• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Nhộn nhịp nghề làm cá thác lác ở Vĩnh Thạnh Trung (An Giang)

Nguồn tin: AG, 22/12/2006
Ngày cập nhật: 23/12/2006

Làm cá thác lác là một nghề khá mới mẻ ở vùng nông thôn xã Vĩnh Thạnh Trung (Châu Phú). Nhiều lao động nhàn rỗi hay những người đã luống tuổi đều có thể làm được vì công việc tương đối nhẹ nhàng, bình quân mỗi ngày lao động có mức thu nhập từ 40.000-50.000 đồng/người.

Chuyện làm cá thác lác ở đây bắt đầu cách nay hơn 3 năm, vì nhà nghèo lại không đất sản xuất, cô gái Lê Thị Thu Mộng đã trở thành một trong những thương lái chuyên đi cân cá trên các cánh đồng (vào mùa lũ) trên địa bàn huyện Châu Phú, hoặc đến tận Campuchia cân cá lúc nước rút; rồi mang về bán cho các chủ vựa lớn ở thành phố Long Xuyên, cuộc sống tạm đắp đổi qua ngày. Trong quá trình mua đi bán lại như vậy, cô nhận thấy ở các vựa này hầu như không có nhân công làm ra sản phẩm, vì thế giá thuê nhân công trả rất cao trong khi ở địa phương mình thì còn rất nhiều người đang thất nghiệp, cần một công việc ổn định. Thế là, cô tiến hành thương lượng với chủ vựa đi đến thống nhất đôi bên cùng có lợi, thay vì cô bán cá trực tiếp cho vựa thì bây giờ mang cá về nhà, mướn các lao động nhàn rỗi ở nông thôn để làm ra thành phẩm với mức thù lao 2.500 đồng/kg. Vì công việc tương đối nhẹ nhàng, nghề dạy nghề, không bao lâu, chủ vựa nhỏ Lê Thị Thu Mộng đã thu hút 40 lao động. Mỗi ngày từ 4 giờ sáng, cô thuê xe đến chợ Ba Tiệm hay chợ Châu Đốc mua 600-700kg cá thác lác, giá 22.000 đồng/kg. Cá về giờ nào, bà con có mặt giờ nấy, có người làm tại vựa, có người mang về nhà bởi đồ nghề cũng rất gọn: Chỉ cần 1 cái bàn chiều cao 2 tấc, ngang 5 tấc-dài 4 tấc và 1 cây dao Thái Lan đã có thể tiến hành thái cá, nạo cá. Điển hình như hai mẹ con cô Lê Thị Út, mỗi ngày nhận 80kg cá tươi về nhà làm thành 40kg cá chả, tính ra thu nhập đến 100.000 đồng/ngày. Hay gia đình của ông Lê Văn Út, tất cả 12 thành viên đều tham gia làm cá chả thác lác, bình quân thu nhập hơn 30.000 đồng/người/ngày. Như vậy, đến 6 giờ chiều, 500kg cá tươi ban đầu của cô Mộng đã thành phẩm cá chả, lúc bấy giờ chỉ còn mỗi việc cân ký, muối nước đá rồi mang đến các xí nghiệp, vựa ở Long Xuyên bán lại, giá 57.000 đồng/kg. Còn lại phụ phẩm (da, xương), cô tận dụng bán cho các chủ nuôi cá với giá1.500 đồng/kg.

Vài tháng sau, thấy chuyện làm ăn của cô Mộng khá tốt, ở địa phương có thêm 2 chủ vựa nữa ra đời, đó là ông Lê Văn Lãnh và ông tư Sanh, góp phần giải quyết việc làm thêm cho trên 50 lao động nông thôn. Được biết, ở ấp Vĩnh Bình, xã Vĩnh Thạnh Trung này, hàng năm có đến 3 mùa, ngoài mùa làm cá chả thác lác, người dân còn sống chủ yếu dựa vào nghề làm ếch (từ tháng 5 đến tháng 9 âm lịch) qua 4 khâu: Rọc, lột, lựa, cắt đùi và nghề lựa cá chạch (tháng 7 đến tháng 10); cách tính trả lương theo mỗi giờ là 3.000 đồng. Với mức thu nhập khá cao, cô Lê Thị Thu Mộng đã giúp hàng trăm lao động nông thôn thoát nghèo.

H.T


Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang tiến hành Đại hội nhiệm kỳ II (2006 – 2010)

Nguồn tin: AG, 22/12/2006
Ngày cập nhật: 23/12/2006

 


Gia hạn đăng ký SX thuốc thú y thuỷ sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thuỷ sản

Nguồn tin: Vasep, 22/12/2006
Ngày cập nhật: 23/12/2006

Ngày 19/12/2006, Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản đã có công văn số 2989/CLTY-TY V/v gia hạn đăng ký sản xuất thuốc thú y thuỷ sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thuỷ sản. Nội dung công văn nêu rõ: các doanh nghiệp được tiếp tục sản xuất, kinh doanh đến ngày 30/6/2007 đối với các sản phẩm thuốc thú y thuỷ sản, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường nuôi trồng thuỷ sản đã được cấp hoặc gia hạn Giấy chứng nhận đăng ký sản xuất đến ngày 31/12/2006; đã được cấp hoặc gia hạn Giấy chứng nhận đăng ký sản xuất đến ngày 30/6/2006 sau đó được tiếp tục gia hạn đến ngày 31/12/2006 theo công văn số 1655/CLTY-TY ngày 13/7/2006 của Cục.

Trong thời gian chuyển tiếp đến ngày 30/6/2007, Cục sẽ thông báo đến từng doanh nghiệp các nội dung cần bổ sung hồ sơ để được cấp phép lưu hành theo qui định của Qui chế mới. Nội dung chi tiết công văn xin xem file đính kèm.

 


Xuất khẩu cá tra, ba sa năm 2006: Tăng kỷ lục về kim ngạch và sản lượng

Nguồn tin: SGGP, 22/12/2006
Ngày cập nhật: 22/12/2006

 


Thanh Hải: Nuôi ốc hương lồng cho lãi cao

Nguồn tin: Báo Ninh Thuận, 21/12/2006
Ngày cập nhật: 22/12/2006

Do ý thức nuôi trong cộng đồng được nâng cao, các thành viên chấp hành tốt quy chế và tuân thủ môi trường nuôi, chất thải và thức ăn thừa được thu gom chuyển ra khỏi vùng nuôi nên tổ nuôi ốc hương lồng tại thôn Mỹ Tân, xã Thanh Hải đi vào hoạt động ngày càng hiệu quả. Năm 2006, thôn Mỹ Tân thả nuôi ốc hương được 134 lồng, với diện tích nuôi 4.824m2 (bình quân 36m2/lồng). Qua thu hoạch và hạch toán doanh thu, sản lượng bình quân đạt 130kg/lồng. Với giá thị trường 125.000đ/kg, trừ chi phí, người nông dân lãi bình quân mỗi lồng được trên 4,8 triệu đồng.

Với kết quả này, năm 2007 huyện Ninh Hải sẽ mở rộng diện tích nuôi, bước đầu dự kiến tăng thêm 300 lồng nuôi tại địa bàn xã Vĩnh Hải.

NXB

 


Xuất khẩu thủy sản: Làm gì để vượt ngưỡng 4 tỉ USD?

Nguồn tin: NLD, 21/12/2006
Ngày cập nhật: 22/12/2006

 


Xuất khẩu thủy sản đến năm 2010: Tổ chức lại sản xuất là giải pháp căn cơ

Nguồn tin: SGGP, 21/12/2006
Ngày cập nhật: 22/12/2006

 


Xuất khẩu thủy sản 2007 và “ẩn số” đôla Mỹ

Nguồn tin: VNECONOMY cập nhật: 20/12/2006
Ngày cập nhật: 22/12/2006

 


Việt kiều nước nổi

Nguồn tin: SGTT, 21/12/2006
Ngày cập nhật: 22/12/2006

Sáu tháng bị cấm đánh bắt vào mùa cá đẻ - mùa nước nổi, hàng trăm gia đình Việt kiều chuyển sang nuôi cá bè qua hướng dẫn trên sóng của đài phát thành Việt Nam

Mê cá

Mùa cấm đánh cá, người Việt ở Biển Hồ, qua nghe đài tiếng Việt từ bên nhà, đã biết nuôi cá trá dưới hầm bè. Ông Sáu Đày bên hầm nuôi cá tra; năm rồi ông kiếm được 3.000USD từ nguồn này

Ông Sáu Đày là hội phó Hội Việt kiều tại Campuchia. Ông có năm người con, hai trai, ba gái đều đã xây dựng gia đình và đã ra lênh đênh riêng trên những chiếc thuyền khác. Làng Pato của ông có hơn 1.800 hộ sinh sống, trong đó có 356 gia đình người Việt. Gắn bó với Biển Hồ từ năm 1970 đến nay nhưng nom ông Sáu vẫn toát lên vẻ đặc trưng của người dân xứ Hà Tiên, Kiên Giang.

Bây giờ đang mùa nước nổi, Biển Hồ mênh mông lút những cánh rừng. Trên 60% lượng nước của Biển Hồ từ sông Mekong đổ về.

Trong cuốn sách viết về Biển Hồ của Colin Poole, vào mùa khô, Biển Hồ chỉ dài chừng 150km, rộng nhất chỉ 20km và sâu từ 1-2m, đó là thời điểm tháng 4, 5. Từ tháng 7, 8, nước lũ từ lưu vực sông Mekong đổ về, Biển Hồ như một cái túi trữ nước khổng lồ, phình to gấp vài lần, lấn sâu vào đất liền cả chục cây số. Tới tháng 9, 10, Biển Hồ dài tới 250 km, rộng 100km, diện tích lên tới 13.000km2. Biển Hồ nhấn chìm cả những cánh rừng già nhất. Duy chỉ có những dải nhà nổi là vẫn không hề suy suyển, nước lên tới đâu, nhà lùi vào bờ tới đó; khi nước rút, nhà lại theo ra.

“Hai năm nay, ngành thuỷ sản Campuchia không cho đánh bắt vào những tháng cá đẻ nên Biển Hồ mới thiếu đi vẻ tấp nập. Chứ nếu vào tháng 4, Biển Hồ rút tới đâu, cá đọng lại trong những ao nước nhỏ đặc hơn cả cá nuôi dưới hầm bè. Chúng tôi chỉ việc xúc cá đổ lên thuyền. Mê lắm”.

Ông Sáu cười giòn giã, phóng tầm mắt về phía những con sóng nhỏ lấp lánh ánh bạc cuối chân trời. Chẳng đâu được thiên nhiên ưu đãi như Biển Hồ này. Chỉ riêng cá nước ngọt cũng có hơn 200 loài, con cá to nhất người dân Biển Hồ đánh bắt được nặng tới hơn 300kg. Sản lượng cá đánh bắt hàng năm tới hàng trăm ngàn tấn. Dân Biển Hồ ít khi đi thuyền nhỏ vào mùa cá đẻ bởi vì sợ gặp phải những con cá to hàng trăm cân quẫy nước ụp thuyền. Mùa nước lên cũng là lúc hàng trăm loài cá lớn nhỏ đổ về Biển Hồ sinh đẻ.

Mùa cấm đánh cá

Ông Sáu nói: “Mùa không cho đánh cá trong sáu tháng liền, dân mình đi câu tum, rồi nuôi cá dưới hầm bè. Nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, mấy năm nay, bà con Biển Hồ đã biết thả nuôi cá dưới hầm bè. Mỗi năm cũng được một khoản kha khá.

Nói rồi, ông Sáu Đày nâng nắp thuyền. Một khoang dày đặc cá tra, cá trê.

“Năm rồi bán cá tra cũng được 3.000 đô la Mỹ. Mà nuôi cá hầm bè dễ lắm chả mất bao nhiêu công sức. Gần 70 rồi, nếu không đánh bắt được, nuôi cá lồng bè cuộc sống cũng thảnh thơi”, ông Sáu tâm đắc.

Cách xã của Sáu Đày vài cây số là những khu rừng già. Nơi đó bạt ngàn chim muông, thú rừng. Rắn và rùa là hai loài động vật nhiều nhất ở Biển Hồ. Mỗi ngày, người ta bắt hàng chục tấn rắn Biển Hồ cung cấp cho khu vực Đông Nam Á.

So với trước, cuộc sống bây giờ khấm khá hơn nhiều. Nhà nào cũng có tivi. Thư từ khó đến vì chẳng nhà nào có số, nhưng thông tin liên lạc cũng rất thuận tiện. Cứ có chiếc điện thoại là xa mấy cũng gần.

Bọn trẻ giờ đã có cô giáo xuống thuyền dạy, mỗi đứa đóng học phí 300 riel/tháng. Học hết lớp năm muốn học nữa phải lên bờ.

Có lẽ nỗi khổ lớn nhất đối với người dân Biển Hồ là nơi an nghỉ cuối cùng. Làng của ông Sáu gần với đồi đất Siem Reap, còn chôn nhờ dưới chân đồi. Cách làng của ông Sáu mười mấy cây, vào mùa nước nổi, người dân làng Cà Tơ phải mang người vào rừng, gác lên ngọn cây, chờ 6 tháng sau nước rút mới đem đi chôn.

Thảo Lê

 


Thương hiệu "Cá giống anh Bình"

Nguồn tin: QĐND, 16/12/2006
Ngày cập nhật: 22/12/2006

Bị mất một mảng hộp sọ, cụt tay phải, bàn tay trái chỉ còn 3 ngón, nhưng bằng ý chí, nghị lực, sức lao động của mình, cộng với đồng vốn ít ỏi của đồng đội chắt chiu cho vay, thương binh hạng 1/4 Lê Thanh Bình ở thôn Tân Cổ, xã Quảng Tân, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa đã nổi tiếng với thương hiệu: "Cá giống anh Bình".

Cách đây hơn 30 năm (ngày 18-8-1973), cả lớp quản lý Hợp tác xã (do huyện Quảng Xương mở) ngỡ ngàng khi anh Bình, học viên xuất sắc nhất lớp, tuyên bố: "Ngày mai tôi lên đường nhập ngũ".

Xếp bút nghiên và biết bao hoài bão đã ấp ủ, chàng trai xứ Thanh 19 tuổi không dám nói với bố việc mình xung phong ra chiến trường. "Vì lúc đó nhà tôi đã có một anh trai ở chiến trường, hai anh rể là liệt sĩ, bố bị bệnh huyết áp nặng, nói ra chỉ sợ cụ bị sốc thì khổ. Tôi chỉ dám thì thầm với mẹ và nói dối bố là: "Con đi thực tập một thời gian dài ở các hợp tác xã miền tây".

Vào chiến trường Tây Nguyên, binh nhất Lê Thanh Bình đã tham gia nhiều trận đánh chặn địch ở đường 13, phục kích địch ở Cầu Khởi (Tây Ninh), như anh nhớ lại: "Suốt ngày chờ địch ở dưới công sự nông choèn, cái nóng hầm hập ở trên trời tỏa xuống, ở lớp đá ong bốc lên làm cho người héo quắt lại. Chúng tôi đào hầm chiến đấu, cùn dễ đến hàng chục chiếc xẻng, mẻ hàng chục chiếc cuốc chim". Anh bị thương trong trận vây lấn thị xã Bình Long, khi cùng với chiến sĩ Thiện (quê ở Quảng Trị) ngồi ép mình như hai con dế trũi dưới căn hầm đào vội trong đêm. Vừa nghe tiếng đại đội trưởng hô "xung phong", thì nửa người anh bật khỏi công sự nhẹ bỗng, chơi vơi, tay phải như có dòng nước âm ấm chảy. Chỉ biết có thế, vì lúc đó mắt anh tối sầm lại, như có những quầng hoa cà, hoa cải xanh lét.

"Mãi sau này khi về đội phẫu K21, tôi mới biết căn hầm mình hứng trọn một quả đạn M79. Cậu Thiện hy sinh ngay, còn tôi được anh Việt, y tá đại đội băng bó cho, rồi được anh em tải thương đưa về tuyến sau. Mở mắt ra thấy tay phải cụt hết cả bàn, tay trái chỉ còn mu bàn tay và ba ngón, đầu bị mảnh đạn cưa mất một phần sọ. Tôi quá nản vì từ ăn cơm, thay quần áo, vệ sinh cá nhân đều phải nhờ các cô y tá làm giúp. Vết thương lành miệng cũng là lúc giải phóng miền Nam. Tôi ra Bắc và chữa vết thương qua rất nhiều Trung tâm nuôi dưỡng thương binh. Những ngày "trái gió trở trời" vết thương nhức nhối hành hạ làm cho thần kinh căng thẳng. Đã có lúc tôi buông xuôi tặc lưỡi "phó mặc" tất cả. Nhưng lời khuyên ân cần của đồng đội như có "phép màu" đánh thức lý trí của tôi.

Anh vẫn nhớ ngày các anh ở Hội thương binh nặng tổ chức đưa anh về nhà. Hôm ấy, mẹ anh tức tưởi khóc, còn bố tuy rất giận nhưng vẫn vui vẻ "Biết bao thanh niên ở trong làng, trong xã đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu này. Con tuy bị thương nhưng vẫn là một trong nhiều người may mắn được trở về quê hương". Dễ đến hàng tuần nhà anh lúc nào cũng chật kín người đến thăm hỏi, chia vui. Và cô giáo làng trẻ trung, xinh đẹp Phạm Thị Tú đã "thầm thương trộm nhớ" chàng chiến binh dày dạn phong sương. Đám hỏi, rồi đến đám cưới-anh Bình vui vẻ kể-đến nhanh làm tôi không dám tin vào hạnh phúc của mình. Tất cả là nhờ bạn bè, những người đồng đội thương binh đã vun vén, xây đắp cho tôi. Các anh mua trầu cau, làm đại diện cho nhà trai (mặc dù bố mẹ tôi vẫn khỏe), căng phông màn, tặng thuốc lá, tặng chăn. Anh Trần Đức Thái (thương binh cụt chân) tặng vợ chồng tôi đôi chiếu hoa Nga Sơn, nói đùa "Anh mà trải chiếu ở giường cô dâu chú rể thì chắc chắn cuối năm nay cô chú sẽ có thằng cu để bế bồng".

Anh Bình đưa tôi đi trên bờ bê tông của 5 vuông ao nuôi cá giống.. Vừa đi anh vừa rải thức ăn cho cá từ các thùng gỗ đặt sát mép nước. Đàn cá giống chim trắng chỉ một thoáng đã tụ trên mặt ao như một đám mây màu sáng bạc, tranh nhau đớp mồi. "Được các anh cho vay vốn, về nhà tôi xoay trần đào ao bằng hai cánh tay chỉ còn một nửa. Nhiều lần các anh về thăm thấy tôi vất vả đã xúm lại cùng làm. Điểm khởi đầu bao giờ cũng là sự vất vả, gian nan. Nhưng khi đã qua được rồi thì thật dễ dàng. Nó gần giống vòng tròn của chiếc đu quay khi đã vượt qua được điểm chết".

Bây giờ 5 vuông ao nhà anh mỗi vụ cá giống thu được vài chục triệu đồng tiền lãi. Mỗi vuông rộng 1.000m2, anh thả khoảng 7 chén tống cá bột, giống chim trắng, khoảng 20 ngày anh dùng vó san bớt sang 4 vuông ao còn lại. Thả từ tháng 8 âm lịch đến sau tết, khi các ao nuôi cá thịt trong vùng thu hoạch cá, anh mới bán cá giống. Anh giảng giải: "Một chén tống cá bột giống chim trắng khoảng bốn vạn con, giá một triệu đồng. Đến lúc bán cá giống chỉ còn lại khoảng 3,5 vạn con. Mỗi con giá 200 đồng, tính chi ly tôi lời được 6 triệu đồng. Trừ thức ăn và công chăm sóc, lãi ròng một vuông ao một vụ khoảng 18 triệu đồng. Đó là chưa kể tiền lãi của vụ đầu năm tôi thả cá trắm cỏ".

Đang say sưa tâm sự, bỗng nghe ngoài ngõ tiếng gọi vọng vào: "Ông Bình có nhà không?". Anh cười nói với tôi: "Giờ này khách hàng đến nhà lấy cá giống đấy". Có đến 10 người khách đi xe máy đèo những chiếc sọt to trải ni lông (đồ nghề chở cá giống). Họ tỏa ra các vuông ao, vớt cá giống lên cho vào các sọt đã đổ đầy nước. Thấy tôi ngạc nhiên, anh cười nói: "Toàn khách quen cả, họ đếm không thừa một con, trả tiền sòng phẳng, không thiếu một đồng. Tôi nhớ mãi lần bán cá giống đầu tiên, lúc đang đếm cá thì cô hàng xóm từ nhà hộ sinh chạy về báo tin vợ đẻ con trai. Chỉ sợ đếm nhầm cho khách thì mang tiếng".

Mới đây anh điện cho tôi: "Cháu đầu Lê Hữu Tân đã tốt nghiệp cao đẳng Bách khoa, ngành hóa dầu, chuẩn bị đi làm; cháu gái Lê Minh Đức đang học năm thứ ba Đại học văn hóa, còn cháu Lê Hùng Cường mới đỗ vào đại học Bách khoa. Ngày mai em ra thăm cháu rồi tranh thủ đến tìm hiểu cách nuôi cá giống ở Yên Sở".

Anh khoe: "Em đang phơi ao, chuẩn bị xuống giống cá, năm nay làm ăn khá hơn năm ngoái. Ở xã Quảng Tân bây giờ đã có nhiều thương binh, cựu chiến binh nuôi cá như em. Các bác trong Hội CCB xã giao nhiệm vụ cho chuyến đi này là phải tìm hiểu kỹ hơn, sâu hơn về kỹ thuật nuôi cá đẻ để lấy cá bột tại chỗ".

Tôi mừng cho anh, một người thương binh trong hàng vạn thương binh, cựu chiến binh, rời quân ngũ về quê hương "tuyên chiến" với đói nghèo. Ở mặt trận mới, anh và các đồng đội của anh tiếp tục là người chiến thắng. Anh cũng đã xây dựng được thương hiệu trong sản xuất, kinh doanh-dẫu bình dị thôi, nhưng ý nghĩa vô cùng.

VŨ ĐẠT

 


Xuất khẩu thủy sản sẽ gặp nhiều khó khăn

Nguồn tin: TT, 21/12/2006
Ngày cập nhật: 21/12/2006

 


Đồng Nai: cá bè chết hàng loạt

Nguồn tin: TT, 21/12/2006
Ngày cập nhật: 21/12/2006

Những ngày gần đây, cá nuôi bè ở khu vực hạ lưu sông Đồng Nai (phường Long Bình Tân, TP Biên Hòa, Đồng Nai) chết hàng loạt, gây thiệt hại nặng nề cho người dân.

Cá chết sau khi một chiếc tàu chở mật rỉ bị chìm trên sông Đồng Nai.

Cá chết do... mật mía?

Năm ngày sau khi tàu mật bị chìm, cá đã chết hàng loạt. “Nếu kéo dài thêm vài ngày, có lẽ số cá trong bè không còn nữa” - anh Trần Thanh Vinh (P.Thái Hòa, Long Bình Tân), chủ của ba bè cá rô phi, lo lắng nói. Anh Vinh cho biết sáng 15-12, khi đưa thức ăn xuống bè cho cá, anh giật mình khi thấy hàng trăm con cá rô phi trong bè nằm phơi bụng. Cứ nghĩ cá chết do thời tiết thay đổi, nhưng liên tục những ngày sau đó cá tiếp tục chết dù số lượng ít hơn. Cạnh đó, các bè cá của gia đình anh Nguyễn Hồng Hạnh bị thiệt hại nặng nhất, chỉ trong ngày đầu tiên số cá chết đã lên đến hơn 300kg.

Không riêng gì bè cá của anh Vinh và anh Hạnh, hàng trăm bè cá, chưa kể các hầm cá lóc nuôi dọc bờ sông tại khu vực này, cũng có tình trạng cá chết hàng loạt. Anh Trần Văn Viên cho biết loại cá lăng trong bè vốn sống ở tầng đáy, rất hiếm khi bị dịch bệnh, ngay cả nuôi ở những nơi có nguồn nước bề mặt bị ô nhiễm, nhưng mấy ngày gần đây cá cũng không chịu nổi và đã chết.

Theo một số chủ bè cá, nhiều khả năng cá bị ảnh hưởng do lượng mật rỉ mía lên tới hàng trăm tấn từ một chiếc tàu bị chìm tại khu vực thượng lưu sông Đồng Nai vào rạng sáng 14-12. Anh Nguyễn Văn Thiện - chủ ba bè cá -cho rằng có thể lượng mật rỉ này làm cá bị thiếu oxy rồi chết. Anh Thiện cũng cho biết kết quả kiểm tra bước đầu của các kỹ sư chuyên “điều trị” bệnh cá thì cá không có bất cứ biểu hiện bệnh nào. Nhiều chủ bè cá cũng cho rằng con cá lờ đờ là biểu hiện của tình trạng thiếu oxy trong nước, mà thủ phạm là nguồn mật rỉ hòa tan trong nước.

Vào khoảng 0 giờ ngày 14-12, một chiếc ghe chở 125 tấn mật rỉ mía đã va vào cầu cảng của Công ty Ajinomoto, đến buổi sáng cùng ngày ghe bị chìm hoàn toàn. Theo số liệu ban đầu, khoảng 100 lít dầu DO, chưa kể dầu mỡ bôi trơn và nhớt máy, cùng toàn bộ số mật rỉ đã tràn ra sông. Sở Tài nguyên - môi trường Đồng Nai đang theo dõi, đánh giá về thiệt hại kinh tế, thủy sinh... để có biện pháp xử lý.

Cá chết kêu ai?

Với bốn bè cá chép, rô phi và năm hầm cá lóc, gia đình anh Hạnh đã đổ vào đây hơn 250 triệu đồng. “Số cá này đã được thả nuôi hơn 100 ngày rồi, chỉ còn 15-20 ngày nữa là đến thời điểm thu hoạch, vậy mà...”, anh Hạnh than thở. Theo tính toán của anh Hạnh, nếu không xảy ra sự cố cá chết hàng loạt, gia đình anh sẽ thu hơn 500 triệu đồng. Tuy nhiên, những ngày gần đây anh Hạnh phải bán dần số cá lớn và khỏe mạnh trong các bè, với hi vọng thu hồi một phần vốn trước nguy cơ trắng tay nếu cá tiếp tục chết.

“Toàn là tiền vay mượn, nếu không cứu được đàn cá, đến nhà cũng phải bán mới có tiền trả nợ...” - anh Thiện lo lắng nói. Nỗi lo của anh Thiện cứ tăng dần khi số cá còn lại trong các bè và hầm cũng đang có dấu hiệu “chán ăn” hoặc ăn rất ít. Theo nhiều người dân, lượng thức ăn cho cá đã giảm mạnh trong những ngày gần đây, có bè cá đã giảm hơn một nửa. Một chủ bè cá cho biết trước đây số cá lóc trong hầm gia đình ông sử dụng hết 700kg mồi cá mỗi ngày, hiện nay đã giảm xuống còn 400kg. Theo chi hội cá bè khu phố Thái Hòa, Long Bình Tân, chỉ riêng địa bàn này có gần 160 bè cá, hầu hết đều bị cá chết hàng loạt. Thiệt hại do cá chết gây ra có thể lên đến hàng tỉ đồng nếu không có biện pháp xử lý kịp thời.

Nguy cơ ô nhiễm nguồn nước càng tăng lên khi nhiều chủ bè cá chưa biết xử lý số cá chết như thế nào. Đổ cá chết ra sông thì gây ô nhiễm nguồn nước, cũng không còn “chứng cứ” để xác định mức độ thiệt hại, nhưng giữ lại thì càng thêm lo vì mầm bệnh có thể lây cho số cá còn lại.

Hiện người dân đang sốt ruột chờ các biện pháp xử lý của Sở Tài nguyên - môi trường Đồng Nai. Một chủ bè cá cho biết sau khi nhận được thông báo của người dân, cơ quan này có cử cán bộ xuống lấy mẫu nước tại một số bè nhưng vẫn chưa thấy thông báo nguyên nhân cá chết. Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Lê Viết Hưng, giám đốc Sở Tài nguyên - môi trường Đồng Nai, cho biết cần phải có thời gian để kết luận cá chết hàng loạt do mật rỉ hay thời tiết thay đổi. Sau khi có kết quả, cơ quan này sẽ đề xuất biện pháp xử lý nếu cá chết là do ảnh hưởng của sự cố tàu chìm.

HẢI ĐĂNG

 


Kiên Giang: Triều cường gây thiệt hại trên 600ha sò huyết trị giá trên 15 tỉ đồng

Nguồn tin: LĐ, 21/12/2006
Ngày cập nhật: 21/12/2006

Tin từ Văn phòng UBND huyện An Minh ngày 20.12 cho biết: Do ảnh hưởng của hai đợt triều cường trước và sau bão số 9 làm nước dâng cao, tràn vào rừng phòng hộ ven biển, gây ra hiện tượng “sốc nước” sò huyết đang chuẩn bị thu hoạch.

Theo thống kê chưa đầy đủ, đến nay đã đối với có 622ha bị thiệt hại từ 60 - 80%, thậm chí là mất trắng, ước tổng thiệt hại trên 15 tỉ đồng. Trong đó chịu ảnh hưởng nặng nhất là địa bàn ấp Bần A, xã Thuận Hoà với 354ha, trị giá khoảng 9 tỉ đồng.

L.T

 


Mùa săn tôm hùm giống

Nguồn tin: VNN, 20/12/2006
Ngày cập nhật: 21/12/2006

Tôm hùm hầu như không thể sinh sản trong môi trường nhân tạo được. Cả làng Cát Lợi tham gia đánh bắt tôm hùm giống tự nhiên từ đầm Nha Phu và đổi đời từ lộc trời cho.

Thợ săn vo

Đang chạy xe từ thành phố Nha Trang vượt qua khỏi đèo Rù Rì về phía Bắc, giữa cái nắng buổi trưa chói chang, ghé qua quán cóc ngay ven quốc lộ 1, tình cờ tôi gặp 3 người đàn ông mặc quần áo dài kín người, giơ mấy chai nước suối săm soi . Bà chủ quán bỗng hỏi: “Được mấy con?” Một người chặc lưỡi: “Hẻo lắm, có 2 con à!”.

Hoá ra, đó là những thợ săn tôm hùm giống của làng Cát Lợi (xã Vĩnh Lương, Nha Trang). Nhìn đến hoa cả mắt mới thấy 2 con nhỏ, màu trong vắt trong chai nước mà nếu như không có cặp râu dài ngoằng đặc trưng của loài tôm hùm đang ngoe nguẩy thì tôi tin chắc rằng đó là…tép.

Nơi săn tôm giống ở ngay bãi biển đối diện bên đường. Cả bãi lổn nhổn những tảng đá lớn nhỏ, lập lờ dưới nước. Đồ lặn của 3 người thợ vỏn vẹn độc một chiếc kính và mấy kẹp chì. Họ đi cả dép, cùng với quần áo dài nhằm tránh bị hàu cào xước người lúc lặn. Tất cả công việc săn tôm giống còn lại trông cậy vào đôi mắt tinh tường và đôi tay khéo léo của thợ. Dưới độ sâu chừng 2m, họ phải tìm và tóm được những cặp râu tôm nhỏ xíu thập thò trong kẽ đá. Chai nước suối được thả nổi trên mặt biển, săn được con nào thợ lại nổi lên, nhét vào. Thêm nữa, chẳng phải lúc nào muốn lặn bắt cũng được, thợ săn phải nhằm lúc nước trong. Nhiều khi, khoảng “thời gian vàng” trong ngày này chỉ vỏn vẹn có 1- 2 giờ.

Làng Cát Lợi: đại cát - đại lợi

“Bãi biển” săn tôm hùm giống trên được gọi là đầm Nha Phu. Làng Cát Lợi ở cách đó không xa, nằm ôm sát mép đầm. Nghề săn tôm hùm giống bắt đầu hình thành ở làng vào năm 1993, khi mà lũ tôm con từ biển bỗng tràn vào đầm Nha Phu. Đầm không quá sâu, lại có rặng san hô ngầm là nơi trú ngụ ưa thích của loài tôm. Ngoài ra, đầm còn có nước bạc (màu đục đục), tôm con có thể vào kiếm mồi, đồng thời dễ lẩn khuất trốn tránh kẻ thù. Nha Phu đúng là “biển bạc” theo nghĩa đen, hàng năm cứ từ tháng 11 năm trước, kéo dài đến tháng 4 sang năm, lũ tôm con lại xuất hiện.

Tôm hùm không đẻ nhân tạo được, lại khá hiếm vùng biển chúng chịu xuất hiện, vì thế tôm giống rất có giá. Tùy theo loại, giá giao động từ 170-210 ngàn đồng/con (giá người buôn bán ra cho dân nuôi tôm thịt). Sau hơn chục năm, giờ cả làng Cát Lợi có 312 hộ (1.529 khẩu) thì có tới hơn 80% đi theo nghề, trở thành một trong những địa điểm chính buôn bán tôm hùm giống lớn nhất, kể từ Quãng Ngãi tới Phan Rang.

Tôm giống bắt lên từ đầm, có người thu mua ngay tại làng. Tôm non vừa bắt lên giá chỉ trên dưới 100 ngàn đồng/con, sau đó được dưỡng thêm khoảng 2 tháng mới đem bán cho dân nuôi tôm thịt. Cả làng có 5 đầu mối thu gom tôm, đó là anh Trần Hoà, anh Nguyễn Văn Thi, chị Mai Huệ, anh Nguyễn Dũng và anh Thanh Mỹ. Đây cũng là những hộ có kinh tế khá nhất làng. Theo tiết lộ của vị trưởng thôn thì không hiểu tại sao, dân nuôi tôm rất chú ý chuyện “hên- xui”, điều ấy lý giải vì sao trong 5 người thì chỉ có một đàn bà. Đầu mùa, giá tôm bao giờ cũng cao do có nhiệt độ phù hợp và đảm bảo thời điểm xuất tôm thương phẩm ra đạt mức giá cao, ngược lại cuối mùa giá tôm giống hạ với những rủi ro dịch bệnh nhiều hơn.

Tại nhà anh Thi, chỉ có vợ- chị Thu Lan ở nhà. Chỗ chứa tôm giống là những chiếc bể xi măng nhỏ được lát gạch men trắng, có sủi ôxy. Lũ tôm sắp xuất cho dân nuôi nên được phân loại ra trong từng chiếc lồng bàn. Chị Lan vồn vã giới thiệu từng loại tôm, thoại nhìn, với người "ngoại đạo", thật quá khó để phân biệt đặc điểm giữa 2 con tôm bé tí xíu, nào vạch ngang vạch dọc, nào râu đốm đen, đốm trắng, đốm khoang… Mà chỉ chừng đó thôi cũng đủ quyết định con nào lớn nhanh, con nào hay bệnh, lớn chậm; con nào 2 năm sau được bán với giá 700 ngàn đồng/kg, con nào hẻo hơn. Nhìn những con tôm nằm chung một lồng bàn, những tưởng một chú to khoẻ, ra dáng nhất là đắt thì bà chủ lại nhấc ra một con chỉ to hơn tăm nhang, thân mình trong suốt hét giá 200 ngàn đồng, thuộc loại đầu bảng- thật đúng chỉ có dân làm nghề mới có thể phân biệt được chuyện này.

Dùng san hô nhử...tôm

Mới đầu mùa nên cả Cát Lợi như biến thành một công trường. Ven các bờ tường, nhà nào cũng chất hàng đống san hô và cọc gỗ cừ. Thỉnh thoảng lại gặp một người làng đang hì hụi ngồi khoan lỗ lên chúng, bụi bay trắng xoá. Đây là kiểu săn tôm chủ đạo trong làng.

Khác với kiểu lặn vo cổ truyền bên trên, chỉ dành cho người nghèo, kiểu bắt tôm bằng san hô đem lại hiệu quả cao hơn. Vào mùa bão hàng năm, sóng biển đánh tấp vào bờ rất nhiều đá san hô, dân làng chỉ việc gom lên bờ dự trữ. Tới mùa tôm giống, họ mang ra khoan những lỗ to và sâu chừng một ngón tay, trên một cục đá san hô có khi tới hàng chục lỗ. Tiếp đến hàng ngàn cục đá san hô được cột dây treo trên hàng trăm trụ gỗ cừ, tạo thành một chiếc dàn bẫy ngâm lơ lửng. Độ sâu bao nhiêu không quan trọng, miễn cách đáy chừng 4 tấc- nửa mét vì ở khoảng này nhiều bùn, tôm không vào. Đêm, theo con nước, tôm con đi kiếm ăn, gặp những chiếc tổ nhân tạo bèn rúc vào. Hàng sáng chủ dàn chỉ việc đi kiểm tra, nhấc lên.

Ngoài lặn vo, thợ săn tôm hùm giống Cát Lợi còn lặn bình hơi. Loại bình hơi này đặt trên thuyền, có người trông chừng. Thợ lặn ngậm đầu vòi dài hàng chục mét, mò mẫm bắt tôm dưới biển. Thợ di chuyển dưới đáy đến đâu, phía trên thuyền dòng theo đến đó. Tôm lặn bắt bao giờ cũng có giá cao hơn do còn nguyên vẹn, không bị trầy xước như bắt bằng lưới.

Nghe qua thì vậy, thực tình chỉ riêng việc làm sao để tôm chịu chui vào lỗ khoan làm tổ cũng không đơn giản. Đá san hô mới khoan sẽ không dụ được tôm con, chúng phải được phơi nắng dãi mưa hàng tháng trời để sinh ra rong rêu mới đạt. Nhiều người dân Cát Lợi thường đem đá ủ ngay dưới gốc dừa để làm việc này.

Còn một kiểu săn tôm hùm giống khác: dùng mành lưới. Kiểu này chuyên dùng đánh bắt vào ban đêm. Thợ dùng bóng đèn cao áp hoặc 4-5 bóng đèn tuýp chụm lại để nhử tôm dính lưới. Kiểu này công nghiệp nhất nhưng có nhược điểm, tôm con dễ bị ảnh hưởng bởi ánh sáng mạnh và bị trầy xước trong quá trình kéo lưới lên ghe.

Nuôi tôm thịt: đánh bạc với giời

Làng Cát Lợi phần lớn tập trung cung cấp tôm giống, còn nuôi tôm phải kể đến làng Sũng Ké (xã đảo Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh), tỉ phú tôm ở Sũng Ké không thiếu, đêm khu vực nuôi tôm thịt của làng sáng đèn như thành phố nổi. Tuy nhiên, làng Cát Lợi cũng có người “làm tất ăn cả” từ săn con giống tới nuôi tôm thịt như chính hộ anh Nguyễn Dũng (trên). Muốn có mô hình khép kín kiểu này, các hộ phải đầu tư khoảng 200-300 triệu đồng tiền vốn. Gồm tiền bè khoảng 80 triệu, còn lại là tiền lồng, ghe thuyền và con giống.

Tôm con khi lớn hơn đầu đũa bắt đầu được cho vào lồng nuôi. Dọc đường làng tôi gặp nhiều người đang cặm cụi ngồi sửa những chiếc lồng tôm. Loại lồng này có 2 lớp, lớp bên ngoài ngăn chặn các loại cua, ghẹ phá, lớp bên trong giữ tôm được quây bằng loại lưới ru của Thái Lan. Mỗi chiếc lồng rộng khoảng 1m, dài 1,4m có chi phí tới cả triệu đồng. Một lồng thả chừng 100 tôm giống, khi chúng lớn bằng ngón tay cái thì để lại khoảng 70 con, bằng ngón chân cái thì chỉ còn 50 con/ lồng và khi bằng nửa cổ tay thì một lồng chỉ nuôi được 30 con.

Loài tôm trưởng thành bằng cách lột vỏ. Ban đầu, 1 tuần nước (một tháng) chúng lột tới 2-3 lần, sau thưa dần. Trước tiên con tôm lột thân, tính từ khớp nối cổ xuống dưới đuôi, rồi sau đó búng mạnh lột luôn cả vỏ đầu. Vì thế dân nuôi tôm thịt ngán nhất bệnh tôm không lột vỏ được, điều đó đồng nghĩa với việc con tôm vẫn khoẻ mạnh, ăn nhiều nhưng không lớn. Yếu tố môi trường nuôi cũng không thể bỏ qua: nước biển sạch, tôm lớn như thổi; biển ô nhiễm, có khi nuôi con giống đến 1,5-2 năm vẫn chưa xuất được.

Vì thế dân nuôi tôm thịt thường ví nghề của mình là “đánh bạc với giời”, khá bấp bênh, năm thắng năm thua. Nắm vững kỹ thuật, mát tay, kinh nghiệm… chừng đó vẫn chưa đủ nếu một ngày rủi ro mặt biển khu vực nuôi tôm không còn trong xanh.

Đỗ Minh

 


Bình Định: Nhơn Hải mở hướng nuôi tôm hùm lồng

Nguồn tin: NNVN, 15/12/2006
Ngày cập nhật: 21/12/2006

Bên cạnh nghề đánh bắt, khai thác tôm hùm giống, nghề nuôi tôm hùm lồng ở xã bán đảo Nhơn Hải (TP Quy Nhơn, Bình Định) cũng phát triển khá mạnh.Tuy chỉ nuôi tôm hùm giống khoảng 3 tháng rồi bán cho người nuôi tôm ở Phú Yên, Khánh Hòa tiếp tục nuôi thương phẩm, song nghề này cũng đã mang lại hiệu quả khá cao. Dựa vào đặc điểm vùng biển có dòng chảy thông thoáng, độ mặn ổn định, phù hợp với sự sinh trưởng của tôm hùm, địa phương đã đẩy mạnh phát triển nuôi tôm hùm lồng với 348 hộ nuôi, khoảng 118 bè đã được đóng mới. Mùa nuôi tôm đầu năm 2006, ngư dân trong xã đã thả nuôi trên 220.000 con tôm hùm, giá trị thu nhập gần 30 tỉ đồng. Còn vào vụ nuôi năm nay, dự kiến sẽ thả nuôi trên 300.000 con. Để ngư dân nắm bắt kỹ thuật nuôi tôm, UBND xã đã phối hợp với Trung tâm Khuyến ngư tỉnh mở nhiều lớp tập huấn nuôi tôm hùm lồng nên kết quả hàng năm đều đạt khá tốt. Anh Nguyễn Kim Long ở thôn Hải Đông cho biết “Gia đình tôi là một trong những hộ nuôi tôm hùm đầu tiên của xã, bắt đầu nuôi tôm từ năm 2001, bình quân thu lãi trên 50 triệu đồng/năm”.

Theo những ngư dân ở Nhơn Hải, vốn đầu tư nuôi tôm hùm lồng không cao lắm, khoảng chừng 20 triệu đồng, trong đó chi phí cho một chiếc bè nhỏ 6,5mx8m là 10 triệu đồng, số còn lại là mua lồng và giống nuôi. Nếu hộ không đủ vốn thì thành lập tổ hợp, vài ba hộ nuôi chung một bè tôm. Những gia đình có vốn mà thiếu lao động thì có thể thuê người làm. Hầu hết các hộ nuôi tôm hùm lồng ở địa phương đều có mức lãi từ 30 - 50 triệu đồng/năm. Việc phát triển nuôi tôm hùm ở Nhơn Hải đã mở ra một triển vọng mới, góp phần cải thiện đời sống của người dân xã bán đảo này.

NGUYỄN HÂN

 


Thừa Thiên - Huế: Vỡ nợ vì... cán bộ ngân hàng

Nguồn tin: SGGP, 20/12/2006
Ngày cập nhật: 21/12/2006


Tuy Phong (Bình Thuận): Nghề nuôi tôm đang phục hồi tốt

Nguồn tin: Bình Thuận, 19/12/2006
Ngày cập nhật: 20/12/2006

Phong trào nuôi tôm có hiệu quả ở giai đoạn đầu, nhiều người đã giàu lên. Thế nhưng sau đó nghề này lâm vào cảnh khó khăn do bệnh dịch, thua lỗ thậm chí nhiều người phá sản, nợ nần. Những tưởng, nghề nuôi tôm ở Tuy Phong sẽ không đứng được, song từ những bài học đắt giá đó, nghề nuôi tôm ở đây đang có chiều hướng phục hồi.

Tổng diện tích nuôi tôm toàn huyện là 406ha, trong đó diện tích nuôi từ đầu năm đến nay trên 100ha, sản lượng thu hoạch được 370 tấn, đạt 25% kế hoạch. Nhưng so với cùng kỳ năm trước thì sản lượng gần gấp đôi. Riêng một số hộ nuôi tôm thẻ chân trắng bước đầu có hiệu quả. Đó chính là những tín hiệu tích cực đối với việc nuôi tôm thịt ở Tuy Phong. Đối với sản xuất, tiêu thụ tôm giống, dự đoán sản lượng tôm giống năm nay chỉ đạt 3,7 tỷ post, đạt 92,5% kế hoạch năm (4 tỷ post), nhưng vượt 24% so với năm trước. Một số công ty lớn thu sản xuất, tiêu thụ tôm giống có hiệu quả. Khẳng định thương hiệu sản xuất tôm giống có uy tín trên thị trường cả nước. Tình hình nuôi tôm hùm lồng tại khu vực Vĩnh Tân có xu hướng phát triển, đến nay đã có 56 bè nuôi và 14 lồng chìm. Đã công khai quy hoạch vùng nuôi tôm hùm và triển khai giao, cho thuê mặt nước, có 18 hộ đăng ký. Giá tôm hùm năm nay ở mức cao 700.000đ/kg, nên người nuôi có thu nhập khá. Do ảnh hưởng bão, những ngày thông báo bão giá xuống chỉ còn 150.000 – 200.000đ/kg. Và hậu quả của cơn bão đã làm thiệt hại cho 66 hộ nuôi khoảng 2 tỷ đồng.

Trong xu thế phục hồi, ổn định và phát triển, thiết nghĩ nghề nuôi tôm Tuy Phong trước hết cần ổn định diện tích nuôi tôm thịt đúng theo quy hoạch, thực hiện tốt quy chế quản lý vùng nuôi. Phối hợp với tỉnh đẩy nhanh việc đầu tư của các doanh nghiệp nuôi tôm giống tại khu nuôi tôm Vũng Mũ gắn với nâng cao chất lượng con giống. Phát triển nuôi tôm hùm theo quy hoạch, chú ý bảo đảm môi trường để phát triển con tôm nuôi tốt.

Đông Bình

 


Công ty Agifish: Xuất khẩu 20 ngàn tấn cá tra, basa

Nguồn tin: AG, 20/12/2006
Ngày cập nhật: 20/12/2006

 


Cà Mau: nuôi cá lóc ở vùng nước mặn

Nguồn tin: TT, 20/12/2006
Ngày cập nhật: 20/12/2006

Thời gian gần đây, một số hộ dân ven biển huyện Phú Tân, Cà Mau đã bắt đầu nuôi cá nước ngọt trên vùng đất mặn ven biển.

Việc nuôi cá lóc trên vùng đất mặn ở ven biển Phú Tân rất khả thi vì nguồn thức ăn cho cá lóc ở đây rất rẻ, cá vụn - phế phẩm của nghề khai thác biển - chỉ hơn 1.000 đồng/kg. Hồ nuôi chỉ cần đào rộng trên 200m2. Nếu nền hồ nuôi thấp hơn mực nước biển thì lót cao su tránh thẩm thấu nước mặn. Nếu đáy hồ nuôi cao hơn mực nước biển thì chỉ cần xử lý nền để giữ nước. Nước được bơm từ cây nước khoan, sạch và hoàn toàn chủ động việc điều hòa.

PHẠM ANH HOAN


Khánh Hòa: Hạ sản lượng khai thác hải sản để phát triển bền vững

Nguồn tin: Khánh Hoà, 19/12/2006
Ngày cập nhật: 20/12/2006

 


Bình Đại “khát” tôm giống

Nguồn tin: Bến Tre, 19/12/2006
Ngày cập nhật: 19/12/2006

Nằm ven sông Tiền và sông Ba Lai, huyện Bình Đại có nhiều thuận lợi phát triển thủy sản nước ngọt cũng như mặn. Năm nay, hầu hết người nuôi thủy sản trong huyện đều được mùa, cộng thêm được giá, bà con rất phấn khởi, hăng say chuẩn bị bước vào mùa sản xuất mới. Song, cơn bão số 9 đến đã gây thiệt hại khá nặng nề, ảnh hưởng lớn cho vụ nuôi mới của địa phương này. Hiện công tác khắc phục hậu quả sau thiên tai, đồng thời chuẩn bị bước vào vụ sản xuất mới đang được chính quyền và người dân nơi đây gấp rút triển khai…

Với gần 16 ngàn héc ta, huyện Bình Đại là địa phương đứng thứ hai của tỉnh về diện tích nuôi thủy sản. Nhờ triển khai đồng bộ, kịp thời các biện pháp kỹ thuật, nên trong vụ nuôi tôm vừa qua, năng suất bình quân đạt hơn 4 tấn rưỡi/ha, cao hơn những năm trước, cộng với giá tôm lên cao đã giúp cho nhiều hộ dân trong huyện trở nên khấm khá, người nuôi thủy sản rất phấn khởi. Một điều đáng mừng đối với những hộ dân nuôi trồng thủy sản nơi đây nữa là: Trước khi bão số 9 ập đến, đa số các hộ nuôi thuỷ sản ở đây đã thu hoạch xong, do vậy, mức độ thiệt hại là không đáng kể. Tuy nhiên, ngoài 14 tàu đánh cá loại nhỏ bị hư hỏng, toàn bộ cơ sở vật chất của 80 cơ sở sản xuất giống thủy sản đều bị thiệt hại, ngưng trệ hoàn toàn việc sản xuất, ảnh hưởng lớn đến mùa nuôi mới. Bên cạnh đó, các ao, vuông nuôi đều bị cây, lá đổ xuống, gây ô nhiễm nguồn nước, người nuôi thủy sản sẽ gặp khó khăn trong việc cải tạo lại ao nuôi.

Ngay sau khi bão tan, đi đôi với việc triển khai các biện pháp giúp đỡ nhân dân, cấp ủy, chính quyền huyện Bình Đại đã giúp các cơ sở sản xuất giống tháo gỡ khó khăn. Trước mắt, chỉ đạo ngành chức năng sửa chữa, khôi phục hệ thống điện, nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Tiếp đó là hướng dẫn các cơ sở phương án vay vốn sửa chữa trang thiết bị, đồng thời vận động bà con cải tạo ao vuông, chuẩn bị cho mùa sản xuất mới. Về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Tu, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Đại cho biết: “Hiện nay, chúng tôi chi viện các nguồn điện để các trại sản xuất giống, chỉ đạo các hộ cải tạo ao nuôi. Chúng tôi đề nghị Ngân hàng khoanh nợ, tiếp tục cho vay phát triển”.

Những ngày qua, cùng với gần 60 đoàn, đơn vị gần xa hỗ trợ, giúp đỡ, tại địa phương, phong trào “Lá lành, đùm lá rách” đang ngày càng có sức lan tỏa, thể hiện đạo lý ngàn đời về tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Đối với các cơ sở sản xuất con giống dù bị thiệt hại, nhưng cũng đã có những hoạt động cứu trợ đầy tình nghĩa đối với những hộ gặp khó khăn. Nhiều cơ cơ sở còn trực tiếp đi vận động nhân dân cải tạo ao nuôi, đồng thời có hướng bán chịu con giống cho bà con. Điển hình như Công ty TNHH Tư vấn Thủy sản Thuận Huy, xã Thừa Đức là một điển hình. Trong cơn bão số 9, Công ty cũng bị thiệt hại về tài sản trị giá hàng trăm triệu đồng, nhưng ngay sau khi bão tan, công ty đã chi hơn 40 triệu đồng mua mì gói, gạo tặng bà con bị nạn, đồng thời đang tập trung sửa chữa các thiết bị để sản xuất kịp thời con giống cung cấp cho bà con. Anh Nguyễn Trọng Huy, Giám đốc công ty bày tỏ với chúng tôi: “Đó là khắc phục trước mắt. Sau này, chúng tôi sẽ tặng 5.000 cuốn tập cho học sinh. Đối với hộ sản xuất, nếu có nhu cầu bắt con giống sản xuất, công ty cũng sẽ hỗ trợ thỏa đáng để giúp bà con ổn định sản xuất, nâng cao thu nhập cho cuộc sống tốt hơn”.

Hay như cơ sở sản xuất giống tôm sú ở ấp Thới Hòa, xã Thới Thuận thì lại có hình thức khác để giúp đỡ cho bà con. Cơ sở đã cử người xuống tư vấn cho bà con nhanh chóng sửa chữa trại để sản xuất con giống đạt chất lượng, kịp thời cung cấp cho vụ sản xuất, giúp bà con nuôi tôm đạt năng suất cao trong vụ nuôi năm nay.

Theo dự báo của ngành chức năng huyện, nhanh nhất, cũng phải đến cuối tháng 12, các cơ sở sản xuất giống thủy sản mới có thể hoạt động trở lại. Như vậy, việc thả nuôi của bà con sẽ chậm hơn so với kế họach khoảng 1 tháng rưỡi. Theo kế hoạch của tỉnh, vụ nuôi thủy sản đầu năm 2007, huyện Bình Đại sẽ xuống giống khoảng 16.200 ha, trong đó, hơn 3/4 là thả nuôi tôm sú. Những ngày này, cùng với việc tập trung khắc phục hậu quả thiên tai, dồn sức lo con giống để sản xuất kịp thời vụ, mối quan tâm hàng đầu của địa phương còn phải lo hướng dẫn người nuôi áp dụng đúng qui trình kỹ thuật, đạt năng suất cao và đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Về những vấn đề này, ông Võ Minh Ngọc, Phó phòng thủy sản huyện Bình Đại cho biết: “Chúng tôi liên kết các tỉnh miền Trung tạo con giống cung cấp cho bà con. Để hạn chế rủi ro trong khu nuôi, chúng tôi khuyến cáo bà con áp dụng qui trình kỹ thuật, với lại không sử dụng hóa chất, nuôi tôm sạch đáp ứng tiêu chuẩn hội nhập”.

Mặc dù đang đứng trước bộn bề khó khăn, nhưng với kinh nghiệm và thành công của những vụ nuôi tôm trước đây, đồng thời với quyết tâm khắc phục hậu qủa thiên tai, sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng, chắc chắn huyện Bình Đại sẽ vượt qua khó khăn, tiếp tục giành thắng lợi trong vụ mùa mới./.

Chí Dân

 


Bến Tre: 50.000 USD nhân rộng mô hình trồng cỏ nuôi bò- nuôi trùn quế - nuôi cá

Nguồn tin: CT, 19/12/2006
Ngày cập nhật: 19/12/2006

Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) vừa hỗ trợ 50.000 USD giúp nông dân xã An Hiệp, huyện Ba Tri (Bến Tre) nhân rộng mô hình sản xuất khép kín: trồng cỏ nuôi bò - nuôi trùn quế - nuôi cá. Đây là mô hình được Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Bến Tre cùng Phòng Kinh tế huyện Ba Tri thực hiện đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, do thiếu vốn nên việc nhân rộng mô hình này thời gian qua còn hạn chế.

Với khoản tiền được tổ chức UNDP hỗ trợ, xã An Hiệp dự kiến sẽ đầu tư cho 20 hộ thực hiện mô hình sản xuất khép kín: trồng cỏ nuôi bò - dùng phân bò nuôi trùn quế - dùng trùn quế nuôi cá chình và cá bống tượng.

CAO DƯƠNG

 


Nguy cơ khủng hoảng thừa cá tra nguyên liệu vào giữa năm 2007

Nguồn tin: CT, 19/12/2006
Ngày cập nhật: 19/12/2006

 


Trở thành “đại gia” khi bị thu hồi đất

Nguồn tin: TP, 18/12/2006
Ngày cập nhật: 19/12/2006

Kinh nghiệm vươn lên của anh Đàm Văn Kha – người được bà con nông dân trong vùng gọi là đại gia nuôi ếch, cá, dê rất đáng được tham khảo trong bối cảnh đất nông nghiệp bị thu hồi ngày càng nhiều do quá trình CNH-HĐH.

Anh Đàm Văn Kha ở tổ 4, phường Hòa Minh (quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng).

Sau khi đất sản xuất nông nghiệp của gia đình trúng vào các dự án quy hoạch để phát triển đô thị, anh Kha đã cất công đi tham quan học hỏi nhiều nơi, rồi bắt tay vào nghề nuôi ếch, nuôi cá và nuôi dê kể từ năm 2003.

Đầu tiên anh lên nghiên cứu địa hình và chọn một địa điểm vừa ý ở thôn Trung Nghĩa thuộc xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang (TP Đà Nẵng). Anh dốc vốn xây dựng chuồng trại khá bề thế và đảm bảo sử dụng lâu dài.

Tận dụng và cải tạo một hồ nước tự nhiên rộng gần 1.000 m2, anh thả hàng chục chiếc lồng để nuôi ếch. Lồng làm bằng lưới, mỗi chiếc rộng khoảng 10m2, đặt là là trên mặt nước. Mỗi lồng anh thả 60 ếch con – loại ếch giống Thái Lan, ăn khỏe, chóng lớn và thịt rất ngon.

Nuôi ếch chỉ cho ăn bột có bán sẵn trên thị trường, nhưng quan trọng là phải thực hiện đúng qui trình kỹ thuật và các yêu cầu về phòng chống dịch bệnh. Tuy ếch ở dưới nước, nhưng cả ngày phải thường xuyên dùng vòi tưới ướt chung quanh lồng để giữ độ ẩm.

Phòng chống dịch phải đúng theo tài liệu hướng dẫn và theo anh Kha thì ếch thường bị các bệnh đỏ mắt, quẹo cổ, lơ ăn... Chữa trị bệnh cho ếch chủ yếu bằng cách trộn các loại thuốc vào bột thức ăn, nhưng phải chú ý pha trộn đúng liều lượng mới có công dụng...

Vừa làm, vừa tích lũy, mở rộng diện tích và nuôi thành nhiều lứa lớn nhỏ khác nhau, nên anh Kha thường xuyên có ếch thịt và ếch giống để bán. Ếch thịt hiện có giá 32.000 đồng/kg, còn ếch con dưới một tháng tuổi, giá bán từ 1.000-1.200 đồng/con.

Trên mặt hồ thì nuôi ếch, còn dưới nước anh Kha nuôi cá trê lai và cách đó không xa là trại nuôi dê. Giống dê anh mua từ Gia Lai, dễ thích nghi với vùng trung du, miền núi nên phát triển khá tốt. Dê chỉ ăn các loại lá cây cỏ mà hoàn toàn không tốn chi phí thức ăn.

Mỗi năm, dê cái đẻ hai lần, mỗi lần đẻ hai con (trừ lần đầu tiên). Dê con nuôi nửa năm đã trở thành dê thịt (nặng khoảng 35-40 kg). Dê thịt bán nguyên con, giá tại chuồng từ 30-33 ngàn đồng/kg và có bao nhiêu cũng tiêu thụ hết.

Từ người nông dân nằm trong địa bàn giải tỏa, không còn đất sản xuất, trở thành ông chủ một trang trại chăn nuôi tổng hợp, đã là một thành công lớn, nhưng anh Kha không dừng lại ở đó.

Anh đã lần lượt đầu tư thành lập thêm hai cơ sở nuôi ếch: một tại thôn an An Ngãi Đông, xã Hòa Sơn và một ngay trong khuôn viên gia đình anh ở phường Hòa Minh.

Vừa nuôi ếch, nuôi cá và nuôi dê, anh Kha có thu nhập cao và tạo việc làm thường xuyên cho 5 lao động. Nhưng điều quan trọng hơn là bất kỳ ai muốn tìm hiểu về kỹ thuật chăn nuôi đều được anh tận tình hướng dẫn.

Trao đổi với chúng tôi, anh Kha cho biết, trong những năm tới anh sẽ từng bước phát triển quy mô chăn nuôi và nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm hình thành một thương hiệu riêng trên thị trường, trước hết là đối với ếch thịt và ếch giống.

Lê Văn Thơm

 


Thêm quyết định về kiểm tra kháng sinh cấm

Nguồn tin: TT, 18/12/2006
Ngày cập nhật: 18/12/2006

 


Anh Hoa nuôi cá làm giàu

Nguồn tin: BCT, 15/12/2006
Ngày cập nhật: 18/12/2006

Bây giờ nhìn vào cơ ngơi trị giá bạc tỉ của anh Nguyễn Tất Hoa (Tư Hoa), hội viên Hội Cựu chiến binh ở khu vực 7, phường Châu Văn Liêm (quận Ô Môn) có ai nghĩ rằng 15 năm trước anh chỉ có hai bàn tay trắng, nghèo rớt mồng tơi. Nhờ chí thú làm ăn, anh đã “phất” lên như “diều gặp gió”. Nhiều năm qua, trong giới nuôi cá thịt ở TP Cần Thơ và một số tỉnh lân cận ai cũng biết anh, nhiều người còn tôn vinh anh là “đại gia” cá giống.

Từ hai bàn tay trắng

Làm việc với chúng tôi, đồng chí Nguyễn Lương Phiên, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh quận Ô Môn, khẳng định: “Mấy năm qua, quận Ô Môn có nhiều hội viên cựu chiến binh năng động trong làm ăn, nhiều hội viên thoát nghèo, vươn lên có cuộc sống giàu có. Trong đó, tiêu biểu nhất là anh Tư Hoa, một cựu chiến binh đi lên làm giàu từ hai bàn tay trắng. Đây cũng là hội viên cựu chiến binh duy nhất được Ban Thường vụ Hội Cựu chiến binh quận chọn đi báo cáo điển hình cựu chiến binh sản xuất, kinh doanh giỏi tại Trung ương Hội sắp tới”.

Tôi đến, gặp lúc anh đang ngồi trên chiếc xuồng cho cá ăn giữa ao rộng khoảng bốn đến năm công tầm lớn sau nhà. Thấy tôi, anh vội đứng dậy nói vọng vào: “Nhà báo cứ tự nhiên ngồi uống nước, cho cá ăn xong tui vô liền”. Khác với tưởng tượng của tôi về một tỉ phú nuôi cá, Tư Hoa năm nay 49 tuổi, có dáng người nhỏ nhắn, ria mép rậm, nước da bánh mật, giọng nói trầm lắng, ăn mặc giản dị như một nông dân thứ thiệt… Ngồi trong ngôi nhà tường khang trang, nền lót gạch men mát lạnh, nâng ly trà lên hớp một ngụm, nhìn ra Quốc lộ 91, anh Tư Hoa nhẹ giọng kể cho tôi nghe chuyện vượt khó, vươn lên làm giàu của mình.

Anh Tư Hoa quê ở xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa (tỉnh Thanh Hóa). Anh kể: “Năm 1976, xung phong lên đường nhập ngũ, tui cứ nghĩ tham gia quân ngũ vài năm, hoàn thành rồi về quê cưới vợ, ai dè “bị” điều vào tuốt tận trong này làm lính Vùng 5 Hải quân 11 năm trời”. “Làm lính đảo lâu vậy, cơ duyên nào anh cưới được vợ cùng quê?” – Tôi hỏi vui. Tư Hoa cười khà: “Năm 1980, trong một lần nghỉ phép về quê thăm gia đình, tui đã “bị” lọt vào “mắt xanh” vợ tui. Thấy đây là cơ hội hiếm nên tui “tăng tốc” tìm hiểu rồi cưới “liền tay”. Chị Lê Thị Huê, ngồi cạnh bên tiếp lời chồng: “Hồi đó cực khổ lắm chú ơi. Cưới xong mấy ngày, ổng đi một hơi bốn năm sau mới về đem tui vô, rồi ổng xin cho tui làm ở bệnh viện tỉnh Minh Hải. Lo xong việc ổng lại tiếp tục ra đảo công tác cho đến mãi năm tám tám (1988-PV) mới ra quân”. Nhìn vợ trách yêu mình, Tư Hoa cười hiền: “Thực ra năm đầu mới làm lính đảo suốt ngày bị tù túng tui buồn chán lắm, sau ở riết rồi mê đảo luôn. Nhưng là người đàn ông trong gia đình tui không thể để vợ con không nơi nương tựa. Vì thế, tui quyết định ra quân về theo chế độ một lần”. Ra quân anh xin vào làm cán bộ hành chính tại Công ty Vận tải thủy tỉnh Minh Hải. Những tưởng từ đây sẽ được gần vợ con, nhưng rồi công ty làm ăn thua lỗ, đồng lương “chết đói” anh lại xin nghỉ việc. Đầu năm 1989 anh thu xếp hành lý một mình lặn lội lên Cần Thơ tìm cách gầy dựng cơ nghiệp.

Tư Hoa nhớ lại: “Lên tìm việc tại Cần Thơ, tình cờ tui gặp chuyên gia người Anh sang công tác ở Việt Nam. Qua nhiều lần tới lui, biết hoàn cảnh của tui, ông này chỉ cho tui “chiêu” làm ăn “độc nhất vô nhị” mà hồi nào tới giờ ở Cần Thơ chưa ai biết - nghề tái chế nhớt thải”. Sau khi học hỏi được kỹ thuật, Tư Hoa bàn với anh bạn thời “nối khố” đang làm việc tại xưởng X55 hùn vốn thuê đất và thuê công nhân lập xưởng. Nhớ lại chuyện tái chế dầu nhớt, Tư Hoa trở nên hào hứng kể: “Mấy năm đó, ban ngày tui và mấy công nhân mỗi người cứ hai cái thùng nhựa buộc sau xe đạp cà tàng đi vào các nhà máy, cơ sở sửa chữa xe máy gom dầu thải, tối về anh em tập trung ở xưởng đốt củi để tái chế. Mặc dù làm nghề này rất lao lực nhưng thu nhập cao nên ai cũng ráng làm, quần quật tối ngày nhưng chẳng thấy mệt là gì”. Sau thời gian làm nghề tái chế nhớt, nhờ cần cù lao động, tiêu xài chắt chiu, dành dụm được ít vốn, Tư Hoa bắt đầu tính chuyện mua đất để đưa vợ con về Cần Thơ sinh sống. Nghĩ vậy, năm 1992, gom được 6 cây vàng, anh lên huyện Ô Môn mua 6,7 công đất cạnh Quốc lộ 91 (đối diện với đường vào Viện Lúa ĐBSCL). Có đất, anh nhường cơ sở tái chế dầu cho anh em, vay 700 ngàn đồng dựng căn chòi lá, ngày qua ngày dành hết công sức cùng vợ con cải tạo lại mảnh đất để sản xuất.

Trở thành “đại gia” cá giống

Châm thêm nước vào bình trà, Tư Hoa bộc bạch: “Nói thiệt, khi còn khó khăn, gia đình mỗi người một nơi, vợ chồng tui chỉ mong sao có được mảnh đất để làm ăn và sống gần nhau là mừng rồi. Khi có điều kiện thì lại mơ ước làm giàu”.

Sau vụ sản xuất đầu tiên, trừ chi phí chỉ đủ ăn, nên anh suy nghĩ chuyển đổi phương thức sản xuất. “Trước đây, ở khu vực này, nhiều người nuôi cả mấy héc-ta cá thịt nhưng chưa một ai nuôi cá giống. Thấy vậy, tui đã làm “liều” bỏ lúa để nuôi cá”- Tư Hoa nhớ lại. Cải tạo xong ao nuôi cá, anh tìm đến Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ, Trung tâm giống thủy sản Cần Thơ, Xí nghiệp cá giống Vĩnh Long… học hỏi kỹ thuật ương cá giống. Anh còn tham gia các lớp tập huấn nguồn lợi thủy sản, tìm mua các tài liệu liên quan đến kỹ thuật, quy trình ương cá giống về nghiên cứu. Sau khi thuộc nằm lòng các quy trình kỹ thuật ương cá, anh vay ngân hàng 3 triệu đồng mua cá chép bột về ương. Tư Hoa kể: “Vụ đầu tiên gần thu hoạch chưa kịp mừng thì bỗng dưng cứ thấy cá giống ngày càng thưa dần. Thấy vậy, vợ chồng tui bán tín, bán nghi “chẳng lẽ có kẻ xấu hại mình”. Qua nhiều đêm “mai phục” chẳng bắt được kẻ gian “đột nhập” mà chỉ nghe thấy mấy tiếng quậy mạnh trên mặt nước. Thì ra “thủ phạm” chính là hàng chục con cá lóc bự. Cũng hên, phát hiện sớm nên vụ đó thu hoạch cũng vừa huề vốn”.

Mặc dù thất bại ngay từ vụ đầu, nhưng với Tư Hoa “thua keo này, bày keo khác”. Rút kinh nghiệm từ vụ cá đầu, vụ kế tiếp anh xử lý cặn kẽ hệ thống bờ ao, áp dụng đúng kỹ thuật nên cuối vụ anh thu lợi nhuận được 12 triệu đồng. “Sau thời gian, thấy nghề ương cá giống “dễ ăn” tui quyết định mướn 4 héc ta đất ở Viện lúa ĐBSCL và mướn 2,5 héc-ta đất của Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Thốt Nốt tại khu vực Nghĩa trang liệt sĩ huyện để ương thêm các loại giống mè vinh, rô phi, trắm, trê, trê lai…”. Anh thuê 4 lao động làm việc thường xuyên trả lương theo tháng; vào vụ kéo cá phải thuê từ 20 lao động trở lên làm mới xuể. Điều đáng nói là cá của anh áp dụng đúng kỹ thuật nên cá khỏe, giá anh bán thấp hơn ở nơi khác và những hộ chưa có vốn anh cũng bán thiếu nên “hữu xạ tự nhiên hương”, “thương hiệu” cá giống Tư Hoa không chỉ chiếm lĩnh thị trường Cần Thơ mà còn lan rộng sang đến An Giang, Đồng Tháp, xuống tận Bạc Liêu, Cà Mau… Cũng từ đó, anh được mọi người tôn vinh là “đại gia” cá giống. Năm 2004, Viện Lúa ĐBSCL lấy lại đất, anh vào Nông trường Sông Hậu mướn 7,5 ha đất tiếp tục làm nghề.

Dẫn tôi đi vào khu ương cá giống của anh tại Nông trường Sông Hậu, 7,5 ha ở đây, Tư Hoa quy hoạch hơn chục ao lớn. Anh lấy xuồng chở mấy thùng đựng đầy thức ăn cá, cùng tôi chèo ra giữa ao cho cá ăn. Nhìn từng đàn cá tra giống lớn gần hai ngón tay vật lộn trên mặt nước đớp mồi dày đặc trong ánh nắng ban mai, Tư Hoa nhẹ giọng nói: “Làm nghề ương cá giống mặc dù vất vả, nhưng nếu nắm chắc kỹ thuật, cá ương đậu tỷ lệ cao và quay vòng ương nhanh thì không sợ bị lỗ. Nhưng nếu muốn lời nhiều thì phải nhanh nhạy nắm bắt thị trường. Chẳng hạn như từ tháng 5 đến tháng 12 trong năm ở huyện Hồng Ngự (tỉnh Đồng Tháp – PV) mùa nước nổi không ương được cá thì mình phải tăng mật độ ương lên; những thời điểm cá thịt bị ế thì cá giống cũng chững lại, mình phải nắm chắc thông tin thị trường để điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Mười ba năm làm nghề chỉ vụ đầu tiên vừa huề vốn, còn các vụ sau này đều có lời”.

-Từ ương cá mỗi năm anh thu lợi nhuận được bao nhiêu? – Tôi hỏi

-Từ năm 1994 đến nay, bình quân mỗi năm tui thu hoạch được trên 50 tấn cá giống, trừ chi phí mỗi năm còn lời trên 300 triệu đồng. Riêng năm nay, cá tra thịt trúng giá, cá tra giống cũng lên theo nên lời hơn chút đỉnh! - Tư Hoa nói thiệt tình.

Không chỉ giỏi ương cá giống, Tư Hoa còn là người có đầu óc và nhanh nhạy trong kinh doanh. Năm 2001, tận dụng lợi thế nhà ở mặt đường Quốc lộ 91, bằng số tiền tích lũy được bán cá giống, Tư Hoa đầu tư 800 triệu đồng thành lập doanh nghiệp tư nhân “Nguyễn Tấn Phát” kinh doanh xăng dầu. Qua 5 năm đi vào hoạt động, mỗi năm ngoài trả lương cho 4 nhân viên, khấu hao máy móc và nộp thuế cho Nhà nước anh còn thu lợi nhuận trên 40 triệu đồng.

Trong bữa cơm trưa chung vui cùng gia đình, tôi hỏi: “Bí quyết nào giúp anh thành công như ngày nay?”. Tư Hoa cười hiền: “Chẳng có bí quyết gì đâu, tui thường dạy mấy đứa con làm người phải có ý chí, nghị lực và niềm tin thì việc gì khó cũng sẽ vượt qua”. Tôi chợt nghĩ đây cũng là một lời nhắn nhủ của Tư Hoa với mọi người, nhất là với các bạn trẻ đang trên bước đường lập nghiệp.

ANH DŨNG


Từ 20/12/2006: Kiểm tra 100% tôm, mực xuất qua Nhật

Nguồn tin: SGGP, 18/12/2006
Ngày cập nhật: 18/12/2006

 


Tôm đất xuất hiện rộ trên đầm Thị Nại

Nguồn tin: Bình Định, 15/12/ 2006
Ngày cập nhật: 18/12/2006

Từ đầu tháng 12-2006 đến nay, tôm đất xuất hiện rộ trên đầm Thị Nại, hàng chục lao động các xã Phước Thắng, Phước Hòa, Phước Sơn và Phước Thuận (Tuy Phước) dùng cào bằng tay và thả lưới lồng đánh bắt mỗi ngày đêm hàng trăm ký tôm đất. Vì thế giá tôm đất giảm mạnh từ 60.000 đồng/kg xuống còn 30.000 đồng/kg.

Hiện nay, xung điện, xiếc máy hoạt động mạnh, mắt lưới lại nhỏ đã đánh bắt cả những con tôm đất còn rất nhỏ làm nguồn lợi thủy sản cạn kiệt.

Xuân Thức

 


Mỹ: Xây dựng bộ tiêu chuẩn để phân biệt cá mú với các loài cá khác

Nguồn tin: Vasep, 14/12/2006
Ngày cập nhật: 18/12/2006


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang