• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Phương Hải (Ninh Hải, Ninh Thuận): Đa dạng hoá sản xuất

Nguồn tin: Ninh Thuận, 29/12/2006
Ngày cập nhật: 31/12/2006

Phương Hải (Ninh Hải, Ninh Thuận)là một xã nằm ven Đầm Nại, lâu nay mọi người biết đến như một vùng có thế mạnh về nuôi tôm sú. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở con tôm mà nhờ vào lợi thế của tự nhiên vừa có mặt nước nuôi trồng thủy sản, vừa có diện tích đất trồng lúa, vừa có mặt bằng chăn thả, vì thế để phát triển kinh tế, chủ trương của cấp ủy và chính quyền xã là đa dạng hóa sản xuất.

Khi cây lúa bổ trợ con tôm

Qua 10 tháng năm 2006, có 310 hộ thả tôm giống trên diện tích mặt nước 228 ha. Đến nay, có 256 hộ thu hoạch với diện tích 187,4ha, sản lượng đạt 237,6 tấn. Với giá tôm sú dao động từ 90 đến 100 ngàn đồng như hiện nay, nhiều hộ sau khi trừ chi phí còn thu lãi dăm bảy, chục triệu đồng trở lên. Có thể nói, con tôm đã mang lại nguồn lợi đáng kể, gương mặt “triệu phú tôm” vì thế ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên, khi đã “sống với con tôm” là phải gánh chịu nhiều rủi ro. Trong số 187,4 ha diện tích nuôi tôm thu hoạch vừa qua, có đến 49,7 ha bị dịch bệnh, theo đó có 76 hộ lâm vào cảnh thua lỗ. Ông Bùi Trung Hà, từng là chủ một đìa tôm, cho biết: “Chuyện nuôi tôm cũng như đánh bạc với trời, nếu trúng một vài vụ trở thành triệu phú, không may bị dịch bệnh coi như trắng tay. Tôi đã có một thời lao đao vì nó, cứ thả một vài tháng là bị dịch, mà nguyên nhân chính là do người dân mở rộng diện tích nuôi thả nên bị ô nhiễm nguồn nước”.

Do con tôm khó tính, nên chủ trương của xã là đề cao “an ninh” lương thực. ông Trần Văn Thanh, Chủ tịch UBND xã cho biết: “Không phải lúc nào cũng nuôi được tôm, bà con còn chú trọng trồng cây lúa nước. Phát triển sản xuất song hành như vậy, nếu thất bát con tôm thì còn có cái để ăn. Chúng tôi xem đây là mô hình sản xuất lấy ngắn nuôi dài, cây lúa bổ trợ con tôm ”.

Cánh đồng lúa vàng của Phương Hải được đánh giá là khá màu mỡ nhờ lượng phù sa từ thượng nguồn đưa về qua các mùa mưa lũ. Vụ hè - thu vừa rồi toàn xã xuống giống 402/412 ha, năng suất bình quân 50 tạ/ha, đạt sản lượng 2.010 tấn. Nếu tính cả vụ đông - xuân toàn xã xuống giống 402/412 ha, năng suất bình quân 50tạ/ha, đạt sản lượng 2.010 tấn. Nếu tính cả vụ đông – xuân toàn xã đạt 4.826 tấn, vượt 12% kế hoạch năm. Điều đáng nói là, có 64 ha diện tích vụ hè – thu được áp dụng kỹ thuật nhân giống, sau khi thu hoạch, Công ty Giống cây trồng Nha Hố bao tiêu với sản lượng 150 tấn.

Cùng với cây lúa, xã chú trọng phát triển đàn gia súc trên cơ sở tận dụng mặt bằng chăn thả ở khu vực liền kề núi Kiền Kiền. Tổng đàn gia súc trên toàn xã hiện có 4.466 con. Trong đó, trâu, bò 916 con; dê, cừu 3.550 con. Đến xã Phương Hải, chúng tôi gặp nhiều gương điển hình chăn nuôi giỏi, như hộ gia đình chị Nguyễn Thị Phương Liên. Mặc dù bận bịu với cương vị Chủ nhiệm Câu lạc bộ không sinh con thứ 3, nhưng ngoài công tác xã hội, chị còn tổ chức chăn nuôi, phát triển kinh tế gia đình. Hiện nay, chị có một trại dê đang trong thời kỳ phát triển.

Đảm bảo nguồn nước, nâng cao chất lượng cây, con giống

Hiện nay, trong các hộ nuôi tôm có dư luận bức xúc rằng: Cán bộ kiểm dịch tôm giống “bắt tay” với các chủ trại tôm giống để đưa con giống kém chất lượng bán cho người nuôi. Nhiều hộ nuôi tôm không may mua phải con giống kém chất lượng về thả, nên chết hàng loạt. Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, ông Dư Ngọc Tuân, Quyền Trạm trưởng, Trạm Khuyến ngư Ninh Hải cho biết: “Chúng tôi cũng đã nghe một số người phản ánh hiện tượng trên, nhưng không có chứng cứ rõ ràng. Quan điểm của ngành Thủy sản, nếu phát hiện cán bộ kiểm dịch nào có tiêu cực thì không bao che mà cương quyết kỷ luật, kể cả cho nghỉ việc”. Ông Tuân còn nói thêm: “Bà con nuôi tôm cũng phải thông cảm với cơ quan chuyên môn, vì trong công tác kiểm dịch vẫn còn nhiều sơ suất. Nhiều kho tôm giống lấy mẩu đi kiểm dịch không bị bệnh, nhưng thả một thời gian lại bị bệnh. “Tuy nhiên, mong muốn của các hộ nuôi tôm là tăng cường hơn nữa trong công tác kiểm dịch, đảm bảo con giống tốt, có xuất xứ nguồn gốc, ngăn chặn các giống tôm trôi nổi để bà con an tâm sản xuất.

Bên cạnh con tôm, thì canh tác cây lúa cũng còn gặp một số khó khăn. Trao đổi với chúng tôi, ông Trần Văn Thanh, Chủ tịch UBND xã, trăn trở: “Đồng ruộng của Phương Hải nằm cuối kênh Bắc, nên luôn thiếu nước. Một năm bà con chỉ sản xuất được 2 vụ chính, đã vậy, hệ thống kênh mương xuống cấp không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật”. Đây là nguyên nhân về mùa khô thì đồng ruộng Phương Hải thiếu nước, về mùa mưa thì ngập úng. Trong năm, xã huy động nhân dân đóng góp hơn 39 triệu đồng để tu sửa hệ thống giao thông nội đồng. Tuy nhiên, để có một hệ thống kênh mương đáp ứng được nhu cầu sản xuất hiện nay, thì Phương Hải rất cần được sự đầu tư của Nhà nước. Bên cạnh cải tạo hệ thống kênh mương, thì để tăng năng suất, sản lượng lương thực, Phương Hải cần được cung cấp thêm nhiều giống lúa mới.

Tuấn Anh


Xuất khẩu cá tra, basa bứt phá toàn diện

Nguồn tin: VNN, 29/12/2006
Ngày cập nhật: 31/12/2006

 


Xuất khẩu thuỷ sản đạt trên 3,3 tỷ USD

Nguồn tin: VOH, 30/12/2006
Ngày cập nhật: 31/12/2006

 


VN và Nhật Bản sẽ ký thỏa thuận về kiểm soát thủy sản

Nguồn tin: TTXVN, 29/12/2006
Ngày cập nhật: 31/12/2006

 


Phát hiện nhiều DN bơm tạp chất vào tôm

Nguồn tin: NLĐ, 29/12/2006
Ngày cập nhật: 30/12/2006

 


Ngành Thủy sản Cà Mau tổ chức tổng kết năm 2006 và triển khai chương trình công tác năm 2007

Nguồn tin: Cà Mau, 26/12/2006
Ngày cập nhật: 30/12/2006

Ngày 22/12/2006, Sở Thủy sản Cà Mau tổ chức Hội nghị tổng kết năm 2006 và triển khai chương trình công tác năm 2007. Đến dự hội nghị, có Phó Chủ tịch UBND tỉnh Dương Tiến Dũng; lãnh đạo một số sở, ngành tỉnh; UBND các huyện, thành phố; Phòng Nông nghiệp – Thủy sản và Phát triển nông thôn các huyện, thành phố và một số hộ dân sản xuất tiêu biểu.

Qua báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch năm 2006 của Ngành Thủy sản, cho thấy năm 2006, tuy phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức như: thị trường xuất khẩu thủy sản chưa ổn định; thời tiết diễn biến bất thường, nhất là nhiều cơn bão xuất hiện vào những tháng cuối năm; gía xăng, dầu và vật tư phục vụ cho ngành thủy sản tăng,…. nhưng bằng sự nỗ lực phấn đấu của toàn Ngành, Ngành Thủy sản Cà Mau đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi, thể hiện qua nhiều chỉ tiêu đạt kết quả cao và vượt trội so với cùng kỳ năm trước; nổi bật như: tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản đạt 277.500 tấn, bằng 99,1% kế hoạch năm, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2005; nhiều mô hình mới có hiệu quả được nhân rộng; hàng thủy sản xuất khẩu đạt 66.000 tấn, đạt 100% kế hoạch, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2005,…Qua đó đã đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh đạt 580 triệu USD, vượt 3,6% so với kế hoạch 2006, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2005.

Năm 2007, Ngành Thủy sản Cà Mau đã đưa ra phương hướng, giải pháp phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ công tác của Ngành, góp phần cùng các ngành, các cấp và nhân dân trong tỉnh thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2007 của tỉnh.

Cũng tại hội nghị này, Sở Thủy sản đã kết hợp triển khai Nghị định số 123/2006/NĐ-CP ngày 27/10/2006 của Chính phủ về quản lý hoạt động khai thác thủy sản của tổ chức, cá nhân Việt Nam trên các vùng biển.

TRUNG TÍN

 


Ninh Thuận: Tổng kết chương trình hỗ trợ giống và tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2006

Nguồn tin: Ninh Thuận, 29/12/2006
Ngày cập nhật: 30/12/2006

Sáng ngày 26-12, Sở Thủy sản Ninh Thuận đã tổ chức Hội nghị tổng kết chương trình hỗ trợ giống, tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2006 và triển khai kế hoạch tổ chức sản xuất nuôi trồng thủy sản năm 2007.

Trong hai năm 2005 và 2006, thực hiện phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng đối tượng nuôi và đa dạng hình thức nuôi; ngành Thủy sản đã hỗ trợ cho hàng trăm hộ nuôi các đối tượng giống như: Cá măng biển, ghẹ xanh, cá mú chấm cam, các loài cá nước ngọt, tôm và rong sụn. Mặc dù số lượng giống hỗ trợ không đáp ứng được hết nhu cầu nuôi của người dân nhưng chương trình hỗ trợ giống thủy sản đã mang lại ý nghĩa to lớn, giải quyết phần nào khó khăn trong sản xuất của người dân trước tình hình hạn hán vừa qua. Nhìn chung chương trình hỗ trợ giống thủy sản đã phát huy hiệu quả ở các địa phương có điều kiện thuận lợi, cụ thể là nuôi cá nước ngọt ở Ninh Sơn, tôm thương phẩm tại Ninh Phước và hải đặc sản ở Ninh Hải. Người nuôi rất phấn khởi trước tình hình quan tâm của nhà nước, hầu hết đều có lãi và nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống.

Về tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2006, theo trung tâm Khuyến ngư, nhờ tình hình thời tiết thuận lợi, môi trường nuôi từng bước được cải thiện, dịch bệnh ít xảy ra nên hoạt động sản xuất có chuyển biến. Tổng diện tích tôm sú thả nuôi trong toàn tỉnh là 1.000 ha, chiếm 63,2% tổng diện tích mặt nước hiện có, tập trung tại 2 khu vực chính là Đầm Nại (Ninh Hải) và An Hải, Phước Dinh (Ninh Phước). Nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển mạnh ở các địa bàn ven biển huyện Ninh Phước, với diện tích thả nuôi ước tính 200 ha. Các loài hải đặc sản khác cũng đang được chú ý phát triển nuôi như: Ốc hương thương phẩm, tôm hùm thương phẩm, ương tôm hùm thương phẩm, cá mú, ghẹ, hàu, rong sụn và cá nước ngọt. Trong năm, Trung tâm Khuyến ngư đã triển khai thực hiện hiệu quả các mô hình khuyến ngư như: Nuôi tôm sú kết hợp với cá rô phi đơn tính (bằng phương pháp nuôi chắn đăng), nuôi tôm thẻ chân trắng, khôi phục rừng ngập mặn kết hợp nuôi một số loài hải sản, trồng 18 ha rừng ngập mặn, nuôi thương phẩm cá lăng vàng và nuôi thương phẩm cá chẽm trong ao đất. Đối với tình hình tổ chức sản xuất và hỗ trợ sản xuất nuôi trồng thủy sản, Trung tâm KN đã triển khai mở các lớp tập huấn kỹ thuật, tổ chức hội thảo, tăng cường cán bộ kỹ thuật xuống tận địa bàn để tư vấn, hướng dẫn cho người nuôi. Trung tâm KN đã chủ động phối hợp với phòng kiểm dịch (Chi cục BVNL thủy sản) tiến hành dập dịch cho 18,5 ha diện tích nuôi của 38 hộ. Mô hình tổ chức sản xuất theo hình thức tổ cộng đồng, tổ hợp tác đến nay đã nhân rộng, được đông đảo người nuôi hưởng ứng và tự nguyện tham gia.

Trong kế hoạch tổ chức sản xuất nuôi trồng thủy sản năm 2007, ngành Thủy sản đề ra chỉ tiêu thực hiện tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 3.000 ha, trong đó có diện tích nuôi tôm là 1.500 ha bao gồm 1.280 ha diện tích tôm sú và 220 ha diện tích tôm thẻ chân trắng. Các đối tượng nuôi khác như cá nước ngọt, thực hiện nuôi khoảng 200 ha; rong sụn là 700ha và triển khai thực hiện nuôi tôm hùm thương phẩm, ương tôm hùm giống, ốc hương thương phẩm, cua, ghẹ và các đối tượng khác.

Báo Ninh Thuận

 


Dịch cúm gia cầm tái phát: Thủy hải sản đắt hàng, giá tăng

Nguồn tin: BCT, 29/12/2006
Ngày cập nhật: 30/12/2006

 


Phản hồi bài “Nuôi tôm kiểu phá rừng” ở Quảng Ngãi

Nguồn tin: SGGP, 29/12/2006
Ngày cập nhật: 29/12/2006

Báo SGGP số ra ngày 28-11 có bài phản ảnh về tình trạng một số hộ dân xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ trong quá trình nuôi tôm đã phá rừng phòng hộ ven biển và lấn chiếm đất trái phép. Đặc biệt hơn, những sai phạm của các hộ dân có sự tiếp tay của một số cán bộ lãnh đạo xã cả về mặt chính quyền và cấp ủy Đảng. Trao đổi với Báo SGGP, ông Hoàng Quốc Vệ, Bí thư Huyện ủy huyện Đức Phổ - Quảng Ngãi cho biết:

Qua thông tin của Báo SGGP, Huyện ủy đã thành lập đoàn thanh tra liên ngành và đã có kết luận, kiểm điểm xét về tập thể, cá nhân, ai vi phạm bị nhân dân tố cáo xử lý trước. Tuy nhiên, vừa rồi đoàn thanh tra tiến hành làm đã không đạt yêu cầu. Vi phạm như vậy mà chỉ xử lý ở mức phê bình, kiểm điểm nghiêm túc để rút kinh nghiệm, không xử lý kỷ luật ai, nên chưa thỏa đáng, chưa nghiêm, chưa đem lại lòng tin cho nhân dân và những người đứng ra chống tiêu cực. Thường vụ Huyện ủy không chấp nhận.

- PV: Việc một số đảng viên đã không làm tròn trách nhiệm, không làm đúng chức năng và vai trò lãnh đạo có ảnh hưởng đến uy tín cấp ủy Đảng địa phương không, thưa ông?

Ông HOÀNG QUỐC VỆ: Thực tế cho thấy, những đảng viên này đã không làm hết chức năng, nhiệm vụ và vai trò lãnh đạo, không theo dõi chặt chẽ, để xảy ra sai phạm vượt mức, khi phát hiện đã không xử lý kịp thời… nên đã làm xói mòn nhất định lòng tin của nhân dân trong xã đối với cấp ủy Đảng.

Ngoài ra, về phía quản lý nhà nước, một số lãnh đạo xã đã vượt quá thẩm quyền, chủ tịch xã không có quyền cho thuê đất hoặc những hình thức tương tự. Mà nhất là cho thuê đất trong lúc chưa có quy hoạch. Vì đây là việc làm công khai, khi đem ra cấp ủy bàn bạc cũng thống nhất, ủy ban làm tờ trình đưa cấp ủy, bí thư cũng nhất trí, chứng tỏ mức độ hiểu biết về luật đất đai của số cán bộ này còn hạn chế. Không những vậy, vì lợi ích kinh tế, trong quá trình phân bổ, người nhiều người ít, người có người không đã gây nên những dư luận không tốt.

- Nói như vậy, về phía huyện là không có liên quan, thưa ông?

Có chứ, vì do huyện đã có chủ trương chung mở rộng và phát triển nuôi tôm trên cát mà. Chính vì vậy, bản thân UBND huyện cũng có trách nhiệm liên đới do quản lý lỏng lẻo, không chặt chẽ. Tôi được biết, không riêng gì xã Phổ Khánh, 6 xã còn lại là Phổ An, Phổ Vinh, Phổ Quang… đều có tình trạng trên.

- Khi nào thì có kết luận chính thức về những sai phạm trên, thưa ông?

Hiện, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy đang trực tiếp xuống gặp những người dân tố cáo và những người vi phạm tiến hành kiểm tra, xác minh lại theo các hướng: Chúng tôi sẽ tiến hành kiểm điểm về cấp ủy, quản lý nhà nước của chính quyền xã và các ngành có liên quan. Sau đó, ai vi phạm mức nào công khai luôn cho dân biết. Chậm nhất là ngày 31-12 sẽ có kết luận chính thức. Tùy theo mức độ, có thể xử lý kỷ luật cảnh cáo hoặc cách chức.

HÀ MINH (thực hiện)


Ngừng xuất khẩu các mặt hàng tôm biển sang Nhật

Nguồn tin: TT, 29/12/2006
Ngày cập nhật: 29/12/2006

 


Hệ thống thủy lợi không theo kịp với phát triển thủy sản

Nguồn tin: TT, 29/12/2006
Ngày cập nhật: 29/12/2006

Sáng 28-12, tại Hội nghị phát triển thủy lợi vùng bán đảo Cà Mau (BĐCM) thuộc ĐBSCL do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức, nhiều đại biểu cho rằng hệ thống thủy lợi vùng BĐCM (gồm các tỉnh thành Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang) đã và đang bộc lộ nhiều khiếm khuyết, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bất ổn định trong phát triển nuôi trồng thủy sản.

Một trong những nguyên nhân chính là do hệ thống thủy lợi hiện nay được qui hoạch và thiết kế phục vụ nông nghiệp, chủ yếu là cây lúa, năng lực lấy và dẫn mặn, thoát nước dư thừa và nước phèn còn rất hạn chế, không đảm bảo cho nuôi trồng thủy sản nước mặn. Hậu quả là hiện tượng xâm nhập mặn tại vùng BĐCM diễn ra khá phức tạp, ảnh hưởng đến hoạt động trồng lúa ngay cả những vùng đã được ngọt hóa.

H.ĐĂNG

 


Huyện Ngã Năm: 36,3 triệu đồng/ha/năm từ các mô hình cá – lúa

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng, 27/12/2006
Ngày cập nhật: 29/12/2006

Từ năm 2003 đến nay, tổng diện tích của 5 dự ấn trồng trọt kết hợp nuôi thủy sản của huyện Ngã Năm đã đạt 2.780 ha. Trong đó, có 4 dự án cá – lúa triển khai tại các xã: Tân Long, Long Tân, Mỹ Qưới, Vĩnh Qưới và dự án nông – lâm – ngư kết hợp tại xã Vĩnh Biên. Theo đó, từ nguồn vốn ngân sách huyện đã tiến hành đào mới và nạo vét 29 công trình thủy lợi tạo nguồn và 21 cống phục vụ cho các vùng dự án trên, với tổng số vốn đầu tư gần 4,6 tỷ đồng.

Theo đánh giá của huyện, thu nhập bình cá – lúa trong các vùng dự án thường cao hơn ngoài vùng dự án, bình quân đạt 36,3 triệu đồng/ha/năm. Có được kết quả này là do hệ thống cống cấp và thoát nước được đầu tư đồng bộ, đất và nước ít bị nhiễm phèn; các hộ dân được tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, có quyết tâm và đầu tư đúng qui trình kỹ thuật. Ngoài ra các mô hình nuôi tập trung nên thuận lợi cho công việc kiểm soát và quản lý.

Năm 2007, kế hoạch của huyện sẽ phát triển thủy sản ổn định, bền vững, từng bước gắn với thị trường, tăng năng suất lên 1.000 kg thủy sản/ha và nâng mức thu nhập bình quân của các mô hình trong vùng dự án lên đến trên 42 triệu đồng/ha thông qua việc chuyển sang nuôi thủy sản có giá trị kinh tế cao.

 


Bùn thải ao nuôi tôm - phân hữu cơ giá rẻ

Nguồn tin: Bình Định, 21/12/2006
Ngày cập nhật: 28/12/2006

Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ Bình Định đang tiến hành nghiên cứu xử lý bùn thải ao tôm làm phân bón. Giải pháp này không chỉ tạo được một loại phân hữu cơ giá rẻ, tốt cho cây trồng, mà còn góp phần giải quyết một phần vấn đề ô nhiễm môi trường từ nuôi tôm.

Ông Nguyễn Hữu Đại tại ruộng hành sử dụng loại phân bón từ bùn thải ao tôm. Ảnh: H.L

Đây là mục tiêu của đề tài “Nghiên cứu ứng dụng chế phẩm vi sinh vật phục vụ xử lý môi trường nước nuôi trồng thủy sản, xây dựng quá trình thu gom và xử lý bùn thải ao nuôi tôm ở Bình Định” do kỹ sư Lê Ngọc Hùng- Phó Giám đốc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ Bình Định- thực hiện.

Từ trước đến nay, bùn thải từ đáy ao sau quá trình nuôi tôm được người dân đắp lại trên bờ ao hoặc đổ ở ven biển… Chất bùn thải này chưa qua xử lý và còn mang nhiều mầm bệnh, vì vậy, nguy cơ gây ô nhiễm trở lại ao nuôi tôm là rất lớn. Trong khi đó, chất bùn thải trong quá trình nuôi tôm có một lượng chất hữu cơ nhất định có thể tận dụng làm phân bón cho cây trồng. Kỹ sư Lê Ngọc Hùng cho biết: “Qua phân tích mẫu bùn thải ao tôm (tại Trung tâm Phân tích- Kiểm nghiệm Bình Định) cho thấy, bùn thải ao tôm có hàm lượng hữu cơ thấp hơn phân chuồng, nhưng hàm lượng muối khá cao. Vì vậy, để tạo ra một loại phân hữu cơ từ loại bùn thải này, chúng tôi đã bổ sung thêm mụn dừa (còn gọi là cám dừa) và các loại phân hữu cơ khác theo một lượng nhất định, tùy theo loại cây trồng để tăng hàm lượng chất hữu cơ và giảm tối đa hàm lượng muối. Giá thành của loại phân vi sinh từ bùn thải ao tôm này rất rẻ, khoảng 10.000 đồng/100kg nếu không tính chi phí chuyên chở”.

Quy trình ủ phân khá đơn giản. Sau khi thu hoạch tôm, xả cạn nước, bùn lắng ở đáy ao được thu gom, phơi khô. Sau đó, trộn với chế phẩm vi sinh rồi ủ kín bằng bạt nylon, từ 7-10 ngày; dưới tác động của vi sinh, hỗn hợp phân hủy sẽ không còn mùi hôi. Mang hỗn hợp này trộn với mụn dừa tạo thành phân bón hữu cơ. Hiện tại, loại phân bón làm từ bùn thải này đang được ứng dụng thử nghiệm qua mô hình trồng hành của ông Nguyễn Hữu Đại ở Mỹ Thọ, Phù Mỹ. Với diện tích 1.000 m2 , trồng được 2 tháng, gia đình ông Đại đã thu hoạch được gần 2 tấn hành, năng suất tăng gấp đôi các vụ trước. Ông Đại cho biết: “Khi bón loại phân làm từ bùn thải ao tôm cho cây hành, bước đầu tôi nhận thấy năng suất tăng cao, trong khi chi phí đầu tư giảm. Vì so với các vụ trước, lượng phân hóa học dùng để bón cho hành giảm hơn một nửa”. Mặc dù đạt được những kết quả bước đầu khả quan, nhưng để có những kết quả khoa học mang tính ổn định, trong năm 2007, những người thực hiện đề tài sẽ tiếp tục thử nghiệm loại phân hữu cơ này trên cây hành, cây lúa và các loại cây trồng khác.

Theo ước tính, mỗi ao tôm 3.000 m2 thải khoảng 6m3 bùn đáy/vụ nuôi, chỉ tính riêng xã Mỹ An (Phù Mỹ), mỗi năm đã có khoảng 1.000 m3 chất bùn thải ao tôm. Nếu tính trên phạm vi cả tỉnh thì số lượng bùn thải trong quá trình nuôi tôm sẽ rất lớn. Vì vậy, đây là một giải pháp giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường do bùn đáy ao tôm gây ra, đồng thời, tạo ra được một loại phân bón hữu cơ giá rẻ, có hiệu quả.

Hoàng Mai

 

 


Sóc Trăng: Hiệu quả dự án “ Tăng cường quản lý nước nuôi tôm”

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng, 27/12/2006
Ngày cập nhật: 28/12/2006

Tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng vừa qua đã diễn ra lễ tổng kết giai đoạn 1 dự án “ Tăng cường quản lý nước nuôi tôm”. Đây là dự án được thực hiện tại 6 xã vùng tôm lúa của huyện Mỹ Xuyên, đây là chương trình hợp tác nghiên cứu giữa Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, Ủy Ban Sông Mêkông, Sở Thủy sản Sóc Trăng và UBND huyện Mỹ Xuyên.

Dự án “ Tăng cường quản lý nước nuôi tôm” được chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ 12/2003 – 12/2005 và giai đoạn 2 từ năm 2006 -2008. Nhóm nông dân được chọn thực hiện dự án gồm 232 thành viên của 6 hợp tác xã và 5 câu lạc bộ, với diện tích nuôi tôm trên 294 ha. Ngoài việc được trang bị một số công cụ hỗ trợ, nông dân vùng dự án còn được tập huấn kỹ thuật nuôi tôm, tham quan các mô hình sản xuất hiệu quả và còn được tập huấn kỹ thuật chăn nuôi heo, bò, trùn quế, cá và trồng lúa. Năng suất nuôi tôm bình quân năm 2006 ở các hợp tác xã, câu lạc bộ trong vùng dự án là 580 kg/ha và có gần 70% hộ có lời… các mô hình sản xuất khác bước đầu cũng đem lại kết quả khả quan.

 


Quảng Trị: Tạo bước đột phá trong nuôi trồng thủy sản

Nguồn tin: QTrị, 27/12/2006
Ngày cập nhật: 28/12/2006

Nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) đã và đang phát triển mạnh mẽ, trở thành một phong trào lớn trong nông thôn tỉnh Quảng Trị, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xoá đói giảm nghèo ngày càng hiệu quả. Phát triển NTTS đang có nhiều thuận lợi, tiềm năng cũng rất rộng lớn. Ngành Thuỷ sản Quảng Trị đang có các giải pháp như: quy hoạch vùng nuôi, quy hoạch thị trường, tổ chức sản xuất con giống, thức ăn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, xử lý môi trường,... Đây là đáp án của bài toán về phát triển NTTS bền vững, góp phần làm giàu cho nông dân.

Ở Quảng Trị, chỉ tính từ năm 2000 đến nay, tổng diện tích mặt nước được đưa vào NTTS lên đến gần 2.300 ha, trong đó diện tích nuôi tôm sú là 816 ha, nuôi cua là 50 ha, còn lại là nuôi cá nước ngọt và một số con nuôi đặc sản khác. Trong tổng diện tích mặt nước NTTS hiện có thì có gần 1.100 ha được chuyển đổi từ đất trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS. Giải bài toán này, cho thấy: 1 ha trồng lúa kém hiệu quả có tổng doanh thu khoảng 5 triệu đồng, trừ chi phí (không tính tiền công) còn lãi không đến 1 triệu đồng. Khi chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản, nếu nuôi cá nước ngọt thì doanh thu đạt khoảng 30 - 40 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi gần 20 triệu đồng. Ở vùng nhiễm mặn, nếu chuyển sang nuôi tôm nước lợ; trường hợp không xảy ra rủi ro thì doanh thu đạt trên 100 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi 50-60 triệu đồng. Điển hình như ở xã Vĩnh Sơn (huyện Vĩnh Linh), từ khi chuyển gần 175 ha ruộng bị nhiễm mặn dọc theo hai bờ sông Bến Hải sang nuôi tôm thì đời sống của người dân nơi đây giàu lên trông thấy. Tổng sản phẩm xã hội của xã trước năm 2000 chỉ đạt khoảng 3 tỷ đồng, nay tăng lên trên 30 tỷ đồng.

Cùng với xã Vĩnh Sơn là địa phương có diện tích nuôi tôm cao nhất tỉnh, xã Triệu Phước (huyện Triệu Phong) là địa phương có diện tích nuôi tôm sú lớn thứ hai của tỉnh, với diện tích 146 ha, trong đó có 40 ha nuôi cua, năng suất tôm nuôi ở Triệu Phước trong niên vụ 2006 này đạt bình quân 1,2 tấn/ha, với giá bán từ 70- 80 ngàn đồng/kg thì vụ tôm vừa qua, người nuôi ở Triệu Phước đã thu về hơn 10 tỷ đồng. Riêng với 40 ha cua tuy mới đưa vào nuôi thử nghiệm năm nay nhưng cho doanh thu tương đối cao, với giá trị gần 4 tỷ đồng. Theo báo cáo của ngành Thuỷ sản Quảng Tri, chỉ tính riêng 2 đối tượng nuôi là thuỷ sản nước ngọt và nước lợ, giá trị thu về bình quân mỗi năm từ NTTS gần 120 tỷ đồng, trong đó thu từ con tôm gần 100 tỷ đồng.

Để phát triển thuỷ sản thành một ngành kinh tế mạnh, với tổng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng đạt 27.000 tấn và phát triển diện tích nuôi lên 4.000 ha, trong đó có 2.000 ha nuôi tôm vào năm 2010 như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 14 đề ra, ngành Thuỷ sản Quảng Trị đã xây dựng chương trình hành động là tiếp tục phát triển mạnh NTTS cả chiều rộng lẫn chiều sâu, hình thành các vùng nuôi thuỷ sản tập trung với quy trình nuôi tiên tiến. Định hướng còn xây dựng 8 dự án phát triển NTTS như xây dựng 3 dự án nuôi tôm tập trung với diện tích 670 ha, 2 dự án nuôi cá thâm canh và bán thâm canh. Ba dự án còn lại là nuôi tôm trên vùng cát ven biển và xây dựng các trại sản xuất tôm giống và cá giống . Tổng kinh phí cho 8 dự án này khoảng 175 tỷ đồng.

Với đà tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua đã đóng góp khá lớn vào việc đảm bảo an ninh thực phẩm cho đời sống nhân dân, đồng thời còn góp phần tăng thêm nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu thu về ngoại tệ cho đất nước. Toàn tỉnh hiện còn hơn 16.000 ha mặt nước có khả năng NTTS, với những định hướng cụ thể và mang tính khả thi nêu trên, hy vọng sẽ có những đột phá mạnh trong phát triển NTTS của tỉnh trong những năm tới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo và thúc đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH.

Hồ Cầu

 


Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo lưới

Nguồn tin: BTre, 26/12/2006
Ngày cập nhật: 28/12/2006

Đến thăm trang trại của chị Phan Thị Vân ở ấp 3 xã Thạnh Trị huyện Đình Đại, nằm bên dòng Ba Lai hiền hòa vào những ngày cuối tháng 7 đã thật sự thu hút tôi bởi màu xanh của cây lá mà trước đó vài năm là một vùng đất cằn cổi không trồng được gì bởi nước mặn. Lối vào đã rợp bóng mát của hàng cây so đủa mà chị trồng để cải tạo đất và lấy lá để nuôi dê. Nhưng điều làm tôi thật sự chú ý lại là những vèo lưới lớn, nhỏ đủ cở được giăng dưới những ao mà trước đây là nơi nuôi cá lóc công nghiệp. Và khi bắt chuyện tôi mới biết đó là những vèo đang nuôi cá lóc chứ không phải là những vèo ươm cá giống như các trại cá khác.

Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo, một mô hình thật lạ và nó có lợi gì hơn so với trong ao, trong hầm? Nhớ lại 3 năm trước, năm 2003 chị Vân bắt tay vào nghề nuôi thủy sản nước ngọt với nhiều loại như: Rô phi, Điêu hồng, Rô đồng, cá lóc, cá sấu, ba ba… nhưng đối tượng được chị chọn nuôi chủ lực để tập trung đầu tư chính là con cá lóc. Năm 2004, chị Vân bắt tay vào nuôi thử nghiệm cá lóc môi trề có nguồn gốc từ An Giang và Đồng Tháp. Bước đầu gian nan và gặp không ít khó khăn do chưa có kinh nghiệm nên cá hao hụt nhiều và thường hay mắc bịnh. Trầy trật mãi cuối cùng chị cũng gặt hái được thành công. Vụ nuôi đầu tiên, 2 ao cá lóc cho sản lượng hơn 20 tấn trị giá trên 400 triệu đồng, trừ hết chi phí chị lãi được trên 100 triệu đồng.

Thừa thắng xông lên, năm 2005, chị Vân tăng lên 4 ao nuôi với diện tích hơn 10.000m2, với lượng cá giống thả nuôi trên 300 ngàn con. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc công nghiệp không khó lắm, điều quan trọng là yếu tố con giống, nguồn nước, thức ăn và phòng trị bịnh; nếu mua con giống không đồng đều, cá bị xây xát, có lượng cá lóc đồng pha trộn thì sẽ bị hao hụt nhiều hoặc chậm lớn. Năm 2005, sau 6 tháng nuôi, chị Vân lại trúng đậm, trọng lượng bình quân mỗi con đạt trên 1kg, sản lượng của 4 ao nuôi đạt 57 tấn, giá bán bình quân 18.000đồng/kg, chị đã thu về trên 1 tỉ đồng, lãi 270 trịêu đồng tương đương với thực lãi 1 ha mặt nước nuôi tôm sú thâm canh, nhưng mức độ thiệt hại và rủi ro không đáng kể. Tuy liên tục thắng lợi nhưng chị vẫn băng khoăn về con giống hao hụt, chậm lớn và kích cỡ không đều, bị tư thương ép giá làm chị trăn trở mãi, thôi thúc chị đến tận An giang, Đồng Tháp để học hỏi.

Năm nay 2006, chị quyết định ứng dụng mô hình nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo lưới, trong ao đất 2000m2 trước đây, chị cho đặt nhiều vèo lưới theo độ tuổi của cá bao gồm vèo ươm, vèo nuôi cá tăng trưởng và vèo nuôi cá thương phẩm. Tuỳ theo độ tuổi của cá mà mật độ mỗi vèo khác nhau. Vèo nuôi cá thương phẩm với mật độ là 50 con/m2. Vèo được xây dựng hình vuông hoặc hình chữ nhựt, đáy vèo đặt cách đáy ao khoảng 5 tấc, độ sâu nước trong vèo phải đạt từ 2,5m trở lên. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc trong vèo có nhiều ưu điểm như nuôi ở mật độ cao để có sản lượng lớn, thức ăn được tập trung, cá không bị cọ sát đáy ao hoặc không chui được xuống bùn nên ít bị xây xát, cá tập trung ăn và ngủ rồi lại ăn, ít nhiễm bịnh nên tỉ lệ hao hụt thấp và nhất là việc xử lý thuốc phòng trị bịnh cho cá thuận lợi và ít tốn kém hơn trong ao đất. Đặc điểm cá nuôi trong vèo lưới tăng trọng nhanh và kích cỡ đồng đều.Gía trị thương phẩm cao hơn cá thả lan. Đồng thời, bên ngoài vèo lưới thả thêm các loại cá ăn tạp nhằm cải tạo ao , tận dụng thức ăn thừa, đây cũng là nguồn thu không nhỏ.

Tâm sự với chúng tôi chị cho biết toàn bộ lượng cá lóc đang nuôi trong các vèo lưới hơn 117 ngàn con đều là cá giống được chị cho sinh sản và ươm nuôi tại các ao nuôi của chị từ 180 con cá lóc bố mẹ đã được tuyển chọn, nuôi dưỡng cho đẻ.Với những con cá lóc bố mẹ có trọng lượng mỗi con từ 3 đến 4 kg cho đẻ trứng trong các ổ nhân tạo, sau khi cá đẻ, trứng được vớt lên ấp nở rồi ươm lên cá giống. Tuy tỉ lệ ươm cá giống chỉ đạt hơn 5%, nhưng những gì thành công bước đầu cũng đã mở ra triển vọng cho chị và người nuôi trong tỉnh.

Việc thành công nuôi cá lóc trong vèo lưới của chị Vân làm tôi nhớ lại những thử nghiệm của anh Lê văn Nhỏ ở ấp 2 xã Phú Long huyện Bình Đại cũng nuôi cá lóc trong vèo lưới với qui mô nhỏ hơn, mỗi vèo lưới chỉ 30m2 (mật độ 100con/m2), cũng bằng thức ăn cá biển xay. Sau 4 tháng nuôi đạt trọng lượng bình quân 700g/ con, thu được 2,5 tấn, trừ chi phí anh Lê văn Nhỏ còn lãi 26 triệu đồng và lượng cá nuôi xen ngoài ao đất. Tương tự chú Nguyễn Văn Long ấp Tân Hưng xã Tân Khánh Trung huyện Chợ Lách, năm 2005 cũng đã tận dụng mương vườn nuôi cá lóc trong vèo lưới cũng đã có lãi với qui mô nhỏ. Điều này, cho thấy đây là mô hình có thể nhân rộng và phát triển qui mô nuôi theo khả năng của từng hộ gia đình.

Vẫn là người đi đầu trong nghề nuôi cá lóc thương phẩm thâm canh ở Bến Tre, chị Vân lại một lần nữa minh chứng cho sự nhạy bén, năng động trong phát triển kinh tế và tinh thần lao động sáng tạo trong sản xuất, chị cho biết, mới đây chị vừa thu hoạch ao cá lóc bông, sản lượng 13 tấn và trong tháng 8 này sẽ thu tiếp một ao cá lóc bông ước sản lượng khoảng 25 tấn và cũng vừa thả nuôi thêm một ao cá lóc bông.

Có thể nói, trong quá trình chuyển dịch kinh tế thủy sản vùng nuớc ngọt ở Bến Tre, nhiều mô hình nuôi thuỷ sản đã đem lại hiệu quả cho người nông dân, trong đó mô hình nuôi cá lóc công nghiệp thâm canh trong vèo lưới của chị Vân đã mở ra cho Tỉnh một tiềm năng mặt nước ở vùng nước ngọt và nhất là hai bên dòng Ba Lai một nghề nuôi không thua gì con tôm sú miệt biển.

Trần Tâm

 


Dự báo dư thừa nguồn nguyên liệu cá tra, basa

Nguồn tin: SGTT, 27/12/2006
Ngày cập nhật: 28/12/2006

Theo các chuyên gia ngành Thủy sản, hiện nay, do nhu cầu tiêu thụ cá tra, basa đang ở mức cao nên phát sinh tình trạng ngư dân tự tăng sản lượng nuôi. Vì vậy nhiều khả năng trong 5-6 tháng tới sẽ lặp lại tình trạng khủng hoảng thừa nguyên liệu cá tra, basa như nhiều năm trước.

Những ngày gần đây giá cá tra, basa ở đồng bằng sông Cửu Long liên tục giảm. Hiện, thương lái ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang… mua cá tra nuôi hầm thịt trắng chỉ còn 14.100 đồng đến 14.300 đồng/kg; cá thịt vàng từ 12.300 đồng đến 12.500 đồng/kg… bình quân giảm từ 300 đồng đến 500 đồng/kg so với thời điểm đầu tháng 12.

Theo nhận định của các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, nguyên nhân cá giảm giá là do nhiều nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á… đã mua xong lượng hàng phục vụ Nôen và Tết Dương lịch. Dự báo từ nay đến cuối năm sức tiêu thụ sẽ không tăng.

Theo TTXVN


Phạt đến 20 triệu nếu kinh doanh thủy sản có tạp chất

Nguồn tin: VNN, 27/12/2006
Ngày cập nhật: 27/12/2006

 


Giá cá tra tăng cao

Nguồn tin: TT, 27/12/2006
Ngày cập nhật: 27/12/2006

Những ngày qua cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL liên tục tăng giá và đã xảy ra tình trạng khan hiếm. Hiện giá doanh nghiệp mua tận nơi đối với loại thịt trắng đẹp từ 15.300 đồng/kg, loại thịt trắng hồng 14.600 - 14.800 đồng/kg. Đây là mức giá cao kỷ lục từ trước tới nay.

Do thiếu cá nguyên liệu nên nhiều nhà máy chế biến phải hoạt động cầm chừng. Một doanh nghiệp chuyên cung cấp cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL cho biết lượng cá vào lứa thu hoạch ở các tỉnh hiện không còn đủ cung ứng, lượng thu mua được hằng ngày chỉ đạt khoảng 50% khả năng chế biến của các doanh nghiệp và tình trạng khan hiếm cá nguyên liệu có khả năng còn kéo dài.

Trước tình hình này nông dân trong vùng đã đổ xô mở rộng qui mô, diện tích nuôi khiến giá cá giống cũng liên tục tăng.

Đ.V.

 


Quảng Ngãi: được mùa tôm hùm con

Nguồn tin: TT, 27/12/2006
Ngày cập nhật: 27/12/2006

Hiện nay ngư dân vùng ven biển Sơn Tịnh đang vào mùa đánh bắt tôm hùm con. Ngư dân cho biết trung bình mỗi chuyến biển đi từ 4 giờ chiều đến 7 giờ sáng, đánh bắt được 15-20 con tôm hùm con, bán giá 200.000 đồng/con (tăng 50.000 đồng/con so với năm trước).

Được mùa, được giá nên mỗi chuyến ra khơi ngư dân thu về khoảng 3 triệu đồng. Tôm hùm con thường xuất hiện nhiều vào mùa biển động nhưng nơi đánh bắt chỉ cách bờ khoảng 2 hải lý nên nhiều ngư dân đã chủ động trong tình hình thời tiết để đi đánh bắt.

TRÀ MINH

 


Cà Mau: Triều cường gây thiệt hại hơn 860 ha nuôi tôm

Nguồn tin: BCT, 27/12/2006
Ngày cập nhật: 27/12/2006

Trong những ngày vừa qua, triều cường dâng cao ở nhiều địa phương thuộc các huyện ven biển của tỉnh Cà Mau như: Trần Văn Thời, Phú Tân, Năm Căn, Đầm Dơi, Cái Nước, Ngọc Hiển..., gây thiệt hại khá lớn diện tích lúa, hoa màu và tôm sú nuôi. Trong đó, hơn 860 ha nuôi tôm của hàng trăm hộ dân ở huyện Trần Văn Thời và Phú Tân bị thất thoát khá nặng.

Nguyên nhân triều cường gây tràn ngập lớn là do nhiều công trình đê bao, công đập thủy lợi trên địa bàn tỉnh Cà Mau chưa được đầu tư đồng bộ, nhiều công trình xuống cấp yếu kém. Hiện Cà Mau có trên 80 công trình thủy lợi trong tình trạng bức xúc cần được tu sửa nâng cấp để ngăn mặn, giữ ngọt, chống triều cường.

HUY HẢI

 

 


Hội nghị triển khai nghị định 123/ NĐ-CP và bàn kế hoạch thực hiện năm 2007 ngành thủy sản Cà Mau

Nguồn tin: CMCRT, 22/12/2006
Ngày cập nhật: 26/12/2006

Ngày 22/12, Sở Thuỷ Sản Cà Mau hội nghị triển khai Nghị định 123/NĐ-CP và bàn biện pháp thực hiện kế hoạch năm 2007 của ngành thuỷ sản.

Nghị định 123/NĐ-CP gồm 6 chương, 14 điều quy định về quản lý hoạt động khai thác thuỷ sản của tổ chức, cá nhân Việt Nam trên các vùng biển. Theo báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch năm 2006 tổng sản lượng khai thác ngành thuỷ sản ước đạt gần 280.000 tấn bằng 109% so với cùng kỳ, trong đó, có trên 100.000 tấn tôm; Về chế biến và xuất khẩu thuỷ sản đạt 66.000 tấn; kim ngạch xuất khẩu đạt 580 triệu USD tăng 13,8% so với cùng kỳ. Với kết quả trên, ngành thuỷ sản Cà Mau đã góp phần cho sự phát triển kinh tế ở địa phương./.

Tuyết Anh

 


Cà Mau: Phát hiện và xử lý vi phạm 140 doanh nghiệp bơm chích tạp chất trong tôm nguyên liệu

Nguồn tin: CMCRT, 24/12/2006
Ngày cập nhật: 26/12/2006

Đoàn Thanh tra Sở Thuỷ sản Cà Mau cho biết: từ đầu năm đến nay, qua kiểm tra Đoàn đã phát hiện và xử lý vi phạm hành chính 140 doanh nghiệp trong toàn tỉnh với hành vi bơm chích tạp chất trong tôm nguyên liệu.

Phát hiện phổ biến nhất là các loại tạp chất: Agar, Gelatin (Adao da trâu) do hai loại chất này dễ nhận biết bằng phương pháp thử nhanh hoá học và thông dụng để đưa vào tôm nguyên liệu. Chính vì ý thức tự giác của các doanh nghiệp trong việc chấp hành các quy định chưa cao và lơi lỏng trong kiểm tra nên tình hình đưa tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản ngày càng gia tăng./.

Tuyết Anh

 


Thương hiệu “nghêu Bến Tre” tại sao không?

Nguồn tin: BTre, 25/12/2006
Ngày cập nhật: 26/12/2006

Bến Tre là tỉnh có diện tích nuôi nghêu và bãi nghêu giống tự nhiên đứng đầu khu vực ĐBSCL và cả nước. Với lợi thế nằm sát bờ biển Đông, có chiều dài bờ biển 65 km, hình thành nên bãi bồi rộng lớn trải dài từ Bình Đại, Ba Tri đến Thạnh Phú với diện tích trên 15.000 ha. Nguồn nghêu mánh ngoài biển Đông nhiều vô kể, cung cấp cho các bãi bồi ven biển Bến Tre một lượng nghêu giống tự nhiên rất lớn, trên diện tích 480 ha. Mặc khác, do nằm ở các cửa sông ven biển, các bãi bồi giàu chất phù sa, là điều kiện tốt cho nghêu giống sinh sôi với mật độ cao. Sản lượng trên 1.000 tấn/năm.

Theo Bộ thủy sản, chẳng những Bến Tre đứng đầu về diện tích nuôi nghêu, mà chất lượng con nghêu ở Bến Tre cũng không nơi nào sánh bằng. Đó là lợi thế để Bến Tre phát triển mạnh nghề nuôi nghêu xuất khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ không nhỏ. Tuy nhiên, hiện nay Bến Tre chỉ khai thác được 7.510 ha, chiếm khoảng 50% tiềm năng diện tích hiện có. Trong đó, diện tích nuôi thực tế chỉ 2.200 ha, sản lượng đạt từ 20.000-30.000 tấn/năm. Nếu được khai thác một cách triệt để, sản lượng nghêu thương phẩm ở Bến Tre có thể đạt hàng trăm ngàn tấn/năm.

Những năm gần đây, con nghêu ở Bến Tre đã hoà vào dòng chảy hội nhập, vươn ra thị trường thế giới, được đánh giá cao về chất lượng, đóng góp một phần không nhỏ cho kim ngạch xuất khẩu tỉnh nhà. Tuy nhiên, trước áp lực cạnh tranh trên con đường thâm nhập vào thị trường EU và các nước khu vực Châu Á, con nghêu Bến Tre đang đứng trước một thách thức mới. Đó là vấn đề thương hiệu.

Thương hiệu ở đây không phải đơn thuần là gắn vào một nhãn mác, để nó trở thành tấm vé thông hành nghiễm nhiên bước vào luật chơi cạnh tranh trên thị trường thế giới, mà phải nghĩ đến bản chất bên trong sau “lớp áo thương hiệu” đó như thế nào. Tức là trước tiên phải đảm bảo “sản phẩm chất lượng”, sau đó mới nghĩ đến thương hiệu. Nhận thức được điều này, ngành thủy sản Bến Tre đã mời các nhà khoa học thuộc các Trường, Viện có uy tín thực hiện hàng loạt các công trình nghiên cứu khoa học. Đó là, phối hợp với trường Đại học Cần Thơ nghiên cứu đặc điểm sinh học, hóa học và kỹ thuật nuôi nghêu ở vùng ven biển Bến Tre; cùng với Viện Hải dương học Nha Trang điều tra nguồn lợi nhuyễn thể 2 mảnh vỏ và chương trình nghiên cứu quan trắc môi trường nuôi nghêu của Viện Hải sản Hải Phòng; phối hợp Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II xây dựng các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi nghêu; nghiên cứu xác định nguyên nhân gây ra hiện tượng nghêu chết ở vùng ven biển Bến Tre. Đặc biệt, được sự hỗ trợ AINIA và Cục kiểm tra chất lượng an toàn vệ sinh thú y thủy sản, Bến Tre sẽ tiến tới xây dựng Trung tâm làm sạch nhuyễn thể 2 mảnh vỏ theo công nghệ Tây Ban Nha. Bên cạnh đó, các nhà máy chế biến thủy sản ở Bến Tre từng bước hiện đại hóa công nghệ chế biến, ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000, SSOP, HACCP, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đủ sức cạnh tranh, mở rộng thị phần thế giới. Tất cả những động thái trên đều hướng tới mục đích phát triển nghề nuôi nghêu bền vững và chế biến xuất khẩu theo tiêu chuẩn sạch. Khi con nghêu thật sự “sạch” thì mới hội đủ điều kiện tiến tới xây dựng thương hiệu và mới mong giữ được uy tín trên thương trường.

Mới đây, Sở Thủy sản Bến Tre đã mời các chuyên gia thuộc tổ chức MSC hợp tác xây dựng thương hiệu nghêu. Đây là tổ chức có uy tín trên thế giới, giúp Bến Tre xây dựng qui trình nuôi khép kín từ khâu bảo tồn, khai thác, quản lý môi trường, đảm bảo tính đa dạng sinh học và an toàn vệ sinh thực phẩm. Nếu thực hiện thành công các qui định này, tổ chức MSC sẽ cấp giấy chứng nhận và vị thế của con nghêu Bến Tre sẽ được khẳng định trên thị trường thế giới mà không sợ bất cứ một đối thủ nào trong cuộc chạy đua cạnh tranh.

Theo các chuyên gia của tổ chức MSC, Bến Tre có đủ khả năng để xây dựng thương hiệu nghêu Bến Tre. Tuy nhiên, sự bộc lộ thiếu tính bền vững trong nghề nuôi nghêu do tác động môi trường, khai thác tận thu và nạn trộm cắp nghêu giống bừa bãi là nỗi lo lớn nhất của Bến Tre hiện nay. Về lâu dài, Bến Tre cũng phải tiến tới hình thành khu bảo tồn nghêu, vừa bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo tính đa dạng sinh học, vừa ổn định nghề nuôi nghêu theo hướng bền vững. Trong khi chờ đợi những chủ trương từ phía Chính phủ, trước mắt Bến Tre đang sử dụng mô hình quản lý tập thể - Đó là các Hợp tác xã nghêu, Ban quản lý vùng nghêu và các tập đoàn nghêu. Xuất phát từ quyền lợi kinh tế nên các xã viên và tập đoàn viên luôn có ý thức bảo vệ, tránh tình trạng đua nhau trộm nghêu vô tội vạ như trước đây, vừa làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, vừa làm suy thoái, xâm thực môi trường. Được biết, hiện nay Bến Tre có 10 HTX nghêu, 1 Ban quản lý vùng nghêu và 35 tập đoàn nghêu với gần 22.000 người. Đây là lực lượng khá hùng hậu tham gia bảo vệ các bãi nghêu giống và vùng nuôi nghêu Bến Tre.

Hy vọng với những bước đi mang tính căn cơ, rồi đây con nghêu Bến Tre sẽ sớm mang thương hiệu, tạo ra bước đột phá mới, làm giàu thêm cho xứ dừa, mà ngành thủy sản được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn.

Nguyễn Bảy

 


An Giang triển khai đề án xã hội hoá giống tôm càng xanh- giai đoạn từ 2007 – 2010

Nguồn tin: AG, 26/12/2006
Ngày cập nhật: 26/12/2006

Mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa đã hình thành và phát triển ở tỉnh An Giang là một trong số mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi đạt hiệu qủa kinh tế cao. Từ năm 2000 chỉ có 5,5 ha năm nay tăng lên 755 ha, năng suất nuôi tăng từ 0,7 tấn/ ha lên 1,2 đến 1,5 tấn/ ha, cá biệt có hộ đạt năng suất 1,8 tấn/ ha, lợi nhuận thu được trên 1ha nuôi tôm bình quân đạt trên 50 triệu đồng. Điều này càng khẳng định mô hình nuôi tôm bán thâm canh mùa nước nổi với 1 vụ lúa đông xuân là có hiệu qủa kinh tế cao. Hiệu qủa là vậy, nhưng mỗi vụ nuôi tôm ở tỉnh ta vấn đề con giống không đủ cung cấp cho người nuôi luôn tiếp diễn đã phần nào làm hạn chế diện tích phát triển mô hình nuôi tôm hiện nay. Dự án xã hội hoá sản xuất giống tôm càng xanh tỉnh ta giai đoạn từ 2.007 – 2.010, sẽ mở ra hướng phát triển nôi tôm ở tỉnh An Giang.

Anh Nguyễn Hữu Cảnh, hộ nuôi tôm ở ấp Hưng Thạnh phường Mỹ Thạnh thành phố Long Xuyên - An Giang cho biết: từ khi gia đình anh áp dụng mô hình 1 vụ lúa đông xuân và 1 vụ nuôi tôm mùa nước nổi đã giúp gia đình anh đạt hiệu qủa kinh tế cao. Với 2 ha nuôi tôm năm vừa qua anh thả 200.000 con giống thu hoạch trên 3 tấn tôm thương phẩm sau khi bán trừ chi phí anh còn lời trên 50 triệu đồng. Niên vụ nuôi tôm năm nay do thiếu giống anh phải mua ở nhiều nơi mà chỉ thả được 170.000 con, đến nay thu hoạch tôm ước đạt từ 2,2 đến 2,5 tấn, bán tôm sô 85.000 đồng/ ký anh cũng lời trên 60 triệu đồng. Qua mấy vụ nuôi tôm, anh Cảnh rút ra được một điều là nếu con giống tốt, sẽ góp phần quyết định 50% thành công.

Ngành Thuỷ sản cho biết, hiện nay tỉnh An Giang có 19 cơ sở sản xuất giống tôm, với năng lực sản xuất hàng năm từ 30 đến 40 triệu con post, chỉ đáp ứng khoảng 50% nhu cầu giống của ngư dân trong tỉnh vào chính vụ nuôi. Trong đó Trung tâm Nghiên Cứu sản xuất giống thuỷ sản tỉnh là đơn vị có nhiều nỗ lực sản xuất con giống chất lượng cao, và là đơn vị đầu tiên trong ngành thuỷ sản được công nhận đạt tiêu chuẩn SQF 1000. Chị Nguyễn Thị Ngọc Trinh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu & Sản xuất giống thuỷ sản tỉnh cho biết: Năng lực của Trung tâm là sản xuất khoảng 10 triệu con post/ năm, nhưng để đạt số tôm post đó trung tâm phải tổ chức thêm các trại vệ tinh thực hiện cam kết sản xuất theo quy trình. Mặc dù vậy, Trung tâm cũng chỉ đáp ứng một phần nào giống tôm trong tỉnh.

Để khắc phục tình hình thiếu tôm giống hiện nay, Trung tâm Nghiên cứu sản xuất giống Thuỷ sản đề xướng một đề án xã hội hoá sản xuất giống tôm càng xanh tỉnh AG giai đoạn 2.007 – 2.010 và đề án này vừa được triển khai vào cuối năm nay. Trong năm 2.007, Trung tâm sẽ xây dựng thêm 30 trại giống vệ tinh có qui mô từ nông hộ đến tập trung ở các vùng nuôi với năng lực sản xuất từ 1 triệu con post trở lên và xây dựng hệ thống các trại trung chuyển giống để làm dịch vụ cung ứng giống cho ngư dân, từ đó đưa năng lực sản xuất giống của tỉnh tăng trên 105 triệu con post, phục vụ cho khoảng 1.500 ha nuôi tôm trong tỉnh. Ông Phan Thanh Tân, Chủ trại giống tôm xã Vĩnh Thạnh Trung huyện Châu Phú cho biết, hiện trại của ông sản xuất khoảng 3 triệu con post/ năm, nếu tham gia đề án xã hội hoá sản xuất giống tôm của tỉnh được vay vốn ưu đãi ông sẽ đầu tư thêm thiết bị mở rộng trang trại sẽ đưa năng lực sản xuất giống tăng lên nhiều hơn, cung cấp cho ngư dân trong vùng.

Ngoài ra Trung Tâm Nghiên Cứu & sản xuất thuỷ sản tỉnh còn chọn một số ngư dân thực hiện điểm trình diễn nuôi tôm. Anh Dương Thanh Tùng, ngụ xã Thạnh Mỹ Tây huyện Châu Phú cho biết, năm vừa qua 1,7 ha vuông tôm anh thả 120000 con giống thu hoạch trên 3,2 tấn tôm thịt bán lời cả trăm triệu đồng, vụ này tuy thả tôm giống ít hơn nhưng sản lượng tôm đạt nên lợi nhuận đạt rất cao, và mới đây anh nhận 23.000 con post của Trung tâm giống thuỷ sản tỉnh để thực hiện điểm trình diễn nhằm khuyến cáo nhân rộng mô hình nuôi tôm ở địa phương.

Chị Nguyễn Thị Ngọc Trinh, Giám đốc Trung tâm NC&SX giống TS tỉnh cho biết, Phương pháp tuyển chọn giống bố mẹ lâu nay của các trại giống là đến các hộ nuôi tôm lựa những con tôm cái mang trứng về kích dục cho đẻ cách làm nào sẽ tạo giống chất lượng không cao và khó kiểm soát dịch bệnh. Để khắc phục tình trạng trên Trung tâm Nghiên cứu & sản xuất giống thuỷ sản tỉnh đang triển khai xây dựng trại sản xuất 1 tấn tôm bố mẹ chất lượng cao, để cung cấp giống bố mẹ cho cho các trại giống trong tỉnh.

Đề án xã hội hoá sản xuất giống thuỷ sản tỉnh triển khai thực hiện vào đầu năm 2.007 tới sẽ đưa năng lực sản xuất giống của tỉnh tăng gấp 2,5 lần so với năm 2.006 và phấn đấu đến năm 2.010 tỉnh sẻ tăng trên 180 triệu đến 200 triệu con post phục vụ cho khoảng 3000 ha nuôi tôm, đây là tín hiệu vui cho ngư dân nuôi tôm của tỉnh An Giang.

Trung Liêm


Nga kiểm tra chất lượng cá tra, basa tại Việt Nam

Nguồn tin: VNN, 25/12/2006
Ngày cập nhật: 26/12/2006

 


Hậu Giang đầu tư 4 tỷ đồng nuôi 500ha cá thác lác thương phẩm

Nguồn tin: SGGP, 25/12/2006
Ngày cập nhật: 26/12/2006

Nông dân Hậu Giang thu hoạch cá thác lác thương phẩm

Sáng 25-12, ông Nguyễn Văn Đồng, Giám đốc Sở NN&PTNT Hậu Giang, cho biết: Tỉnh vừa khảo sát xong vùng nuôi cá thác lác thâm canh. Trong năm 2007 tỉnh sẽ triển khai đầu tư 4 tỷ đồng để nuôi 500ha cá thác lác thương phẩm. Trong năm 2006, Hậu Giang đã sản xuất 8 triệu con giống cá thác lác cung cấp cho ĐBSCL và các tỉnh miền Đông Nam bộ. Hậu Giang là tỉnh có diện tích nuôi cá thác lác lớn nhất ĐBSCL. Cá thác lác Hậu Giang được xem là ngon nhất trong vùng, trong đó ngon hơn cả cá thác lác U Minh và Campuchia – nhất là cá thác lá cườm.

C.H.P

 


Kiên Giang: sản lượng tôm nuôi tăng, chế biến xuất khẩu giảm

Nguồn tin: SGTT, 25/11/2006
Ngày cập nhật: 25/12/2006

Sản lượng tôm năm 2006 đạt 23.456 tấn là mức sản lượng tôm nuôi đạt cao nhất từ trước đến nay tại Kiên Giang. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này lại góp phần không nhiều cho kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Kiên Giang.

Nguyên nhân là do nguồn nguyên liệu “chảy” về một số tỉnh lân cận để chế biến; một số công ty ở các tỉnh khác mở nhà máy chế biến tại Kiên Giang nhưng lại không xuất khẩu tại Kiên Giang, trong khi đó ngành chế biến của địa phương thì đang gặp nhiều khó khăn nhưng chậm khắc phục.

Sản lượng tôm năm nay tăng này chủ yếu được nuôi công nghiệp, nhiều công ty áp dụng quy trình nuôi chất lượng sạch bệnh đảm bảo nguồn tôm nguyên liệu. Tôm có thể phát triển tốt trên vùng đất phèn tứ giác Long Xuyên thuộc tỉnh Kiên Giang là một tín hiệu đáng mừng với sản lượng 8 đến 10 tấn/ha (nuôi thâm canh và bán thâm canh) ngăn ngừa được dịch bệnh. Tôm là mặt hàng được xem là có giá trị nhất trong ngành thuỷ sản hiện nay với diện tích thả nuôi tăng gần 6.000 ha so với 2005, tương đương 72.736 ha.

Theo TTXVN

 


Kiên Giang: Triều cường gây thiệt hại hơn 600 ha nuôi sò huyết

Nguồn tin: NLĐ, 24/12/2006
Ngày cập nhật: 25/12/2006

Mới đây, ảnh hưởng của cơn bão số 9, các đợt triều cường đã gây thiệt hại hơn 600 ha nuôi sò huyết ở Kiên Giang.

Theo TTXVN, do mực nước dâng cao và tràn vào rừng phòng hộ ven biển đã làm cho sò huyết đang nuôi gần khu vực rừng phòng hộ ở Kiên Giang bị “sốc nước”và chết hàng loạt. Diện tích sò huyết bị “sốc nước” tại huyện An Minh (Kiên Giang) lên đến 622 ha. Hầu hết các vuông nuôi sò ở đây bị thiệt hại từ 60% đến 80%, có vuông bị mất trắng và ước tính thiệt hại khoảng 15 tỉ đồng. Thiệt hại nặng nề nhất là 151 hộ ở ấp Bần A, xã Thuận Hòa với diện tích 354 ha sò huyết đang chuẩn bị vào mùa thu hoạch trị giá khoảng 9 tỉ đồng.

B.T.D

 

 


Xuất khẩu cá tra, basa tới 65 thị trường

Nguồn tin: TTXVN, 24/12/2006
Ngày cập nhật: 25/12/2006

Ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng thư ký VASEP cho biết, năm 2006, mặt hàng cá tra, cá basa của Việt Nam đã được xuất khẩu tới 65 nước và vũng lãnh thổ (năm 2002 chỉ xuất khẩu tới 17 nước).

Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong năm đã đạt trên 660 triệu USD, trong đó thị trường EU chiếm gần 47%, Nga hơn 11%, Mỹ gần 10%, ASEAN khoảng 9%, Trung Quốc hơn 5%.

Mặc dù đang trong xu thế xuất khẩu khá thuận lợi, ông Dũng vẫn cảnh báo việc các nước nhập khẩu mặt hàng này yêu cầu ngày càng cao về an toàn thực phẩm, môi trường và khả năng truy nguyên nguồn gốc.

Trong khi đó chi phí sản xuất cá tra, ba sa (thức ăn, giống, dịch vụ...) đều tăng và việc vay vốn nóng, bán nóng của các hộ nuôi dễ dẫn tới khả năng rủi ro cao khi có biến động về giá./.

 


ĐBSCL: Giá cá tra, basa giảm

Nguồn tin: SGGP, 24/12/2006
Ngày cập nhật: 25/12/2006

Những ngày gần đây giá cá tra, basa ở ĐBSCL liên tục giảm. Sáng 24-12, thương lái ở Đồng Tháp, An Giang… mua cá tra nuôi hầm thịt trắng chỉ còn 14.100đ-14.300đ/kg; cá thịt vàng từ 12.300đ-12.500đ/kg… bình quân giảm từ 300đ-500đ/kg so với thời điểm đầu tháng 12.

Theo nhận định của các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, nguyên nhân cá giảm giá là do nhiều nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á… đã mua xong lượng hàng phục vụ Noel và Tết Dương lịch. Dự báo từ nay đến cuối năm sức tiêu thụ sẽ không tăng.

Điều đáng lo ngại là hiện nay nhiều địa phương ào ạt mở rộng diện tích nuôi cá tra, basa. Khả năng sang quý 1-2007 sẽ thừa nguyên liệu và cá rớt giá…

H.P.L

 


10 giải pháp phát triển bền vững nhóm sản phẩm cá ba sa

Nguồn tin: TT, 24/12/2006
Ngày cập nhật: 24/12/2006

 


Quản lý sức khỏe động vật thủy sản nước ngọt

Nguồn tin: VOV, 22/12/2006
Ngày cập nhật: 24/12/2006

Trong hai ngày 20 và 21/12, tại Lạng Sơn, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 tổ chức Hội thảo "Quản lý sức khỏe động vật thủy sản miền Bắc", nhằm khẳng định các kết quả nghiên cứu và đưa vào áp dụng rộng rãi trong cả nước.

Tại Hội thảo “Quản lý sức khỏe động vật thủy sản miền Bắc", các nhà khoa học đã trình bày quá trình và kết quả nghiên cứu các bệnh thủy sản thời gian vừa qua, với các nội dung như: Hiện trạng chiến lược phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt của Việt Nam; Bệnh ký sinh trùng trên cá nước ngọt; Vaccine cho cá nuôi nước ngọt; Bệnh do nấm trên cá nước ngọt. Các cán bộ nghiên cứu của dự án NORAD cũng trình bày các kết quả ứng dụng qui trình phòng trị bệnh cá nước ngọt... Đây là những vấn đề được các nhà khoa học và nuôi trồng thủy sản quan tâm, vì nó góp phần vào việc thực hiện mục tiêu đạt 2 triệu tấn thủy sản vào năm 2010.

Những năm gần đây dịch bệnh thuỷ sản xảy ra rất nghiêm trọng và ngày càng có chiều hướng gia tăng. Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Ngoài ra, do bà con không hiểu biết nhiều về qui trình phòng, trị bệnh cho cá, nên dẫn đến tình trạng sử dụng kháng sinh, hóa chất không đúng cách. Điều này dẫn đến môi trường nuôi trồng thủy sản bị suy thoái, tạo hệ vi sinh vật gây bệnh cho người và vật nuôi kháng thuốc, dư lượng hóa chất kháng sinh không đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng trong nước và qui định của những nhà nhập khẩu.

Để hạn chế và hỗ trợ người nuôi cá yên tâm đầu tư sản xuất, được sự hỗ trợ kinh phí của chính phủ Na Uy - Dự án NORAD, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 1 đã tiến hành nghiên cứu tác nhân gây bệnh và biện pháp phòng trị để phổ biến cho người dân. Sau một thời gian nghiên cứu đã thu được kết quả nhất định. Nam Định, Thái Nguyên, Hoà Bình, Nghệ An là những địa phương đã được NORAD tiến hành thử nghiệm kết quả nghiên cứu trong thời gian vừa qua./.

Trần Đình Luân


Tiên Lãng thu hoạch 7500 tấn thủy sản trong năm 2006

Nguồn tin: Haûi Phoøng, 24/12/2006
Ngày cập nhật: 24/12/2006

 


TPHCM: Vườn mai, ao cá của người dân mất trắng vì triều cường

Nguồn tin: VNN, 23/12/2006
Ngày cập nhật: 24/12/2006

 


Săn ghẹ mùa biển động

Nguồn tin: TP, 23/12/2006
Ngày cập nhật: 24/12/2006

Bao đời nay, ngư dân ở thôn Phước Lý (thị trấn Sông Cầu, Phú Yên), mưu sinh bằng nghề đánh bắt ghẹ trên đầm Cù Mông và vịnh Xuân Đài… Phía sau những đĩa ghẹ luộc đỏ bày bán ở các nhà hàng là mồ hôi, nhọc nhằn…

Phải hẹn tới, hẹn lui mấy lần, anh Dương Ngọc Hồng mới đồng ý cho tôi theo anh ra vịnh Xuân Đài đi “săn” ghẹ. Lý do anh Hồng đưa ra là bây giờ đang mùa biển động, thời tiết bất thường, rất nguy hiểm cho những người không quen sóng gió như tôi.

Xuất phát tại bến lúc 16 giờ, sau khi lót dạ bằng bánh mì, chúng tôi chuẩn bị sẵn đồ nghề để khởi hành, hòa cùng 50 chiếc sõng nan (loại thuyền nhỏ ở vùng này) đi bắt ghẹ.

Đa số đã vào nghề đánh bắt ghẹ từ 2 năm trở lên, tôi là “lính mới” nên được anh Hồng ưu ái giao việc ngồi trên sõng bỏ mồi vào nhá. Nhá là loại dụng cụ được làm bằng sắt theo hình vòng tròn, đường kính khoảng 50cm, phía dưới đan lưới, có một thanh sắt chắn ngang để gắn mồi nhử ghẹ vào.

Bên trên được giữ thăng bằng bằng 4 sợi dây, có phao xốp nổi lên mặt nước để đánh dấu và phân biệt nhá của người này với người khác. Để làm được một cái nhá, người đi nhử ghẹ bỏ 3.500 đồng để mua nguyên vật liệu. Bình quân mỗi ngày, một người có thể làm từ 20-30 cái nhá.

Sau 2 giờ rời bến Phước Lý, chúng tôi đã cách bờ 3km, lúc này vịnh Xuân Đài đã ken dày những chiếc sõng nan của dân đi bắt ghẹ. Để chuẩn bị cho chuyến đi này, anh Hồng bỏ 30.000 đồng để mua chình biển làm mồi và ngâm cho tanh để dụ ghẹ vào.

Trước khi đưa nhá xuống mặt nước, phải lần lượt gài từng miếng mồi vào và cứ cách 5m, chúng tôi thả một cái nhá theo đường thẳng để dễ đánh dấu. Sau 2 giờ đồng hồ, 100 cái nhá mang theo trên sõng đã được thả hết.

Cứ một lượt nhá thả xong, chúng tôi bắt đầu đi thăm nhá một lần, vừa để coi có chú ghẹ nào lọt lưới không, vừa bỏ thêm mồi để nhử tiếp. Chiếc sõng nan chòng chành trên mặt vịnh.

Gió thổi càng lúc càng mạnh, thỉnh thoảng một vài con sóng tạt vào sõng, khiến tôi có cảm giác lạnh người. Sau mấy lượt đi vòng, chúng tôi kéo nhá lên khỏi mặt nước, mà chẳng phát hiện được chú ghẹ nào. Anh Hồng tỏ vẻ thất vọng: “Chỗ này cạn quá, ghẹ ít lắm!”.

Theo những người có thâm niên trong nghề, thì nhá phải đánh ở tất cả các nơi nông sâu mới nhử được ghẹ... Anh Hồng cho sõng ra xa một chút rồi lại tiếp tục thả nhá.

Xong, chúng tôi tấp sõng vào một chỗ nghỉ xả hơi. Bấy giờ, bóng tối đã bao trùm khắp vịnh. Những chiếc sõng đi đánh bắt ghẹ cũng bắt đầu thu hoạch. Họ vừa chèo vừa giở nhá, tóm những con ghẹ màu xanh tươi rói, hai càng to chắc khỏe như hai gọng kìm. Tôi mừng quýnh, vội lấy máy ra, nhưng chiếc sõng cứ lắc lư, không tài nào chụp ảnh được…

Vừa bơi sõng, vừa thả nhá, đánh lưới để bắt ghẹ gần 6 tiếng đồng hồ, mọi người đã thấm mệt. Anh Hồng cho sõng tấp vào mé đá, mọi người ngồi hút thuốc, dùng cơm.

Tay chân ai nấy đã lạnh cóng. Tôi hỏi sao các anh không dùng nhiều nhá, nhiều lưới để đánh thì có thêm cơ hội kiếm được nhiều ghẹ. Họ nói: “Tiền không đủ xài, mình đi thế này đầu tư ban đầu cũng đã tốn mấy triệu rồi, tiền đâu nữa mà trang bị thêm đồ nghề”.

Anh Ly, người có thâm niên 7 năm trong nghề, và cũng là một tay “sát ghẹ” có hạng, cho biết: Ghẹ sống dưới đáy rạng san hô, nơi có độ sâu từ 3 đến 5 mét.

Đánh bắt ghẹ lý tưởng nhất là vào mùa biển lặng (từ tháng 11 đến tháng 3 và từ tháng 8 đến tháng 10 âm lịch). Dân hành nghề đông nhất là ở Phước Lý, mỗi ngày có đến hàng trăm người ra vịnh Xuân Đài hoặc đầm Cù Mông nhử ghẹ.

Để nhử ghẹ, người ta thường dùng các phương tiện như giã cào, dùng vợt, vừa bơi xuồng, vừa vớt hoặc dùng lưới. Nhưng đại đa số người dân ở Phước Lý đều dùng nhá.

Ghẹ có nhiều loại. Ghẹ xanh xuất hiện khá phổ biến ở Sông Cầu, Tuy An. Ghẹ xanh ưa thích sống ở vùng nước có độ mặn 25-31‰ và thường sống ở độ sâu từ 4 - 10 thước, ở những vịnh, đầm có đáy là cát, cát bùn và cát bùn có san hô chết.

Ngoài ghẹ xanh, còn có ghẹ đốm, ghẹ cát và ghẹ ba chấm, ghẹ ba mắt... Mùa sinh sản của ghẹ kéo dài quanh năm, nhưng thời gian ghẹ ôm trứng nhiều nhất là từ tháng 2 đến tháng 4.

Cũng như các loài cua biển, sau khi nở, ấu trùng ghẹ phải qua nhiều lần lột vỏ và biến thái mới trở thành ghẹ giống. Đến mùa sinh sản, ghẹ kết thành đàn nơi có độ mặn 30 - 34‰ để đẻ trứng.

Nhọc nhằn mưu sinh

Cùng làm nghề đánh bắt ghẹ với anh Hồng còn có hàng trăm người khác ở thôn Phước Lý và vùng lân cận. Người thì dùng nhá, người thì dùng lưới. Những chiếc giã cào cũng tham gia vào nghề này nên sản lượng ghẹ giảm đi rõ rệt.

Anh Huỳnh Văn Quyến, một người “săn” ghẹ bằng lưới, cho biết: “Tôi làm nghề này được 7 năm. Trước kia cũng đánh bằng nhá, nhưng sau này thấy năng suất không cao nên tôi đầu tư thêm tiền chuyển qua dùng lưới. Một tấm lưới khoảng 170.000 đồng, đầu tư gần 1,5 triệu đồng mới mua được 9 tấm lưới chuyên dùng để đánh bắt ghẹ”.

Anh Quyến than phiền: “Trước đây, chúng tôi có thể sống với nghề. Nhưng từ khi có phương tiện giã cào tham gia, chúng tôi không kiếm được là bao. Chính giã cào làm ảnh hưởng đến việc sinh sôi phát triển của ghẹ.

Cách đây mấy năm, mỗi đêm tôi thu nhập từ 100.000-150.000 đồng thì nay khá lắm cũng chỉ kiếm được từ 30.000-50.000 đồng.

Lão ngư Huỳnh Văn Tôn đã cả đời làm nghề, nay lớn tuổi, ông truyền nghề lại cho các con. “Nếu không làm nghề này, thì cả thôn Phước Lý sẽ đói” - Ông Tôn nói.

Cũng theo ông Tôn, để sống được với nghề, ngoài sự kiên trì, ngư dân phải có sức khỏe để chịu đựng sương gió. Đây là nghề thu nhập bấp bênh và phụ thuộc vào thủy triều lên xuống.

Có những chuyến đi trúng mánh, nhưng cũng có bữa về tay không. Người vào nghề phải đầu tư từ 2-3 triệu đồng ban đầu để sắm dụng cụ gồm: sõng, nhá, đèn soi, vợt… Làm ăn được thì sau 2 tháng sẽ lấy lại vốn. Không gặp may thì chưa biết đến khi nào mới hoàn vốn. Anh Hồng cho biết thêm: Có người khi thả nhá xong, quay lại thì chẳng thấy nhá của mình đâu cả. Do nước cuốn đi, hoặc người khác lấy lộn. Thế là mất cả chì lẫn chài. Cũng theo anh Hồng, muốn bắt được nhiều ghẹ, người đi nhử phải biết căn cứ vào thủy triều, vào từng con nước lên xuống để đoán được nơi ở của ghẹ.

Ngoài việc săn ghẹ, thỉnh thoảng anh em còn “vô mánh” tôm hùm giống, cá mú... Nhờ vậy mà thu nhập cũng tăng thêm. Bình quân mỗi ngày đêm có thể thu hoạch từ 2 –3 kg ghẹ, mỗi kg bán ra từ 13.000-45.000 đồng tùy thời điểm.

Theo lời ông Danh, Trưởng thôn Phước Lý, thì hiện trong thôn có khoảng 100 người làm nghề đánh bắt ghẹ.

Còn ông Lương Công Tuấn, Trưởng phòng Kinh tế huyện Sông Cầu cho biết thêm: “Cách đây khoảng 4 năm, chúng tôi có phối hợp với Trung tâm Thủy sản 3 đưa ghẹ giống về nuôi thử nghiệm ở xã Xuân Hòa. Tuy nhiên, mô hình này không hiệu quả, do con giống không thích nghi với môi trường”. Ông Tuấn cũng cho biết, đánh bắt ghẹ ở vịnh Xuân Đài, đầm Cù Mông là nghề tự phát, huyện không quản lý và thu thuế.

Phóng sự của Văn Tài

 


Sản lượng nuôi cá tra có khả năng tăng mạnh

Nguồn tin: AG, 22/12/2006
Ngày cập nhật: 24/12/2006

Điều tra mới đây của ngành Nông nghiệp cho thấy, tình hình nuôi thủy sản trong tỉnh đang phát triển trở lại, nhất là nuôi cá tra. Do nhu cầu tiêu thụ cá đang tăng cao, vì thiếu nguyên liệu chế biến đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tăng và giá đứng ở mức cao… nên có khả năng người nuôi sẽ tăng mạnh số lượng và sản lượng nuôi cá tra trong vòng vài tháng tới đây. Do vậy, có thể lại tiếp tục diễn ra tình trạng khủng hoảng thừa nguyên liệu cá và tác động gây ô nhiễm môi trường nước.

Năm 2006, sản lượng thủy sản trong tỉnh ước đạt gần 182 ngàn tấn.

QUANG DUY


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang