo quy trình dùng nước biển khép kín này. Anh Võ Ðức Thiên sau khi thất bại với những ao tôm sú ở Triệu Ðộ do dịch bệnh đã thuê lại mặt bằng của trại tôm giống cũ để nuôi tôm thẻ chân trắng. Nhìn qua là biết ngay cơ sở nuôi của anh đã nhận chuyển giao công nghệ khép kín của CP VINA. Chỉ khác là anh không lót bạt làm ao trên cát mà tận dụng lại hai bể xi-măng. Võ Ðức Thiên tỏ ra rất mê mô hình của mình bởi qua hai vụ nuôi, anh đã có doanh thu khá cao, lợi nhuận hơn 40%. Hiệu quả gấp nhiều lần so với nuôi tôm sú.
Nhưng khả năng nhân rộng mô hình này trên vùng cát Quảng Trị đến đâu?
Các chuyên gia đến từ nhiều tỉnh miền trung và Quảng Trị đều khẳng định, nếu nuôi tôm sú vấn đề cốt lõi là vốn và kỹ thuật, thì với tôm thẻ chân trắng hai vấn đề này lại càng phải được đề cao. Bởi suất đầu tư cho mô hình này khá lớn. Tại trại tôm Hải Lăng CP VINA phải đầu tư đến 700 triệu đồng mỗi ha. Anh Võ Ðức Thiên, tư nhân đầu tiên của Quảng Trị nuôi theo công nghệ này cũng phải đầu tư đến 500 triệu/ha, gấp đôi số vốn mà trước đây anh từng bỏ ra để nuôi tôm sú... Khoản vốn này so với khả năng của bà con nông dân vùng bãi ngang Quảng Trị là quá lớn. Mặt khác, nếu nhân rộng mô hình này thì giống tôm sẽ là vấn đề nan giải, bởi phải nhập ngoại với sự kiểm soát gắt gao về chất lượng. Nếu không, sẽ lặp lại thảm họa dịch bệnh như tôm sú.
Vậy, với Quảng Trị nói riêng và vùng cát bãi ngang miền trung nói chung nên đón nhận mô hình tôm thẻ chân trắng của CP VINA như thế nào?
Các chuyên gia khuyến cáo, với điều kiện của Quảng Trị, để khai thác tốt nguồn tài nguyên hơn 30 nghìn ha cát ven biển cần nhân mô hình này càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, bởi yêu cầu về vốn, kỹ thuật và kỷ luật chăn nuôi rất cao như mô hình CP VINA, chỉ có thể những đối tượng đủ điều kiện mới thực hiện được. Ðồng thời, nếu phát triển mô hình này, các cơ quan chức năng cần phải có đủ khả năng kiểm soát về chất lượng giống và an toàn môi trường.
ÐINH NHƯ HOAN và TẠ QUANG DŨNG
Bà Rịa-Vũng Tàu: Sau bão số 9, hoạt động xuất khẩu hải sản: Khó khăn lại chồng khó khăn
Nguồn tin: BRVT, 15/12/2006
Ngày cập nhật: 16/12/2006
Tiền Giang: không sản xuất giống, thả nuôi tôm thẻ chân trắng
Nguồn tin: SGTT, 15/12/2006
Ngày cập nhật: 16/12/2006
UBND tỉnh Tiền Giang vừa ban hành Chỉ thị số 31/2006/CT- UBND về việc không sản xuất giống, thả nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh. Theo đó, kể từ ngày 20/12/2006, các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh ngưng toàn bộ hoạt động sản xuất, vận chuyển tôm thẻ chân trắng giống từ bên ngoài vào để thuần dưỡng, khảo nghiệm và thả nuôi trên địa bàn tỉnh Tiền Giang dưới mọi hình thức.
Tôm chân trắng (Litopenaes vannmei hoặc Penaeus vannamei) bắt đầu được nuôi thử nghiệm tại Tiền Giang từ năm 2002 trên vùng ngọt hóa, thuộc huyện Gò Công Tây. Thời gian qua, cũng đã có một vài hộ đã thả nuôi tôm thẻ chân trắng trong vùng nuôi tôm sú. Qua quá trình thử nghiệm và thực tế cho thấy, tôm thẻ chân trắng phát triển tốt, cho năng suất cao, giá thành thấp. Tuy nhiên, tôm thẻ chân trắng có những nhược điểm cơ bản như: thường mắc những bệnh của tôm sú, nguy cơ tiềm ẩn hội chứng Taura, gây nên dịch bệnh lớn và có thể nhiễm bệnh sang các đối tượng tôm nuôi khác, do đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến việc nuôi trồng thuỷ sản và môi trường tự nhiên tại vùng nuôi tôm.
Các tổ chức, cá nhân có hành vi sản xuất giống, thả nuôi tôm thẻ chân trắng không thực hiện nghiêm chỉnh chỉ thị trên sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản.
Theo TTXVN
Châu Phú (An Giang): Tập huấn kỹ thuật nuôi lươn và nuôi ếch cho ngư dân
Nguồn tin: AG, 12/12/2006
Ngày cập nhật: 15/12/2006
Lươn và ếch đồng là loài thủy sản rất quen thuộc, là món ăn bình dân ở thôn quê nhưng lại là món ăn cao cấp ở vùng thành thị, Đây cũng là đối tượng có giá trị xuất khẩu cao. Hiện nay phong trào nuôi lươn và ếch đã xuất hiện trở lại ở một số nơi, ngày càng tăng về quy mô diện tích. Song vẫn còn trong giai đoạn bước đầu về kỹ thuật nuôi cao sản.
Ngày 08/12/2006 tại ấp Bình An Thạnh Lợi xã Vĩnh Thạnh Trung huyện Châu Phú, Trạm Khuyến Nông kết hợp với Ban Quản lý Dự án ICLARM, tổ chức lớp tập huấn kỹ thuật nuôi lươn và ếch Thái Lan, có 37 nông dân tham dự.
Theo nhận xét của anh Nguyễn Xuân Lộc (thuộc Ban Quản lý Dự án – Đại học Cần Thơ), buổi tập huấn kỹ thuật mang lại hiệu quả cao, giúp cho người dân nắm bắt kịp thời kỹ thuật nuôi trước mùa vụ, thông qua đó người dân có thể vận dụng để nuôi hai đối tượng này mang lại hiệu quả kinh tế cao, có thể xem mô hình này giúp ngư dân xóa đói giảm nghèo, giải quyết lao động nhàn rỗi vào mùa lũ đến.
Lê Trần Minh Hiếu - Trạm Khuyến Nông Châu Phú
Việt Nam kiểm soát chặt chất lượng thủy sản vào Nhật
Nguồn tin: VNN, 15/12/2006
Ngày cập nhật: 15/12/2006
Mỹ: thuế chống bán phá giá tôm là không công bằng
Nguồn tin: TT, 15/12/2006
Ngày cập nhật: 15/12/2006
Sản lượng cá của xã Văn Tiến đạt hơn 60 tấn/năm
Nguồn tin: Vĩnh Phúc, 11/12/2006
Ngày cập nhật: 15/12/2006
Long Phú (Sóc Trăng): Ngoài lúa còn phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản
Nguồn tin: ST, 13/12/2006
Ngày cập nhật: 14/12/2006
Bước vào vụ Đông Xuân năm nay, huyện Long Phú xuống giống lúa được 21.436 ha, đạt 89% kế hoạch. Đến nay trà lúa Đông xuân đang phát triển tốt. Tuy nhiên, một vài nơi xuất hiện các loại sâu bệnh: rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá với diện tích khoảng 1.370 ha, chiếm tỷ trọng 6,4% diện tích gieo trồng, có nơi thiệt hại mức độ nặng. Trước tình hình đó, bà con nông dân huyện Long Phú tích cực phòng trừ sâu bệnh bảo vệ mùa màng.
Bên cạnh đó, xác định nuôi trồng thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn nên huyện đã phát triển diện tích nuôi trồng lên đến 4.796 ha, đạt xấp xỉ 98% kế hoạch, trong đó nuôi tôm nước lợ 3.890 ha, chiếm tỷ lệ 81% đồng thời triển khai các dự án qui hoạch: Cánh đồng Năn; Nam Chánh – Tổng Cán và dự án cá lúa tại các xã: Long Phú, Tân Hưng, Tân Thạnh và dự án nuôi trồng thủy sản ven sông Hậu với tổng diện tích 1.250 ha.
Hiện nay, bà con nông dân huyện Long Phú đã thu hoạch thủy sản với tổng sản lượng 31.787 tấn, đạt 90% kế hoạch diện tích nuôi trồng, năng suất bình quân 4,2 tấn/ha. Nhờ điều kiện thuận lợi nên hầu hết hộ bà con nông dân nuôi trồng thủy sản đều trúng mùa có lãi, tăng thu nhập hộ gia đình.
Đông Triều - những hồ chết cá
Nguồn tin: LĐ, 13/12/2006
Ngày cập nhật: 14/12/2006
Việc một loạt hồ thuỷ nông của Đông Triều ô nhiễm và mất dần nguồn sinh thuỷ đang trực tiếp đe doạ năng suất cây trồng, giảm nguồn lợi thuỷ sản và có thể còn là một nguy cơ đối với nguồn nước sạch dân sinh trong tương lai gần
Nạn kiệt rừng và tốc độ khai than lộ thiên ồ ạt dọc cánh cung Đông Triều (Quảng Ninh) trong vòng nửa thập niên trở lại đây đang biến một loạt các hồ thuỷ lợi cung cấp nước cho hàng ngàn hécta đất canh tác nông nghiệp và phát triển nghề nuôi thuỷ sản tại đây bị bồi lấp và ô nhiễm nặng nề. Những giải pháp khắc phục đã được tiến hành, nhưng vô cùng chậm chạp và hiệu quả cũng thật mỏng manh.
"Chạch cũng phải chết"
Chúng tôi theo Chủ nhiệm Hợp tác xã Hoàng Quế Nguyễn Trọng Phu bước xuống chà lúa chưa gặt của cánh đồng Nội Hoàng như bước xuống một ruộng rơm khô xơ xác và bạc phếch toàn lúa lép.
Ông Phu bảo: "Lẽ ra dịp này mùa đã gặt quang rồi. Nhưng mà lúa lép quá, dân tình ngao ngán. Lắm nhà chả thiết ra đồng". Hoàng Quế vốn là xã thuần nông gồm 400ha canh tác do 2 hồ thuỷ lợi Nội Hoàng và Cổ Lễ với sức chứa khoảng 4,2 triệu mét khối cung cấp nước tưới. Nhưng 5 năm trở lại đây, cả hai hồ đều đã bị bồi lấp và dung tích chỉ còn khoảng 60 - 65%. Đáng ngại hơn là tình trạng nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề bởi axít và các ôxýt kim loại.
Độ phì (pH) xác định chỉ còn 3,5 khiến tất cả các cánh đồng đều chua hoá. Năng suất lúa trước kia luôn đạt từ 43 - 45tạ/ha thì giờ đây 35 - 38tạ/ha đã là cao nhất. Riêng vụ mùa 2006, mức bình quân tiếp tục giảm xuống chỉ còn 30tạ/ha. Nếu tính các chi phí sản xuất từ vôi khử chua đến phân bón, thuốc trừ sâu, thuế khoá... Xem như vụ này bà con ta đã "ngửa vai cho trời xem" !
Cách cánh đồng nơi chúng tôi đứng không xa là hồ Cổ Lễ. Chỗ nông nhất chồi lên một bạt sen tàn tạ. Đây là hồ bị ô nhiễm nặng nhất. Bởi vì nước được cấp ra từ hồ Nội Hoàng ở về phía thượng nguồn và trước khi dồn về đây còn đi qua một vùng đổ thải dày đặc của mỏ than Tràng Bạch dù đã ngừng sản xuất cách đây nhiều năm.
Chủ nhiệm HTX Hoàng Quế mô tả: " Ngoài ít cá trê và cá chuối còn sót lại, các loài cá từng nuôi thả ở đây đều tuyệt giống. Mùa đông ken, nước xả đến đâu, cá chạy dạt ra đến đó.
Còn lòng mương thì phơi ra một lớp bùn màu gạch cua dày tới 20 - 25cm. Đến chạch cũng không sống nổi. Riêng vụ mùa này, vô số những chà lúa sớm tự nhiên vàng lụi đi rồi gốc rạ thối dần. Phun tới cơ man là thuốc chống sâu đục thân, nhưng vô hiệu. Cái chính là vì nguồn nước không còn đủ độ kiềm".
Được biết: 2 năm 2005 - 2006, tỉnh Quảng Ninh đã chi 4,2 tỉ đồng từ Quỹ bảo vệ môi trường do ngành than trích nộp để nạo vét và xây kè chắn đất đá, nhằm cải tạo lại hồ này, song vẫn còn thiếu gần 1,2 tỉ đồng theo kế hoạch. Nhưng điều cốt lõi, lại nằm ở đập chứa hồ Nội Hoàng cách Cổ Lễ 3km về phía bắc.
Ô nhiễm ngay từ thượng nguồn
Mặt nước hồ Nội Hoàng xanh rợn mặc dù bao quanh là con đường vận tải than 24/24 giờ mù mịt bụi. Đó là một màu xanh hệt như thứ dung dịch sun phát đồng vẫn thường có trong các phòng hoá nghiệm cho thấy nồng độ ôxýt ở đây đậm đặc biết chừng nào. Đi sâu vào trong là cả một vùng đồi núi lở loét bề bộn các công trường khai thác thuộc hai Cty than Mạo Khê và Uông Bí. Nhà sàng Tràng Khê (Cty than Uông Bí) công suất 1.500T/ngày chặn ngay phía thượng nguồn hồ.
Cạnh đó là một bãi thải khổng lồ đang mỗi ngày đổ rộng ra hơn, lấp kín một trong hai con suối lớn - nguồn sinh thuỷ chính của hồ. Đã có một thời gian dài, đây từng là bãi rác thải từ thị trấn Mạo Khê hàng ngày đưa tới đổ. Còn bây giờ, người ta tiếp tục phủ lên bằng đá sít đổ ra từ nhà sàng. Suốt cả vùng chân núi xưa kia xanh rì, giờ đây dường như không một bóng cây tránh nắng ngoài vài hàng bạch đàn đen nhẻm lưa thưa ven bờ. Mất rừng đầu nguồn, hồ Nội Hoàng giảm hẳn 1/3 dung tích và vẫn đang đứng trước nguy cơ bị cắt đứt toàn bộ nguồn sinh thuỷ.
Từ đây, theo đường vận tải than đi sang hướng tây nam là hồ Cầu Cuốn, sức chứa 1,5 triệu mét khối cung cấp nước tưới cho 150ha canh tác của xã Yên Thọ. Tương tự như hồ Nội Hoàng, hồ Cầu Cuốn cũng ôxýt hoá và đang bị bồi lấp, dung tích chỉ còn chưa đầy 1 triệu mét khối.
Chị Nguyễn Thị Miến, nông dân thôn Yên Lãng 3 - xã Yên thọ nói: "Tôi cấy 5 sào, nhưng 3 sào mất trắng. Mà vôi khử chua đã bón tới 2 lần. Thuốc trừ sâu phun tới 3 lần. Vậy nhưng, mười bông mất bảy. Có khu đồng trông như cờ lau cả loạt".
Nhưng không chỉ có các hồ như Nội Hoàng, Cổ Lễ và Cầu Cuốn. Hiện tại, 8/15 hồ do Cty thuỷ lợi Đông Triều quản lý đang lâm vào tình trạng bị bồi lấp và ô nhiễm nghiêm trọng. Đó là các hồ Khe Ươn I, Khe Ươn II, Rộc Chày, Yên Dưỡng, Tân Yên. Thậm chí, cả hồ Bến Châu - một trong số hồ lớn nhất dung tích 8 triệu mét khối, cung cấp cả nguồn nước canh tác và sinh hoạt cho 4 xã và một nông trường với hàng vạn nhân khẩu 2 năm gần đây cũng đã bắt đầu chết cá hàng loạt mỗi khi bắt đầu mùa mưa do khai thác than lộ thiên đã tràn sang 2 lưu vực thượng nguồn đó là Bãi Bằng và Hồ Thiên.
Dự án "rùa bò"
Việc một loạt hồ thuỷ nông của Đông Triều ô nhiễm và mất dần nguồn sinh thuỷ đang trực tiếp đe doạ năng suất cây trồng, giảm nguồn lợi thuỷ sản và có thể còn là một nguy cơ đối với nguồn nước sạch dân sinh trong tương lai gần.
Kỹ sư Đoàn Văn Chiến - Giám đốc Cty thuỷ lợi Đông Triều - cho biết: "Nếu 10 năm trước, các hồ ở đây trung bình mỗi năm mất đi 30% dung tích, thì bây giờ mức tổn hao càng khó xác định. Chúng tôi đã tiến hành khá nhiều cuộc nạo vét. Nhưng hoàn toàn không dễ dàng. Đá cục từ các lòng hồ không bơm nào chịu nổi. Sau nữa, bùn hút lên không biết chở đi đâu. Đổ lên bờ thì rồi mưa lại trút trả lại. Bằng không".
10 năm, từ 1996, ngành quản lý thuỷ nông huyện liên tục có các dự án cải tạo lòng hồ, xây kè chắn đất đá với mức kinh phí như muối bỏ bể. Bởi mức dự án đầu tư một, thì năng lực và tốc độ mở rộng diện khai thác than lớn gấp trăm lần. Hầu hết các vùng đầu nguồn đều bung bét. 8 hồ chứa nước nêu trên không hồ nào chưa từng qua cải tạo. Song, kinh phí đầu tư nhỏ giọt, dự án từ khi đệ trình cho đến khi được cấp kinh phí kéo dài hàng năm trời.
Tổng kinh phí mà riêng huyện Đông Triều nhận được nhiều năm qua mới khoảng 11 tỉ đồng, chỉ đủ phân bổ cho và ba hồ chứa như Nội Hoàng và Cổ Lễ. Xét cho cùng, cải tạo cũng chỉ là giải pháp tình thế và không thể nào bền vững nếu tình trạng khai thác than lộ thiên khu vực đầu nguồn vẫn lan tràn như hiện nay.
Ngô Mai Phong
Thêm năm doanh nghiệp có kháng sinh cấm
Nguồn tin: TT, 14/12/2006
Ngày cập nhật: 14/12/2006
3 nguyên nhân hàng thủy sản nhiễm kháng sinh cấm
Nguồn tin: TT, 14/12/2006
Ngày cập nhật: 14/12/2006
TT - Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (Nafiqaved) Nguyễn Tử Cương vừa thông báo đến Cục Y dược thực phẩm (Bộ Y tế - lao động và phúc lợi) Nhật Bản về nguyên nhân hàng thủy sản VN vào Nhật có dư lượng kháng sinh và hóa chất cấm .
Theo đó, một số doanh nghiệp VN nhập khẩu nguyên liệu về chế biến nhưng không kiểm tra dư lượng kháng sinh và hóa chất cấm; cũng có trường hợp mua nguyên liệu từ các cơ sở nuôi thủy sản ở vùng sâu, vùng xa - nơi kiểm soát kháng sinh và hóa chất cấm chưa nghiêm. Ngoài ra, việc công nhân sử dụng kem bôi tay có thành phần chloramphenicol để trị vết thương cũng dẫn đến sự có mặt của loại kháng sinh này trong sản phẩm đánh bắt tự nhiên.
Cũng trong văn bản này, người đứng đầu Nafiqaved gửi lời xin lỗi đến cơ quan chức năng và người tiêu dùng Nhật, đồng thời thông báo các biện pháp khắc phục đang được VN thực hiện.
H.ĐĂNG
Huyện Bố Trạch (Quảng Bình) một doanh nghiệp nhân được giống cua biển
Nguồn tin: Quảng Bình, 11/12/2006
Ngày cập nhật: 13/12/2006
Công ty TNHH Thịnh Phát (Bố Trạch - Quảng Bình) vừa công bố nhân thành công giống cua biển sau hơn một năm thử nghiệm nuôi cua bố mẹ sinh sản.
Với sự giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính của Sở Khoa học - Công nghệ, đến ngày 4-12, Công ty này đã xuất bán đợt đầu hơn 3 vạn con cua giống bảo đảm chất lượng tốt cho người nuôi trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận. Được biết từ trước tới nay, nguồn cua giống mà người nuôi vẫn sử dụng chủ yếu là bắt trong tự nhiên ở các cửa sông, nên cua thường mắc bệnh hoặc không cung ứng đủ số lượng. Nay công ty Thịnh Phát nhân được giống cua giống bảo đảm chất lượng.
Báo QB số 244
11 DN thuỷ sản phải kiểm tra toàn bộ hàng XK sang Nhật
Nguồn tin: TTXVN, 12/12/2006
Ngày cập nhật: 13/12/2006
Việt Nam-Hàn Quốc hợp tác trong lĩnh vực thuỷ sản
Nguồn tin: VOV, 12/12/2006
Ngày cập nhật: 13/12/2006
Nam Định: Nghĩa Hưng, giá trị sản lượng thuỷ sản đạt 378,2 tỷ đồng
Nguồn tin: Nam Định, 11/12/2006
Ngày cập nhật: 13/12/2006
Vỡ mộng làm giàu!
Nguồn tin: ND, 12/12/2006
Ngày cập nhật: 13/12/2006
Sau năm năm vận động bà con thực hiện dự án nuôi tôm công nghiệp, Chủ tịch UBND xã Thái Ðô (Thái Thụy, Thái Bình) Tạ Văn Ương mới rút ra được bài học về việc quá vội vã chuyển đất trồng lúa, làm muối sang nuôi tôm. Hậu quả mà người dân phải gánh chịu là nuôi tôm thất bại, nợ nần chồng chất, người dân mất niềm tin.
Chủ tịch UBND xã Thái Ðô kể:
- Còn nhớ hồi mới triển khai dự án (2001), người dân Thái Ðô mừng lắm và ấp ủ giấc mơ làm giàu từ nuôi tôm sú. Cũng phải thừa nhận, đã có không ít hộ dân làm giàu nhờ nuôi tôm sú, nhưng đó là chuyện của ba, bốn năm về trước.
- Còn bây giờ thì sao?
- Tôm nuôi chết nhiều và không thể khắc phục. Bà con nhớn nhác lên UBND xã hỏi vì sao tôm chết? Tôi cũng chịu không biết trả lời thế nào, đến ngay cả nhà tôi cũng có một ao tôm bị chết mà không cứu được, huống chi là các hộ dân khác.
Dự án nuôi tôm công nghiệp xã Thái Ðô được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện từ năm 2001. Theo đó, giai đoạn 1 của dự án có tổng vốn đầu tư hơn 54.623 triệu đồng từ vốn ngân sách trung ương cho xây dựng cơ sở hạ tầng vùng chuyển đổi đất trồng lúa, làm muối sang nuôi trồng thủy sản (421 ha). Mục tiêu giai đoạn 1 của dự án này đến hết năm 2005 phải hoàn thành các hạng mục như kênh cấp, thoát nước, cống, đường điện, trạm bơm...
Chủ tịch UBND xã Thái Ðô cho biết thêm:
- Mặc dù các hạng mục của dự án giai đọan 1 đã hoàn thành nhưng đã chậm gần một năm so mục tiêu đề ra. UBND xã đã phát hiện có nhiều sai phạm trong quản lý, thi công hệ thống mương cấp, thoát nước cho vùng nuôi tôm như sử dụng mác bê-tông không đúng, dùng nước mặn để trộn bê-tông, sử dụng gạch non để xây... Mực nước trong kênh tiêu lại cao hơn mực nước trong kênh cấp nước, dẫn đến rò rỉ nước thải vào đầm nuôi tôm. Ngoài ra, các nhà chứa máy bơm nước chưa nghiệm thu đã hỏng, phải sửa chữa.
Vụ nuôi tôm năm nay, các hộ dân xã Thái Ðô thả nuôi 37 triệu con tôm sú giống trên diện tích gần 600 ha. Do dịch bệnh, hệ thống thủy lợi không bảo đảm, tôm nuôi chết hàng loạt, người dân Thái Ðô lại thêm một vụ tôm thất bát. Không biết giấc mơ làm giàu từ nuôi tôm sú của người dân nơi đây đến bao giờ mới trở thành hiện thực?
QUANG DUY
Nhật Bản lại cảnh báo 5 DN thủy sản Việt Nam
Nguồn tin: VNN, 12/12/2006
Ngày cập nhật: 13/12/2006
Cà Mau: gần 100 cơ sở thu mua, sơ chế tôm nguyên liệu chưa đạt điều kiện đảm bảo VSATTP thủy sản
Nguồn tin: CRTV, 12/12/2006
Ngày cập nhật: 13/12/2006
Với nạn sử dụng chloramphenicol - Không chỉ kiểm tra, kiểm soát, mà cần xử lý đối với người vi phạm
Nguồn tin: Bình Thuận, 11/12/2006
Ngày cập nhật: 12/12/2006
Cá mú lồng qua bão
Nguồn tin: Bình Thuận, 12/12/2006
Ngày cập nhật: 12/12/2006
Hơn 70 bè nuôi hải sản trên biển, Phú Quý là nơi cung cấp nhiều loại hải đặc sản nổi tiếng với cá mú đỏ, cua, cá mú cọp, tôm… Trung bình hàng năm, địa phương cung cấp cho đất liền khoảng 300 – 400 tấn hải đặc sản các loại. Trước bão số 9, Phú Quý có hơn 210.000 con hải đặc sản chuẩn bị vào thu hoạch. Ngư dân định xuất lứa cuối cùng vào tháng 11 dương lịch như mọi năm để có vốn nuôi lại cá mới và trang trải mùa tết. Thế nhưng, mọi dự định đều trôi ra biển lớn khi cơn bão đi qua. Vợ chồng anh Phạm Văn Chiến và Võ Thị Mười thôn 8 xã Long Hải ngậm ngùi tiếc của. Không có tàu đi biển, vốn liếng gia đình dồn hết vào bè cá với 10 lồng chuyên cá mú đỏ và cá bớp. Bão đến, tiếc của anh Chiến đã liều ở lại bè bất chấp mệnh lệnh di dời của chính quyền. Nhưng đến 9 giờ tối ngày 4/12 trước sức gió dữ dội và sóng lớn, anh Chiến đã quyết định bỏ của chạy lấy người. Bè cá của anh bị sóng đánh đứt trụ neo, rách lưới, cá đi hết ra biển còn bè thì sóng đánh dạt vào bờ, bao nhiêu vốn liếng mất hết. Ở nhà vợ và 2 con anh cũng chống chọi với căn nhà tốc mái, đổ tường. Còn anh Nguyễn Văn Thành cũng ở Long Hải thì hoàn cảnh gấp bội với bè cá bị sóng đánh hư hoàn toàn, nhà sập và chiến thuyền cũng bị chìm trong bão. Bây giờ mọi thứ tiêu rồi, ngư dân ở Long Hải, nơi tập trung nuôi cá lồng than thở, tàu đắm, nhà sập, bè trôi, không biết bắt đầu sửa chữa từ đâu, sửa chữa thứ gì. Mà cái gì cũng cần vốn, cần vật liệu, lấy đâu ra.
Theo thống kê ban đầu của huyện, chỉ riêng thiệt hại ở 70 bè nuôi hải đặc sản đã vượt mức 10,5 tỷ đồng. Đó là vẫn còn một số chủ bè chưa khai báo hết thiệt hại vì chưa nắm được chính xác số cá nuôi ra biển. Hầu hết các hộ này đều có vay vốn ngân hàng để sản xuất. Giờ muốn đầu tư nuôi lại cũng phải tốn hàng trăm triệu vì phải làm lại lồng, vừa phải mua con giống. Mà giá một con giống cá mú đỏ hiện nay bán là 150.000 đồng, giống cá mú cọp từ 30.000 - 50.000 đồng/con. Thời gian chờ thu phải mất từ 15 - 18 tháng. Sau thiệt hại tàu thuyền, thiệt hại về nuôi, trồng hải sản là con số vượt mức tưởng tượng của ngư dân Phú Quý.
Để giúp ngư dân nuôi trồng hải sản, giảm bớt thiệt hại do bão số 9, Chủ tịch UBND huyện Huỳnh Văn Hưng đã ký quyết định điều động lực lượng dân quân xã Long Hải, chủ bè cùng phối hợp với biên phòng giữ cá, bắt lại cá cho dân. bởi đặc điểm của loài cá nuôi khi thoát ra khỏi lồng là chỉ quanh quẩn gần khu vực nuôi, không đi xa ra biển, nếu chịu khó, người nuôi giăng lưới bắt lại thì cũng thu được 50- 60%. Lực lượng biên phòng ngay trong sáng 7/12 đã bắt một số đối tượng dùng điện để bắt cá, thu về hàng chục kg cá trả cho người bị hại. Trước tình trạng này, các chủ bè cá cùng bộ đội biên phòng đã lên kế hoạch bắt và giữ cá. Họ đoàn kết bảo vệ tài sản bằng cách bắt cá và chia chung. Cá được gom về để chung một nơi, ai bị thiệt hại bao nhiêu sẽ căn cứ vào số chung bắt lại được mà chia đều theo mức chung được thỏa thuận. Một cách làm hết sức trong sáng, vô tư của ngư dân miền biển giữa thiên tai.
Sau bão người còn của giúp người mất của, người mất của ít giúp người mất của nhiều. Số lồng bè nào hư hại, ngư dân Long Hải cùng chung tay giúp nhau, người lo sửa bè, người tham gia bắt cá. Những con cá mú may mắn không bị trôi ra biển do bè vỡ, lưới rách qua mấy ngày sóng giật cũng mệt mỏi, không buồn đớp thức ăn như mọi khi. Anh Chiến cười an ủi vợ, chắc chúng cũng mệt vì chống chọi với giông gió. Giờ sóng yên biển lặng rồi, của cải chỉ vài tháng cần cù sẽ làm ra. Đó cùng là lời ngư dân Phú Quý động viên nhau lúc này.
Minh Hằng
Thả bống cá giò: Nhàn hạ, thu nhập khá!
Nguồn tin: NLĐ, 12/12/2006
Ngày cập nhật: 12/12/2006
Anh Võ Văn Sang bên chiếc sõng và chùm bống thả cá giò
Trung bình mỗi ngày một sõng (thuyền nhỏ) của ngư dân thả bống có thể đánh bắt được 50 kg cá giò, cá dìa, thu nhập hơn 350.000 đồng
Ngư dân ở làng biển Phước Đồng (xã An Hải, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) mới làm quen với nghề thả bống cá giò, cá dìa trong năm 2006 này. Bống là một loại bẫy cá có chức năng tương tự như lờ thả cá ở đồng ruộng.
Đầu tư ít, dễ làm
Theo nhiều ngư dân, bống thả trên biển trước đây của dân An Hải thường rất lớn, một thuyền chỉ chở được một cái mà thôi. Nhưng bống đánh cá giò, cá dìa thì nhỏ hơn nhiều, có hình gần giống trái tim, được bện bằng cật mò o. Bên hông bống có một cái toi – ngõ duy nhất để cá chui vào. Người ta dùng một thứ mồi tổng hợp gồm cá tạp xay nhỏ, trộn với bột mì và cám, trát khoảng một vốc nhỏ vào toi bống để nhử cá đến ăn. Trong lòng bống bỏ một viên gạch ống để có thể làm chìm bống xuống biển. Trên mặt bống nối một đoạn dây cước dài khoảng 13-15 sải tay, bên trên nối với một phao xốp lớn bằng cổ chân.
Một người với một sõng (thuyền) nhỏ cùng lúc có thể thả một xâu bống 10-15 cái hoặc nhiều hơn nữa. Anh Võ Văn Sang, một ngư dân thả bống ở làng biển Phước Đồng, cho biết: “Thả bống cá giò, cá dìa nói chung rất nhàn. Cứ chèo sõng ra khoảng 500 m đến 1 cây số là có thể thả bống được. Thả gần bờ thì cũng có nhưng sản lượng không nhiều bằng. Bống thả xong thì tụi tôi ngồi... tán gẫu, cứ khoảng 2 giờ là có thể “thu hoạch” một lần”. Theo các ngư dân thả bống đánh cá giò, một sõng với khoảng 12-15 bống ngày may mắn đạt tới cả 100 kg cá, còn không thì cũng có 30-40 kg. Nếu cá nhiều, sõng sẽ vào bờ ngày hai lần, còn ít thì các ngư dân mang theo cơm ăn luôn trên biển, cứ khoảng 7 giờ sáng ra biển, khoảng 3-4 giờ chiều “về bến”, không lo hiểm nguy như những nghề đánh bắt khác trên biển.
Hiệu quả cao
Điều đáng kể hơn cả là thu nhập của ngư dân đánh bắt cá giò, cá dìa bằng thả bống rất khá. Theo bà Nguyễn Thị Hai, một trong những đại lý thu mua cá giò, cá dìa ở thôn Phước Đồng, mỗi ngày riêng đại lý của bà thu mua trung bình khoảng 1 tấn cá. Mức giá thu mua có linh động, tùy theo cỡ cá nhỏ lớn mà được phân loại mua từ 7.500 đồng đến 14.000 đồng/kg. Nếu cứ tính bình quân mỗi sõng một ngày thả bống kiếm được 50 kg cá giò loại “bét” nhất thì thu nhập cũng đã trên 350.000 đồng, mỗi tháng nếu trời yên biển lặng thì thu cả chục triệu bạc! Đáng nói hơn nữa là chi phí cho một “chuyến biển” bằng bống không đáng kể. Không cần thuyền máy dầu, chỉ cần sõng chèo là ngư dân đến được nơi thả bống. Mỗi chiếc bống giá chỉ tầm 10.000 đồng, hơn một tháng phải thay mới một lần (vì khi bống đã đóng hàu, mò o cũ thì cá “kỵ” không vô nữa), thức ăn thì mỗi ký khoảng 3.000 đồng, một bống ngày cá ăn nhiều nhất thì cũng chỉ tốn chừng 3 kg mồi.
Cá giò Phú Yên không chỉ bán ở các nhà hàng trong tỉnh, mà còn được các đại lý ướp đá chở lên tận Gia Lai, Đắk Lắk... với mức giá bán cao hơn. Theo các ngư dân, cá giò nếu đem nướng thì rất... bắt rượu hoặc nấu canh chua thì ngon không thua cá bớp, cá lạt là bao.
Thu nhập khá, thế nhưng đa số ngư dân thả bống đánh cá giò trên biển ở Phước Đồng cho biết họ sắp... nghỉ nghề này. Lý do? Kể từ tháng 10 âm lịch kéo dài đến tháng 2, tháng 3 năm sau, họ chuyển sang chong mành tôm hùm. Nghề này thu nhập “đã đời” hơn. Ông Phạm Ngọc Thơm, cựu trưởng thôn Phước Đồng, cho biết: “Chong tôm hùm mà trúng thì không làm nghề gì giàu bằng. Trung bình mỗi thuyền sau một vụ chong mành kiếm được trên dưới 100 triệu đồng”.
Bài và ảnh: Nguyễn Quốc Khương
Xuất khẩu thủy sản sang Nhật phải đăng ký
Nguồn tin: TT, 12/12/2006
Ngày cập nhật: 12/12/2006
Thêm cơ hội xuất khẩu thủy sản sang Hàn Quốc
Nguồn tin: BCT, 10/12/2006
Ngày cập nhật: 11/12/2006
Điều tra nguyên nhân nhiễm kháng sinh
Nguồn tin: TT, 11/12/2006
Ngày cập nhật: 11/12/2006
Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (Nafiqaved) vừa gửi công văn đến các doanh nghiệp (DN ) có lô hàng thủy sản xuất sang Nhật bị phát hiện có dư lượng kháng sinh, hóa chất cùng cơ quan chức năng các địa phương yêu cầu nhanh chóng điều tra làm rõ nguyên nhân lây nhiễm.
Các DN phải cung cấp thông tin về nguồn gốc nguyên liệu; DN đã làm gì để kiểm soát dư lượng kháng sinh và hóa chất đối với nguyên liệu trước khi đưa vào sản xuất hoặc sản phẩm trước khi xuất khẩu; biện pháp áp dụng để loại bỏ dư lượng kháng sinh và hóa chất cấm sau khi lô hàng đầu tiên bị phát hiện và cảnh báo.
H.Đ.
Lai giống thành công cua xanh nhân tạo
Nguồn tin: SGGP, 10/12/2006
Ngày cập nhật: 10/12/2006
Viện Nghiên cứu Thuỷ sản 3 Nha Trang vừa thực hiện thành công việc sản xuất giống cua xanh nhân tạo. Đến nay đã có 6 trong tổng số 20 cua mẹ đã đẻ trứng, ấp nở hơn 70.000 con giống được khách hàng từ Hải Phòng, Quảng Ninh, Quảng Bình… và các tỉnh ven biển miền Trung đặt mua.
Nuôi cá nước ngọt cải tiến
Nguồn tin: Mattran, 29/11/2006
Ngày cập nhật: 10/12/2006
Anh Phan Sách là người nuôi cá nước ngọt đầu tiên của thôn An Ngãi Tây II xã Hoà Sơn (Hoà Vang, TP. Đà Nẵng) . Hiện anh có trên 1 ha ao nuôi cá, tuỳ theo mức độ cao thấp, anh chia ra làm 6 ao, nuôi các loại cá chim trắng, trắm cỏ, rô phi đơn tính, ếch đẻ... kết hợp trồng sen.
Để khép kín quy trình nuôi cá mang lại hiệu quả kinh tế cao, anh Sách cho biết ngoài các khâu chăm sóc, thức ăn, chế độ nước, khâu con giống cũng góp phần quan trọng. Các năm trước, khi mua cá giống về, để bảo vệ số cá giống còn "non nớt" này, anh khoanh lưới ương nuôi vào một ao. Sau một thời gian vớt cá chuyển đến các ao nuôi lâu dài. Song biện pháp này, cá con cũng bị thất thoát rất lớn do chưa thích nghi với môi trường, thời tiết và bị cá lóc vào ăn cá con nên hao hụt lớn.
Nhà anh cách ao nuôi cá gần nhất khoảng 30m và cao hơn mặt nước trên dưới 1 m. Lợi dụng địa thế này, trước sân nhà, anh xây một cái bể với diện tích 60 m2, cao 1 m, phần chìm dưới đất là 0,5 m, được chia ra làm hai bể nhỏ, đáy của hai bể được thông ra một "hố ga" nhỏ nằm sát chân thành ngoài của bể bằng 2 ống nhựa và từ " hố ga" này thông ra ao cá bằng một ống nhựa có đường kính 10 cm. Hai bể này anh dùng để ươm nuôi cá giống khi mới mua về, mỗi lần ươm nuôi từ 3.000 đến 4.000 cá giống, chăm nuôi khoảng 1 tháng cho "cứng cáp", sau đó xả ống đáy để cho cá con theo ống nhựa lớn ra các ô lưới khoanh sẵn trong ao. Ao nằm sát vườn nên có bóng mát của cây điều hoà nhiệt độ cho cá con khi gặp trời nắng gắt. Tại đây, cá được tiếp tục chăm nuôi từ 40 đến 50 ngày sau thì vớt cá đến các ao lớn để nuôi lâu dài.
Nhờ cách này mà tỉ lệ cá con hao hụt không đáng kể, năng suất thu hoạch cá cao.
Gần đây, anh Sách xây thêm 20 bể nhỏ để nuôi ếch thịt và ếch đẻ, anh cũng áp dụng kỹ thuật "thoát nước" tương tự như bể nuôi cá, đồng thời anh cũng đưa số ếch con đạt tiêu chuẩn "xuất xưởng" ra lồng lưới ngoài ao cũng bằng đường ống tương tự. Nhờ vậy, ít tốn công chăm sóc cũng như rất an toàn, ít hao hụt ếch con. Chưa hết, anh tận dụng thức ăn thừa của cá, ếch trong các bể xi măng khi thay nước, sẽ trôi ra ao làm thức ăn cho cá. Năm 2005, nhờ có mô hình nuôi cá, ếch, trồng sen, anh thu được khoảng 150 triệu đồng. Bản thân anh tham gia trong CLB nuôi cá nước ngọt xã Hoà Sơn nên có điều kiện học tập, chia sẽ kinh nghiệm nuôi cá, ếch cho các hội viên . Mô hình nuôi cá , ếch, trồng sen. Hằng ngày có nhiều nông dân trong và ngoài xã đến thăm quan, học hỏi mô hình của anh. Tháng 5-2006, anh được Hội làm vườn huyện Hoà Vang chọn báo cáo điển hình mô hình sen, cá, ếch xen canh. Tại Hội chợ - Triển lãm giống cây trồng, vật nuôi và máy, thiết bị phục vụ nông nghiệp lần thứ I TP. Đà Nẵng, anh Sách có một gian hàng trưng bày : "Mô hình nuôi ếch".
Quốc Kỳ
Giải pháp nào cho nuôi tôm trên cát tại miền trung ?
Nguồn tin: ND, 9/12/2006
Ngày cập nhật: 10/12/2006
Ðến nay, nhiều tỉnh miền trung đã đào hơn 20 nghìn ha đất cát thành ao nuôi, trồng thủy sản, chủ yếu là nuôi tôm chân trắng. Việc phát triển nuôi tôm trên cát quá nhanh, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, cạn kiệt nguồn nước ngầm, nhiễm mặn và giảm diện tích rừng phòng hộ. Ðã đến lúc các bộ, ngành và chính quyền các cấp cần quản lý chặt chẽ việc nuôi tôm trên cát.
Phát triển quá mức
Chúng tôi đến vùng nuôi tôm trên cát nằm sát bờ biển thuộc xã Ðức Phong (Mộ Ðức, Quảng Ngãi), 120 hộ dân khoan nước ngầm ngay dưới rừng phi lao để nuôi tôm. Nguồn nước thải chưa được xử lý xả vô tội vạ ra mương dẫn xuống biển.
Gặp anh Nguyễn Văn Thu đang cho tôm ăn, cho biết, đã nuôi tôm trên cát được năm năm, thời gian đầu nuôi tôm sú, nhưng đều thất bại vì nuôi tôm sú bị chết nhiều, nợ ngân hàng mấy chục triệu đồng. Từ hai năm nay, chuyển sang nuôi tôm chân trắng. Tôm nuôi ba tháng đạt trọng lượng 75 con/kg, giá bán 55.000 đồng/kg. Với 3.500 m2, vụ vừa rồi thu được bốn tấn tôm, trừ các chi phí, lãi hơn 100 triệu đồng. Ðến nay, bảy xã ven biển thuộc hai huyện Mộ Ðức, Ðức Phổ đã nuôi 151 ha tôm dọc bờ biển. Nuôi tôm trên cát, nhất là nuôi tôm chân trắng đạt năng suất cao (10-12 tấn/ha), nuôi hai vụ/năm, lợi nhuận đạt hàng trăm triệu đồng/ha, giúp hàng trăm hộ dân thoát nghèo và làm giàu.
Năm 1999, một nông dân ở Ninh Phước (Ninh Thuận) sáng kiến dùng bạt nylon lót đáy, làm bờ, pha nước ngọt với nước biển vào ao nuôi tôm sú trên cát thành công, đạt hiệu quả kinh tế cao. Ðến năm 2000, sáng kiến này đã nhanh chóng được các nhà khoa học của Viện Kinh tế - Quy hoạch thủy sản (Bộ Thủy sản) nghiên cứu, xây dựng thành công và quảng bá quy trình nuôi tôm trên cát. Khi ấy, hàng triệu nông dân các tỉnh miền trung hy vọng có thể xóa nghèo, làm giàu trên vùng cát trắng hoang hóa.
Nuôi tôm trên cát phát triển mạnh đến mức các bộ, ngành và chính quyền các cấp không thể kiểm soát được. Nếu như năm 2002, cả nước có 593,8 ha nuôi tôm trên cát thì đến năm 2003 tăng lên 1.131 ha; đến hết năm 2005 diện tích nuôi tôm trên cát được các tỉnh miền trung đưa vào quy hoạch hơn 20.000 ha; tập trung tại các tỉnh Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Thừa Thiên - Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh...
Quyền Vụ trưởng Nuôi trồng Thủy sản (Bộ Thủy sản) Vũ Văn Dũng, cho biết, nuôi tôm chân trắng thành công trên diện tích nuôi tôm sú thường xuyên bị bệnh được xem là một giải pháp trước mắt cho vùng nuôi tôm sú đang bị suy thoái môi trường. Tuy nhiên, việc nuôi tôm chân trắng cần được nghiên cứu, đánh giá để có định hướng cho sản xuất gắn với bảo vệ môi trường.
Lợi ít, hại nhiều
Cách đây hai năm, Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi (Viện Kinh tế-Quy hoạch thủy sản) đã cảnh báo: "Bên cạnh hiệu quả kinh tế - xã hội đầy hứa hẹn, nuôi tôm trên cát đã bộc lộ một số bất cập như làm cạn kiệt và nhiễm mặn nguồn nước ngầm, ô nhiễm môi trường nước ven biển, nhiễm mặn đất, thu hẹp diện tích rừng phòng hộ. Chúng ta không nên vì lợi ích kinh tế trước mắt mà quên đi những nguy cơ hủy hoại môi trường. Việc phát triển nuôi tôm trên cát ở quy mô lớn phải được đánh giá, nghiên cứu đúng mức và thận trọng".
Chứng kiến những tác động xấu của việc nuôi tôm trên cát đối với môi trường, nguồn nước ngầm và rừng phòng hộ tại các huyện Mộ Ðức, Ðức Phổ, Giám đốc Sở Thủy sản Quảng Ngãi Nguyễn Minh Tuấn cho chúng tôi biết: "Cái được của nuôi tôm trên cát thì ít, mà cái không được lại quá nhiều. Vậy có nên tiếp tục hay dừng việc nuôi tôm trên cát ? Chúng tôi đang rất cần có sự định hướng của Bộ Thủy sản".
Trao đổi ý kiến với chúng tôi, lãnh đạo ngành thủy sản các tỉnh miền trung đều bức xúc khi đề cập vấn đề có nên hay không nên phát triển nuôi tôm chân trắng.
Theo Giám đốc Sở Thủy sản tỉnh Bình Ðịnh Trần Thị Thu Hà, Bộ Thủy sản cần cho biết có nên hay không nên nuôi tôm chân trắng. Nếu tiếp tục phát triển thì Bộ cần nghiên cứu cụ thể đối tượng này. Nếu cấm nuôi tôm chân trắng thì rất khó thực hiện vì với người dân, thấy nuôi con gì có hiệu quả là họ nuôi, bất chấp sự cảnh báo của các cơ quan chuyên môn. Khó khăn lớn nhất đối với nuôi tôm chân trắng là chưa kiểm soát được việc nhập tôm giống.
Theo ông Cham-long, Giám đốc chi nhánh Công ty TNHH CP Việt Nam tại Quảng Trị: "Tại Thái-lan đã xảy ra bệnh tau-ra (bệnh do vi-rút) trên tôm chân trắng. Ðến nay, bệnh này vẫn không có biện pháp chữa được mà chủ yếu phòng là chính. Tôm chân trắng nhiễm loại bệnh này có nguy cơ lây lan rất cao, phải hủy ao nuôi".
Nuôi theo hướng nào?
Tiến sĩ Bùi Quang Tề, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 cho rằng: "Ở nước ta chỉ nên nuôi tôm chân trắng ở những vùng mà điều kiện nuôi tôm sú khó khăn hơn".
Giám đốc Sở Thủy sản Quảng Trị Lê Bình lại cho rằng, nếu để dân nuôi tôm chân trắng trên cát là làm nghèo dân. Việc nuôi tôm trên cát nên để các doanh nghiệp triển khai, bắt buộc phải xử lý ô nhiễm môi trường và sử dụng hợp lý nguồn nước ngầm. Từ năm 2005, Công ty TNHH CP Việt Nam triển khai mô hình nuôi tôm chân trắng không sử dụng nước ngọt tại Hải Lăng (Quảng Trị). Hiện công ty nuôi 26 ha tôm chân trắng, năng suất vụ vừa rồi trung bình đạt 18 tấn/ha. Ðây là mô hình nuôi tôm chân trắng không sử dụng nước ngọt lần đầu được triển khai tại nước ta và đang được theo dõi về hiệu quả của mô hình này trước khi nhân rộng.
Vụ trưởng Khoa học-Công nghệ (Bộ Thủy sản) Nguyễn Xuân Lý lại cho rằng, giải pháp quan trọng đối với nuôi tôm trên cát là phải giải quyết được các vấn đề về môi trường, nguồn nước ngầm, hệ thống thủy lợi. Các địa phương có thể nuôi 1 vụ tôm sú + 1 vụ tôm chân trắng + 1 vụ rong sụn.
14 tỉnh ven biển miền trung có 142 nghìn ha đất cát có thể đưa vào nuôi trồng thủy sản. Từ nay đến năm 2010, Bộ Thủy sản tiếp tục đưa 7.140 ha đất cát vào nuôi trồng thủy sản. Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Việt Thắng cho rằng: Các tỉnh miền trung đi đầu cả nước, có tiềm năng rất lớn về nuôi trồng thủy sản trên vùng cát hoang hóa, vùng triều và đầm phá.
Phát triển nuôi trồng thủy sản tại các tỉnh khu vực này trong những năm qua giúp người dân xóa nghèo, làm giàu, nhưng cũng khiến nhiều hộ dân lâm vào cảnh nợ nần. Ðể phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững tại miền trung, cần thay đổi tư duy từ quy hoạch về diện tích, sản lượng, giá trị sang quy hoạch về hiệu quả kinh tế. Nếu năng suất nuôi tôm chỉ cần ba, bốn tấn/ha mà lợi nhuận cao hơn năng suất 8-10 tấn/ha thì cứ gì phải chạy theo năng suất cao.
Các viện nghiên cứu về thủy sản cần vào cuộc để làm chủ công nghệ sản xuất giống, quy trình nuôi, biện pháp phòng, trị bệnh thủy sản. Ðối với các dự án đầu tư nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm trên cát, cần bắt buộc phải có đánh giá tác động môi trường, xử lý chất thải.
Vấn đề đặt ra là, Bộ Thủy sản cần sớm đánh giá, đề xuất các giải pháp phát triển bền vững cho việc nuôi tôm trên cát. Một mặt tích cực phối hợp các bộ, ngành và các địa phương tăng cường quản lý về môi trường sinh thái, nguồn nước ngầm, nhiễm mặn và diện tích rừng phòng hộ. Mặt khác cần có nghiên cứu và biện pháp quản lý chặt chẽ để nuôi tôm chân trắng ở mức kiểm soát được.
TẠ QUANG DŨNG
Bình Thuận: Nuôi cá mú trong ao đất
Nguồn tin: Bình Thuận, 09/12/2006
Ngày cập nhật: 10/12/2006
Những năm gần đây, nghề nuôi cá mú lồng trên biển là một nghề khá quen thuộc đối với ngư dân trong tỉnh. Thế nhưng, ngư dân Bình Thuận mới chỉ biết nuôi cá mú trong lồng hoặc bè còn nuôi cá mú trong ao đất thì chắc hẳn chưa mấy người biết đến. Được sự giúp đỡ của các cán bộ khuyến nông - khuyến ngư, gia đình bác Đỗ Thế Hùng trú tại thôn Hồ Tôm – xã Tân Phước – thị xã La Gi đã mạnh dạn chuyển đổi một phần diện tích ao nuôi tôm sú trước đây sang nuôi cá mú đen.
Cá mú là loài cá ăn thịt, sống ở tầng nước sâu dưới đáy biển. Thịt cá ngon và có giá trị dinh dưỡng cao nên được thị trường các nước Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc… ưa chuộng. Vì thế giá cả của cá mú cũng cao so với các loại hải sản khác. Hiện nay, giá cá mú dao động trong khoảng từ 140.000 – 150.000 đồng/kg. Năm 2005, Trung tâm Khuyến nông quốc gia mở lớp tập huấn nuôi cá mú và cá chẽm trong ao đất tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Với sự giúp đỡ của Trạm khuyến ngư La Gi, bác Đỗ Thế Hùng được cử đi tham gia lớp học. Sau khi học xong, bác Hùng đã mạnh dạn đầu tư 1 ao nuôi có diện tích 3000m2, thả nuôi 3.000 con cá mú đen giống, trọng lượng mỗi con giống từ 100 – 250 gam, vào thời điểm đó, giá mỗi con cá giống trị giá 25.000 đồng. Tổng đầu tư cho tiền cá giống là 75 triệu đồng, trong đó Trung tâm Khuyến ngư La Gi hỗ trợ 15% vốn. Cũng giống như đặc tính sống ngoài biển, cá mú là loài cá dữ, sống ở tầng nước sâu và thường ở những rạn san hô hoặc các bãi đá ngầm dưới biển. Khi nuôi, bác Hùng cũng tạo những hang hốc dưới đáy ao cho cá ở. Thức ăn cho cá mú chủ yếu là các loại cá biển nhỏ, khi cho ăn thì băm nhỏ cho vừa với miệng cá mú. Phải cho ăn bằng thức ăn tươi, tuyệt đối không dùng thức ăn đã ươn hoặc ôi thiu… Qua 6 tháng nuôi trong ao đất, hiện nay, trọng lượng bình quân cá mú đã đạt khoảng 600 – 750gam/con. Trung bình mỗi tháng cá tăng trọng 100 gam. Cá phát triển tốt và chưa có dịch bệnh xảy ra. Theo bác Hùng dự kiến: Tháng 12 thu hoạch, trọng lượng bình quân đạt 800gam/con. Trừ hao hụt 500 con thì ao cá của bác cũng cho thu hoạch trên 2 tấn cá thương phẩm. Với giá thành hiện nay từ 140 – 150 ngàn đồng thì cũng thu được gần 300 triệu đồng. Trừ chi phí tiền giống, thức ăn, công lao động lãi ít nhất 100 triệu đồng. Có thể nói rằng con cá mú đen đang thích nghi và phát triển tốt ở điều kiện nuôi trong ao đất. Với mô hình này, hy vọng việc nuôi cá mú trong ao đất sẽ được nhân rộng ở các địa bàn ven biển của tỉnh, góp phần tăng giá trị hải sản xuất khẩu và cải thiện đời sống nông dân.
Theo Khoa học Công nghệ
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.