Cà Mau: Cá kèo trúng mùa, được giá
Nguồn tin: Vasep, 23/1/2007
Ngày cập nhật: 24/1/2007
Mấy ngày qua, người dân vùng nuôi tôm ở Cà Mau rất phấn khởi vì vụ cá kèo năm nay vừa trúng mùa, lại bán được giá cao...
Theo nhiều hộ dân ở xã Tam Giang Đông, huyện Năm Căn cho biết, mỗi hécta mặt ao ở đây có thể bắt được từ 30 - 50 kg cá kèo trong một đêm. Với giá cá kèo bán tại vuông khoảng 33.000 đến 35.000 đ/kg, mỗi hộ gia đình có từ 3-4 ha mặt ao có thể thu được từ 3-7 triệu đồng/đêm.
Tăng cường năng lực quản lý ngành thủy sản
Nguồn tin: NLĐ, 23/01/2007
Ngày cập nhật: 24/1/2007
Ðào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất thủy sản
Nguồn tin: Nhân Dân, 23/1/2007
Ngày cập nhật: 24/1/2007
Ngày 15-11-2006, Trường cao đẳng Thủy sản (Bộ Thủy sản) được thành lập trên cơ sở nâng cấp Trường trung cấp Thủy sản 4, đánh dấu bước phát triển mới về công tác đào tạo nguồn nhân lực của ngành thủy sản. Trước yêu cầu mới của sản xuất thủy sản, công tác đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao trở nên rất cần thiết.
Phong trào nuôi trồng thủy sản (NTTS) phát triển rộng khắp cả ba miền, tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu người dân. Ðến hết năm 2006, diện tích NTTS của cả nước lên đến 1.050.000 ha; trong đó, 465 nghìn ha nước ngọt, 585 nghìn ha nước mặn, lợ. Mặc dù vậy, phát triển NTTS trong những năm qua chưa thật sự bền vững. Một số nơi vẫn xảy ra tình trạng tôm, cá bị chết khiến cho nhiều người dân lâm vào cảnh nợ nần. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do người nuôi thiếu kiến thức về NTTS; hệ thống khuyến ngư các cấp, nhất là cấp huyện, xã còn yếu và thiếu nghiêm trọng; cán bộ quản lý chuyên ngành thủy sản ở các cấp còn thiếu nhiều. Ðể phát triển NTTS đạt hiệu quả bền vững, Bộ Thủy sản chủ trương đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới của sản xuất thủy sản.
Trường trung cấp Thủy sản 4 trước đây đã nỗ lực đào tạo lao động cho ngành thủy sản từ hệ trung cấp đến công nhân kỹ thuật với các chuyên ngành NTTS nước ngọt và mặn, thú y thủy sản, hạch toán kế toán, kế toán-tin, kỹ thuật viên tin học. Sinh viên sau khi tốt nghiệp có tay nghề vững vàng, được các đơn vị, doanh nghiệp sản xuất thủy sản đánh giá cao, tiếp nhận làm việc, với mức lương thỏa đáng. Từ năm 2000 đến nay, phong trào chuyển diện tích ruộng trũng trồng lúa, cói và làm muối kém hiệu quả sang NTTS phát triển mạnh mẽ. Trước yêu cầu mới của sản xuất, Trường trung cấp Thủy sản 4 phối hợp các địa phương tổ chức các lớp đào tạo công nhân NTTS ngắn hạn cho nông dân. Thông qua các lớp học này, nông dân nắm vững kiến thức về áp dụng thành công trong sản xuất thủy sản. Ðồng chí Nguyễn Văn Lan (Trung ương Hội làm vườn Việt Nam) nhận xét: "Từ nhiều năm nay, Hội làm vườn phối hợp trường tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật cho nông dân. Thông qua các lớp tập huấn này, nông dân được trang bị kiến thức, nên nuôi thủy sản đạt hiệu quả cao. Gần đây nhất, chúng tôi phối hợp trường tổ chức lớp tập huấn kỹ thuật NTTS tại xã Kim Trung (Kim Sơn, Ninh Bình) đã thu hút hầu hết các hộ nuôi tôm tham gia. Qua lớp học này, người dân mới biết vì sao tôm nuôi liên tục bị chết. Ðến nay, họ đã biết vận dụng kiến thức đã học vào NTTS đạt hiệu quả. Theo tôi, việc đào tạo ngắn hạn về kiến thức NTTS của Trường trung cấp Thủy sản 4 rất có hiệu quả. Mỗi năm chúng tôi phối hợp trường tổ chức hàng trăm lớp tập huấn kỹ thuật NTTS cho hàng nghìn nông dân". Giám đốc Trung tâm khuyến nông tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Văn Tuế cho biết: "Những năm gần gây, phong trào NTTS trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh. Vì thế, nhu cầu tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất rất lớn. Trong khi đó, cán bộ chuyên ngành về thủy sản cấp tỉnh, huyện, xã rất thiếu. Vì vậy, chúng tôi phối hợp chặt chẽ Trường trung cấp Thủy sản 4 trước đây và nay là Trường cao đẳng Thủy sản tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn về NTTS cho nông dân". Anh Nguyễn Văn Biền, nông dân xã Bảo Khê (Kim Ðộng, Hưng Yên) kể về lớp đào tạo ngắn hạn do Trung tâm thủy sản tỉnh phối hợp Trường trung cấp Thủy sản 4 tổ chức: "Lúc đầu tôi và một số anh em khác còn do dự chưa muốn tham gia. Nhưng học rồi mới thấy cần thiết, vì cách giảng dạy của giáo viên rất đơn giản nhưng thiết thực. Tôi đã nắm vững và áp dụng quy trình kỹ thuật nuôi, phòng bệnh một số giống cá nước ngọt. Hai năm nay, tôi nuôi cá đều có lãi, điều kiện kinh tế gia đình khá hơn trước rất nhiều".
Cùng với việc không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, Trường trung cấp Thủy sản 4 còn đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất. Hằng năm, trường đều tiếp nhận các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học của Bộ Thủy sản và các bộ, ngành khác. Với hai trại thực nghiệm NTTS nước ngọt tại xã Ðình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), nước mặn tại xã Minh Thành (Yên Hưng, Quảng Ninh), đã giải quyết tốt vấn đề đào tạo gắn thực tiễn, ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất thủy sản. Năm 2006, trường đã tiếp nhận công nghệ sản xuất giống cá bơn vỉ, cá chim vây vàng, cá sủ đen, cá cảnh Lan Thọ. Ðến nay, trường đã thuần dưỡng và cho đẻ thành công nhiều giống cá biển, đáp ứng kịp thời nhu cầu giống thủy sản bảo đảm chất lượng cho các địa phương. Trong những năm qua, Bộ Thủy sản đặc biệt quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và thiết bị giảng dạy, phòng thí nghiệm cho trường, với gần 100 tỷ đồng trong sáu năm (2001-2006).
Theo Hiệu trưởng Trường cao đẳng Thủy sản Nguyễn Văn Việt, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là yếu tố tiên quyết để nâng cao chất lượng đào tạo. Trong nhiều năm, trường đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên theo hướng đủ về số lượng và đồng bộ về cơ cấu. Hiện trường có 67 giáo viên, trong đó có 37 giáo viên có trình độ sau đại học. Trong nhiều năm, trường đều được Bộ Thủy sản tặng bằng khen do có thành tích xuất sắc trong công tác đào tạo nguồn nhân lực. Bộ trưởng Thủy sản Tạ Quang Ngọc đánh giá: "Ngành thủy sản tuy còn những hạn chế nhất định, trước mắt vẫn còn không ít khó khăn và thách thức, nhưng có thể nói rằng, với 20 năm đổi mới, chúng ta rất tự hào về những gì ngành thủy sản đã có và đạt được. Hơn ai hết những người làm công tác giáo dục đào tạo phải nhìn thấy vị trí, vai trò của mình mà phấn đấu, để đóng góp tốt và tốt hơn nữa cho ngành phát triển, cho sản xuất và đời sống của bà con ngư dân.
Trong những năm tới, Trường cao đẳng Thủy sản tập trung đào tạo các chuyên ngành về thủy sản ở các bậc công nhân kỹ thuật, trung cấp, cao đẳng và đại học tại chức. Hiệu trưởng Nguyễn Văn Việt cho biết thêm: Ðể thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho ngành thủy sản, trường tập trung đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tư duy, sáng tạo trong sinh viên; từng bước giảm thời lượng học lý thuyết, tăng thời lượng thực hành; gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học; tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm; mở rộng hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học với các cơ quan, đơn vị trong nước và ngoài nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất thủy sản.
TẠ QUANG DŨNG
Giá cá tra, ba sa đạt mức kỷ lục
Nguồn tin: TBKTVN, 22/01/2007
Ngày cập nhật: 24/1/2007
Nhập công nghệ sản xuất giống thuỷ sản
Nguồn tin: TTXVN, 23/01/2007
Ngày cập nhật: 24/1/2007
Năm nay, Trung tâm Khuyến ngư quốc gia sẽ nhập 10 công nghệ sản xuất các loại giống thủy sản nhằm chủ động nguồn giống, nâng cao chất lượng nuôi trồng và hiệu quả kinh doanh.
Các công nghệ được nhập về gồm công nghệ sản xuất giống cá bớp, hầu, tôm càng xanh, sò huyết, cá đối mục, cá sủ đen, ngao lụa, cá cảnh Lan Thọ, cá tầm Trung Hoa và cá hồng chấm.
Trung tâm Khuyến ngư cũng sẽ đa dạng hóa cơ cấu đàn giống thủy sản nuôi thông qua việc nhập khẩu các loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao; tích cực ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất giống thuỷ sản nước ngoài trong điều kiện môi sinh ở Việt Nam, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản./.
Tỷ phú trên núi
Nguồn tin: ND, 22/1/2007
Ngày cập nhật: 23/1/2007
Rời thành phố Điện Biên, hai vợ chồng lên đỉnh đèo Hoàng Liên Sơn thuộc địa phận xã Bình Lũ, huyện Tam Đường, Lai Châu nơi đỉnh đèo heo hút, đất đai khô cằn, chỉ có cỏ dại để lập nghiệp. Có lẽ ngay từ những ngày đầu, đôi vợ chồng này đã nhen nhóm ý tưởng về một trang trại trồng rừng kết hợp với chăn nuôi đại gia súc.
Năm 2000, trên đỉnh đèo Hoàng Liên Sơn xuất hiện một ngôi nhà nhỏ nằm chênh vênh giữa sườn núi, đó là ngôi nhà của anh Trần Văn Yên và chị Hoàng Thị Sinh. Rời thành phố Điện Biên, hai vợ chồng lên đỉnh đèo Hoàng Liên Sơn thuộc địa phận xã Bình Lũ, huyện Tam Đường, Lai Châu nơi đỉnh đèo heo hút, đất đai khô cằn, chỉ có cỏ dại để lập nghiệp. Có lẽ ngay từ những ngày đầu, đôi vợ chồng này đã nhen nhóm ý tưởng về một trang trại trồng rừng kết hợp với chăn nuôi đại gia súc.
Ý tưởng lập trang trại
Sau hơn một giờ đồng hồ đi thăm toàn bộ trang trại nhà anh, chén rượu Sùng Phài của gia đình gia chủ giúp chúng tôi xua đi được cái lạnh căm căm nơi đỉnh đèo heo hút gió. Được hỏi về kinh nghiệm lập trang trại, anh mỉm cười nói: mình có kinh nghiệm gì đâu, cái chính là phải học hỏi, học cách làm của người này, của người kia. Sau đó lại chắt lọc, lựa chọn xem kinh nghiệm nào có thể áp dụng vào thực tế địa phương mình. Và thực tế trên đỉnh đèo này chỉ có trồng thông là phù hợp, chính vì vậy, anh đã nhận trồng hơn 200ha. Thông là loại cây dễ trồng, thích nghi được với điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Cứ như vậy, cả gia đình cùng làm, làm không hết thì lại thuê. Ngày ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, gần 3 năm sau, rừng thông đã cao ngang đầu người, tỷ lệ cây sống đạt trên 80%. Lúc này anh mới có điều kiện thực hiện được ý tưởng chăn nuôi đại gia súc của mình. Anh mua chịu đàn bò gần 30 con của một người cùng xã. Ngày mới mua, đàn bò không được chủ chăm sóc nên gầy yếu, vợ chồng anh lo lắm. Song, lúc ấy nguồn vốn cạn kiệt, lại được mua chịu nên hai vợ chồng thay nhau chăm sóc. Bổ sung thêm nguồn thức ăn, tiêm phòng cẩn thận, chỉ hơn ba tháng sau đàn bò đã khác hẳn, được ăn no con nào con ấy béo mập, lông vàng xuộm khỏe mạnh. Bây giờ hàng ngày, anh chỉ việc lùa hơn trăm con bò lên rừng, tối lùa về chuồng, mỗi năm thu về trên trăm triệu đồng từ bán bò.
Và con đường trở thành tỷ phú
Có lẽ bước ngoặt lớn nhất trong cuộc sống của đôi vợ chồng đầy bản lĩnh này chính là lần sang Sa Pa mua bò giống. Trong lần đi ấy, chiếc xe bị hỏng, ghé chân vào quán nước bên đường, được nghe người chủ quán kể về chuyện người dân nơi đây làm giàu từ nuôi cá hồi. Nhận thấy đặc điểm tự nhiên nơi này không khác mấy so với nơi mình ở, hai vợ chồng quyết định đi thăm quan một vài mô hình rồi về nuôi thí điểm. Anh chị tìm đến Trung tâm Nghiên cứu cá nước lạnh (thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thuỷ sản Trung ương 1) tại Sa Pa để học kỹ thuật chăn thả. Nhưng do vốn đầu tư lớn, kỹ thuật chăn thả cao nên gia đình anh đã chủ động liên hệ với Trung tâm Thuỷ sản tỉnh (thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) hỗ trợ, giúp đỡ.
Được Trung tâm Thủy sản đồng ý hỗ trợ 100% giống, vật tư thức ăn, thuốc phòng bệnh cho cá, đồng thời cử hai cán bộ xuống cùng gia đình hàng ngày theo dõi mô hình, sau ba tháng chăn nuôi đúng quy trình kỹ thuật, lứa cá đầu tiên đã thành công. 500 con cá hồi thí điểm của gia đình anh bán đi cho thu lãi trên 34 triệu đồng.
Ưu điểm của việc nuôi cá hồi là thời gian sinh trưởng ngắn, thị trường tiêu thụ rộng, khách hàng tìm đến tận nơi thu mua, không phải lo đầu ra. Nhận thấy tiềm năng, triển vọng của mô hình, anh đã bàn với chị bán hết nhà cửa, đất ở Điện Biên, vay thêm vốn ngân hàng đầu tư mở rộng diện tích nuôi cá hồi.
Cứ như vậy, vừa làm vừa học hỏi kinh nghiệm từ các hộ nuôi cá ở Sa Pa, vừa tham khảo thêm tài liệu hướng dẫn… đến nay, gia đình anh đã tăng diện tích bể nuôi lên 3.000m2; thả trên 6.000 con cá hồi. Hiện tại, trung bình mỗi con được gần 1kg, chỉ khoảng hơn tháng nữa là cho thu hoạch. Tôi nhẩm tính, với giá dao động từ 150 đến 200 nghìn đồng/kg thì bán lứa cá này ít nhất cũng thu được 500 triệu đồng. Ngày đầu mới lên đỉnh Hoàng Liên Sơn sinh sống, hai vợ chồng anh chỉ có chút vốn từ khoanh nuôi, bảo vệ rừng, vậy mà sau sáu năm lập nghiệp ở vùng đất này, tổng số tài sản của gia đình anh chị hiện có hơn một tỷ, tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 15 lao động địa phương (với mức lương trung bình 1 triệu đồng/tháng); 40 – 50 lao động hợp đồng theo thời vụ.
Chia tay những con người nơi đây, chúng tôi một lần nữa tin rằng, đói nghèo không phải là một bài toán nan giải, cái chính là ở quyết tâm của mỗi người.
Thương mại
Xuất khẩu cá tra, cá ba sa năm 2007: Phấn đấu vượt ngưỡng 1 tỷ USD
Nguồn tin: SGGP, 23/01/2007
Ngày cập nhật: 23/1/2007
Cần ngăn chặn nuôi tôm ở ven biển cửa Đà Rằng
Nguồn tin: LĐ, 22/01/2007
Ngày cập nhật: 23/1/2007
Hiện nay, một số hộ dân đầu tư xây dựng nhiều hồ nuôi tôm sú ở ngay ven biển nằm sát cửa sông Đà Rằng.
Điều đáng nói là họ san ủi mặt bằng thành hố sâu, nham nhở và lấn ra biển, gây sạt lở và mất mỹ quan vùng ven biển đô thị thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên. Chính quyền địa phương cần sớm kiểm tra và có biện pháp ngăn chặn kịp thời để trả lại môi trường tự nhiên ở vùng ven biển này.
Phước Lộc
May mùng… nuôi cá
Nguồn tin: SGGP, 22/01/2007
Ngày cập nhật: 23/1/2007
Hiện nay nhiều tỉnh ở khu vực ĐBSCL như: Bạc Liêu, Sóc Trăng, Hậu Giang... đang phát triển rầm rộ phong trào nuôi cá lóc, cá trê bằng cách… giăng mùng lưới. Mức lãi bình quân của mỗi mùng cá lóc dao động từ 10-15 triệu đồng và cá trê là 2 triệu đồng nhưng người nuôi rất an tâm, không sợ lỗ hay phải thường xuyên đối mặt với giá cả thất thường như con tôm sú.
Không cần nhiều vốn
Anh Trần Hòa Thoại ở ấp 7, thị trấn Ngã Năm (huyện Ngã Năm, Sóc Trăng) đang chăm sóc cá lóc nuôi trong mùng lưới
Với lợi thế của vùng nước ngọt ổn định quanh năm nên hàng trăm hộ ở huyện Ngã Năm (Sóc Trăng), Phước Long, Hồng Dân (Bạc Liêu) và huyện Long Mỹ (Hậu Giang).... đã dùng lưới cước may thành hàng ngàn cái mùng thả xuống sông nuôi cá.
Một thuận lợi đầu tiên đối với người nuôi cá là không tốn chi phí đầu tư cải tạo hoặc đào mới ao, đìa mà chỉ cần khoảng 100.000 – 150.000đ là may được một cái mùng, diện tích từ 9m2-12m2 để thả nuôi 3.000 – 4.000 con cá lóc/mùng.
Anh Trần Hòa Thoại ở ấp 7, thị trấn Ngã Năm, huyện Ngã Năm (Sóc Trăng), cho biết: “Sau 4 tháng thả nuôi bằng nguồn thức ăn chủ yếu là cá tạp, cá vụn hoặc ốc bươu vàng... cá lóc nuôi trong mùng đạt trọng lượng thấp nhất là 0,6kg/con và cao nhất là 1,4kg/con.
Bình quân một mùng lưới cũng thu hoạch được 1,5 tấn cá lóc thương phẩm”. Theo tính toán của anh, trừ chi phí con giống (350đ/con) và tiền thức ăn thì lãi ròng thu được khoảng 15 triệu đồng/mùng bởi giá cá lóc (loại 2 con/kg) giá thấp nhất ngoài thị trường hiện nay cũng 22.000đ/kg.
Cũng may mùng thả xuống sông nuôi cá lóc như anh Thoại nhưng ông Tám Hòa ở xã Ninh Quới A, huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) chọn cách lấy công làm lời để tăng thêm lãi. Ông bắt ốc bươu vàng và cá tạp ngoài đồng về nuôi cá lóc. Với cách làm này, mỗi mùng cá lóc của ông cho lợi nhuận thêm từ 2-3 triệu đồng.
Theo anh Thoại, một kinh nghiệm không thể bỏ qua đối với nghề nuôi cá trong mùng lưới là đáy mùng phải được giăng cao hơn đáy sông từ 3-4 tấc, để phòng cua cắn rách lưới. Ngoài ra, vì cá lóc phóng rất cao nên miệng mùng phải cao hơn mặt nước 1,5m, nếu cá quá lớn thì dùng lưới thưa đậy phía trên.
Mô hình thoát nghèo
Từ thành công của mô hình nuôi cá lóc, đến nay hàng trăm hộ nghèo ở ĐBSCL đã đầu tư nuôi cá trê trong mùng lưới để góp phần… xóa đói giảm nghèo. Có thể nói, đây là mô hình khá thuận lợi cho người nghèo, vì vốn đầu tư không cao.
Ông Út Lâm ở ấp Tân Bình, xã Long Bình, huyện Ngã Năm (Sóc Trăng) cho biết, mỗi mùng lưới rộng 9m2, ông thả được 5kg cá trê giống (khoảng 2.000 con, giá cá trê giống chỉ 40.000đ/kg), tính ra chỉ tốn khoảng 300.000đ. Nếu như cá lóc nuôi mất 4 tháng và chi phí đầu tư thức ăn tương đối nhiều thì cá trê chỉ cần 2 tháng là có thể thu hoạch. Trừ chi phí thu lãi ròng khoảng 2 triệu đồng/mùng.
Chính vì áp dụng mô hình này đã giúp cho cuộc sống của gia đình anh Nguyễn Văn Hậu, huyện Ngã Năm (Sóc Trăng) đã không còn cảnh chạy gạo từng bữa như trước. Hiện nay anh cũng không đi đào đất mướn, mà công việc hàng ngày là nấu cháo cho cá ăn và chăm sóc đàn cá trê trong mùng lưới giăng trên sông.
Theo anh Hậu, mỗi mùng cá trê 2.000 con chỉ cần nấu một nồi cháo 4 lon sữa bò gạo tấm là đủ cho cá ăn 3 lần/ngày nên chi phí rất thấp. “Thấy lời ít, lãi chậm như vậy mà rất chắc ăn, không sợ lỗ như nuôi tôm”, anh Hậu đúc kết kinh nghiệm.
HỒNG DÂN
Cty TNHH Hùng Vương (Tiền Giang) mở rộng ký kết hợp đồng bao tiêu cá tra, cá ba sa với nông dân
Nguồn tin: LĐ, 22/01/2007
Ngày cập nhật: 22/1/2007
Công ty TNHH Bối Ngọc (Bến Tre): Dự án nuôi cấy ngọc trai màu xuất khẩu rất cần sự hỗ trợ của địa phương
Nguồn tin: SGGP, 09/01/2007
Ngày cập nhật: 22/1/2007
Ngày 28 – 12 – 2006, SGGP nhận được “Đơn kêu cứu” của bà Nguyễn Thị Thu Cúc – Giám đốc Công ty TNHH Bối Ngọc (tỉnh Bến Tre) phản ánh về nguy cơ phá sản một “Dự án nuôi cấy ngọc trai màu xuất khẩu”, do doanh nghiệp làm chủ đầu tư vì một số nguyên nhân khách quan không đáng có.…
Hoan nghênh sự ưu đãi cho một dự án kinh tế khả thi
Theo Quyết định số 2270/QĐ-UB của UBND tỉnh Bến Tre vào ngày 27 – 6 – 2002 về việc: thu hồi và cho Công ty TNHH Bối Ngọc nuôi thủy sản thuê đất để xây dựng và khai thác nuôi cấy ngọc trai màu tại xã Tiên Long – huyện Châu Thành, thì Công ty Bối Ngọc được phép thuê phần đất 40.927 m2 (Cồn Cát Tiên) thuộc lô 1252, 1253, 1254, 1255, 1256, tờ bản đồ số 4, xã Tiên Long do Công ty Du lịch quản lý từ năm 1997 đến nay không có nhu cầu sử dụng, để xây dựng nuôi trồng thủy sản và ngọc trai màu theo “Dự án nuôi cấy ngọc trai màu xuất khẩu”.
Theo Giấy chứng nhận số 1090/CN-UB của UBND tỉnh Bến Tre vào ngày 23 – 08 – 2002, Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho Công ty TNHH Bối Ngọc (số 166C4 Nguyễn Huệ, P. Phú Khương, TX Bến Tre), thì Công ty Bối Ngọc được hưởng một số ưu đãi lớn: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm đầu từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn 2 năm tiếp theo do thực hiện dự án đầu tư nuôi cấy ngọc trai màu mang lại, được miễn tiền thuê đất 3 năm kể từ ngày ký hợp đồng thuê đất, được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%, được miễn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung cho phần thu nhập cao tăng thêm do thực hiện dự án nuôi cấy ngọc trai màu mang lại, được vay tín dụng trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển hoặc được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư theo quy định, để xây dựng Dự án thành công theo đúng mục đích ban đầu. Đây là những ưu đãi lớn của chính quyền địa phương tỉnh Bến Tre nhằm thu hút đầu tư bên ngoài, cần được phát huy tốt hơn nữa.
Nhưng... dự án có nguy cơ phá sản, vì sao?
Qua “Đơn kêu cứu”, bà Nguyễn Thị Thu Cúc bày tỏ mong muốn chính quyền địa phương quan tâm hơn nữa để “Dự án nuôi cấy ngọc trai màu xuất khẩu” được triển khai và phát triển theo đúng mục đích kế hoạch. Bà cho biết: “Với diện tích 40.927 m2 ban đầu được tỉnh cho thuê để khai thác, chúng tôi đang thực hiện theo đúng những điều khoản đã cam kết.
Do nhu cầu cần thiết mở rộng diện tích nuôi thủy sản và cũng để bảo vệ môi trường cho khu vực nuôi cấy ngọc trai, chúng tôi có làm đơn trình các cấp chính quyền phê duyệt cho công ty mở rộng diện tích mặt nước từ đê ra 50m quanh Cồn Cát Tiên nhưng chưa thấy hồi âm. Trong khi đó, chúng tôi nhận thấy 2 nhà đầu tư khác đang tiến hành khai thác tại hai đầu của khu vực trên để sử dụng theo mục đích chưa xác định rõ.
Việc làm này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính khả thi của dự án (có thể dự án sẽ bị phá sản), đưa chúng tôi rơi vào thế bị động về môi trường khai thác, mà chúng tôi đã được tỉnh phê duyệt và cấp giấy chứng nhận ưu đãi. Chúng tôi nhiều lần lên tiếng về vấn đề này nhưng chưa nhận được sự can thiệp hợp lý nào từ phía địa phương. Ngày 9 – 1 – 2006 chúng tôi đã ký kết bảng ghi nhớ về chuyển giao công nghệ xử lý ngọc trai (để đạt 90% sản lượng sau thu hoạch) với một đối tác Nhật Bản”.
Được biết, Công ty Bối Ngọc đã nuôi cấy thử nghiệm và thành công 6.000 con giống trên diện tích 5.000 m2. “Dự án nuôi cấy ngọc trai màu xuất khẩu” sẽ mở rộng diện tích, trong đó: diện tích mặt nước xung quanh đê được chia làm 3 khu: khu nuôi dưỡng, khu tạo ngọc, khu nhân giống và diện tích trên cồn dùng để xây dựng khu phục vụ và bảo vệ (7.000m2), trồng cây ăn trái 25.000m2, nuôi cá bống tượng, tai tượng, điêu hồng: 15.000m2 để lấy ngắn nuôi dài.
Như vậy, ngay từ khi xây dựng kế hoạch Dự án, Công ty Bối Ngọc đã đề cập đến vai trò vô cùng quan trọng của vành đai xung quanh đê cồn cát. Nếu bây giờ, khu vực xung quanh đê cồn cát được đơn vị khác khai thác sử dụng thì hậu quả gây ra đối với một dự án khả thi mà được tỉnh ưu đãi rất lớn sẽ đi về đâu. Từ đó, liệu các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư kinh tế vào tỉnh Bến Tre có thật sự an tâm (?!). Nên chăng tạo mọi điều kiện thuận lợi để một “viên ngọc” tỏa sáng.
PHƯƠNG LĨNH – NGUYÊN XUÂN
Cá kèo giảm giá do “đụng” chợ
Nguồn tin: SGGP, 21/01/2007
Ngày cập nhật: 22/1/2007
Sáng nay, lượng cá rô đồng, cá rô phi và cá sặc từ các tỉnh Cà Mau, Đồng Tháp, Long An… về các chợ lẻ ở TPHCM đột ngột tăng vọt.
Các loại cá trên sáng nay được tiêu thụ khá mạnh, dù giá có hơi cao so với các loại cá đồng khác. Cá rô loại ngon nhất, khoảng 6-7 con/kg giá 50.000đ đến 55.000đ/kg; cá sặc, cá rô phi loại 8-10 con/kg có trứng, giá 35.000đ đến 90.000đ/kg.
Do “đụng” phải cá rô, cá sặc... nên cá kèo sáng nay giá đột ngột rớt giá chỉ còn 55.000đ/kg, giảm 10.000đ/kg.
Nông dân đồng bằng sông Cửu Long: Khó chồng lên khó!
Nguồn tin: BCT, 20/1/2007
Ngày cập nhật: 22/1/2007
Thời tiết bất thường, dịch lở mồm long móng trên gia súc còn tiềm ẩn ở một số địa phương; dịch cúm gia cầm (DCGC) đang tái phát và có nguy cơ ngày càng lan rộng; gần đây cá tra nuôi chết hàng loạt ở Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang… Nhiều nông dân, nhất là những người chăn nuôi gia súc gia cầm ở ĐBSCL đang đối mặt với nhiều khó khăn, rất cần được Nhà nước hỗ trợ.
NUÔI CÁ… KHÔNG DỄ GIÀU
Tình trạng cá tra giống chết hàng loạt ở huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp) đầu tháng 1-2007 đã làm người nuôi cá điêu đứng. Ông Nguyễn Văn Sứ, ở xã Phú Thuận A, thả nuôi trên 100.000 cá tra giống, được hơn 1 tháng tuổi, cá đột ngột chết nổi trắng hầm. Chỉ vài ngày, lượng cá hao hụt hơn 60%, thiệt hại khoảng 50 triệu đồng. Ông Lê Văn Châu, ở xã Long Khánh A, thả nuôi hơn 150.000 cá tra giống gần 1 tháng tuổi, cũng bị chết hàng loạt, ước thiệt hại gần 100 triệu đồng. Ông Lê Văn Châu cho biết: “Cá tra giống năm nay chết nhiều do thời tiết bất thường, ký sinh trùng trong ao phát triển mạnh tấn công đàn cá giống. Mặc dù tôi cố gắng chữa trị nhiều cách nhưng kết quả không khả quan”.
Theo Chi cục Thủy sản Đồng Tháp, cá tra giống gần đây chết nhiều do thời tiết giao mùa, mưa, lạnh bất thường; do nguồn nước bị ảnh hưởng sau khi xuống giống lúa đông xuân; một số hộ nuôi với mật độ cao; một số cơ sở xử lý ao nuôi chưa triệt để theo khuyến cáo... Bên cạnh đó, cá tra giống còn bị bệnh ký sinh trùng như: trùng bánh xe, sán lá đơn chủ, đỏ đầu, mỏ, lở loét, gan, thận có mủ... Ông Nguyễn Văn Mẫn, Phó Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Hồng Ngự, cho biết: Huyện hiện có trên 50 cơ sở sản xuất cá tra giống, mỗi năm cung cấp cho thị trường các tỉnh ĐBSCL trên 500 triệu con cá giống. Các cơ sở này hầu hết do tư nhân tự đầu tư, tự làm, tự học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Thời gian qua, cá chết không chỉ do ảnh hưởng chất lượng con giống bố mẹ mà còn do nhiều người dân chưa nắm được kỹ thuật chăn nuôi như: xử lý ao, thức ăn, quản lý nguồn nước, cách chữa trị. Thêm vào đó, khi cá bị bệnh, nhiều người tự tìm cách chữa trị chứ không báo với cơ quan chức năng để hỗ trợ.
Tình trạng cá nuôi chết liên tục cũng xảy ra ở nhiều địa phương trong tỉnh An Giang. Tại các vùng nuôi chính thuộc các huyện: Phú Tân, Châu Phú, có nơi lượng cá hao hụt lên trên 50%. Nhiều hộ nuôi không biết kêu cứu với ai khi giống đã thả xuống ao nuôi. Tại huyện Phú Tân, nhiều đàn cá thương phẩm gần đến kỳ thu hoạch cũng chết. Ông Võ Minh Lộ, một người nuôi cá tại Phú Bình (Phú Tân), than thở: “Mỗi ngày chết khoảng 100 con. Tình trạng này kéo dài chắc hết hầm, coi như phá sản!”. Theo ông Lý Công Tâm, Chi hội trưởng Chi hội nuôi cá xã Hòa Lạc, cá chết chủ yếu do nhiều người nuôi không chọn lựa kỹ con giống nên khi mua về thả nuôi tỷ lệ hao hụt ban đầu đã trên 20%, có nơi lên đến 40%. Riêng các hộ nuôi tự phát, do hạn chế kỹ thuật nên cá chết nhiều khi thời tiết thay đổi”.
Còn ông Trần Bá Phước, một người nuôi cá tại Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), cho biết: “Gần đây, do giá cá nguyên liệu tăng liên tục nên bà con đã thu gom giống. Các cơ sở giống ép cá chưa đúng chu kỳ nên con giống yếu. Thời tiết thay đổi cũng làm cá phát bệnh và chết liên tục. Nhiều hầm tại khu vực này nếu thả con giống nhỏ, hao hụt từ 50-60%, một số ít hơn cũng hao trên 30%. Trong khi hầu hết các hộ nuôi chỉ có khả năng chủ động vốn khoảng 50%, còn lại phải vay ngân hàng khoảng 30%, một số hộ đi vay nóng bên ngoài hơn 2% để đầu tư nuôi cá”.
Sau thất bát trong vụ nuôi năm 2005, đã có trên 30% hộ nuôi cá ở An Giang phải bán bè, bỏ nghề. Giờ với giá cá tăng cao, nhiều hộ đã quay lại với con cá và hy vọng trả hết nợ... Nhưng, tình trạng cá chết như hiện nay đã đẩy nhiều người nuôi cá vào cảnh nợ chồng thêm nợ, thậm chí đứng bên bờ vực phá sản.
T. TÂM - B. NGUYÊN - T. NGUYỄN
Mỡ cá... hóa dầu!
Nguồn tin: TT, 22/01/2007
Ngày cập nhật: 22/1/2007
Nam Bộ: Tình hình mặn sẽ rất căng thẳng trong mùa khô này
Nguồn tin: TN, 20/01/2007
Ngày cập nhật: 22/1/2007
Xao xác làng tôm hùm Cam Bình
Nguồn tin: KH, 20/01/2007
Ngày cập nhật: 21/1/2007
Con tôm hùm ở xã đảo Cam Bình - Cam Ranh đã một thời nuôi sống người dân, làm thay đổi diện mạo vùng đảo nghèo này. Đặc biệt, tôm hùm ở thôn đảo Bình Ba đã góp phần làm giàu cho người dân nơi đây. Vậy mà bây giờ, khi người dân kỳ vọng nhiều nhất, nó lại “ngoảnh mặt làm ngơ”… Ở 2 thôn Bình Ba và Bình An (Cam Bình - Khánh Hoà), tôm hùm lần lượt chết. Người dân đang điêu đứng vì không có cách nào “cứu” tôm.
° Đìu hiu… làng đảo
Những chuyến đò về, người nuôi tôm hùm ở Cam Bình lại “trông tin...”.
… Tôi lên chuyến đò sớm để đến xã đảo Cam Bình. Đợi khách hồi lâu, ông Hiệp quyết định cho đò rời cảng Đá Bạc (thị xã Cam Ranh) hướng về Cam Bình. So với những lần đi trước, con đò 3 lốc của ông Hiệp hôm nay chở không đầy. Tôi lân la đến cạnh buồng lái, cùng ông trò chuyện để quãng đường đò ngắn hơn. Chân thành và cởi mở, ông kể về cuộc đời đưa đò của mình như chi tiết khởi đầu để giúp tôi hiểu rõ hơn về vùng đất này: Ngày trước, người dân Cam Bình nghèo lắm! Cuộc sống chỉ dựa vào đánh bắt thủy sản gần bờ, được gì ăn nấy. Nhưng rồi một ngày, nuôi tôm hùm bỗng trở nên hiệu quả, thu lại lợi nhuận cao nên người dân địa phương tập trung coi đây là nguồn kinh tế chủ lực. Dần dà, thủy sản gần bờ cũng cạn kiệt. Một số gia đình sắm ghe lớn vươn ra khơi, số còn lại quay về đầu tư vào con tôm hùm. Nghề nuôi tôm hùm phát triển ở Cam Bình ngày càng mạnh. Cuộc sống người dân sung túc hơn… Nhưng gần mấy chục năm chạy đò, ông Hiệp chưa bao giờ thấy những chuyến ghe nào cám cảnh như bây giờ. Ông cho biết: “Thời điểm này, ai chạy đò cũng… đói. Chở hàng và người không đủ phí tổn nói gì đến chuyện có của ăn, của để. Chú cứ về Bình Ba, Bình An mà xem, con tôm hùm chết hàng loạt kia kìa!”. “Tại sao?” - tôi hỏi. Như cởi tấm lòng, ông Hiệp than: “Tôm chết nhưng chưa tìm được nguyên nhân. Tôm hùm mà chết nhiều thì dân đói. Những người đưa đò như tôi cũng đói”. Ông giải thích: “Con tôm hùm chết, người dân sẽ cụt vốn. Vì thế, không ai dám tiêu pha gì nhiều, không dám mua nhiều thức ăn cho tôm, không dám sắm sửa trong nhà, không dám qua đò để đi du ngoạn… Đò tôi chở ai, chở cái gì đây?”. Hàng loạt từ “không dám” và nhiều câu hỏi không có lời đáp kéo dài suốt hành trình.
Gần 2 giờ đồng hồ vật lộn với sóng gió, Bình Ba - trung tâm xã Cam Bình hiện ra trước mắt tôi với những dãy nhà kiên cố san sát nhau. Cách đây gần 3 năm, tôi cũng đã từng đến Bình Ba; nhưng hôm nay, Bình Ba đã đổi khác. Những ngôi nhà kiên cố mọc lên nhiều hơn. Được biết, từ năm 2004 - 2006, người dân Bình Ba bội thu tôm hùm, tích lũy được vốn liếng nên xây dựng nhà cửa khang trang, sắm sửa nội thất có giá trị. Cũng như lần trước, tôi ghé thăm ông Nguyễn Mười. Nhà ông không có gì thay đổi, nhưng ông không còn đảm nhận trách nhiệm trưởng thôn (vì tuổi đã cao). Với bề dày gần 10 năm làm trưởng thôn, chính quyền xã quyết định giao cho ông quản lý chợ bán thức ăn tôm hùm. Nhiệm vụ của ông là thu lệ phí chợ. Ông tâm sự: “Xã cho tôi quản lý chợ thức ăn tôm để có đồng ra đồng vào khi về nghỉ. Gần 2 năm rồi, hàng ngày cứ 4 giờ sáng, tôi ra chợ sắp xếp chỗ ngồi cho những người bán thức ăn tôm, đến 8 giờ sáng khi chợ tan thì quét dọn, rửa sàn chợ cho sạch. Từ lệ phí này, gia đình tôi sống cũng tốt”. Nhưng đó chỉ là thời gian trước; còn bây giờ, ông cũng phải chạy vạy, lo lắng. Vì người nuôi tôm không mua thức ăn thì chợ ít người bán, tiền lệ phí ông thu được sẽ ít đi… Nghĩ đến chuyện này, ông cũng buồn như người nuôi tôm; bởi lẽ giờ đây, xét một phương diện nào đó, lệ phí chợ là nguồn thu nhập chính của gia đình ông. Nhưng, ông còn may mắn hơn những người nuôi tôm. Họ đã bỏ vốn xuống biển để rồi chôn vùi theo dịch bệnh của con tôm. Trước đây, cả làng đảo suốt ngày văng vẳng tiếng karaoke, tiếng chơi bi-a chạm vào nhau lách cách; hoặc đâu đó, những người ngồi bên ly cà phê bàn chuyện đầu tư nuôi tôm hùm. Còn bây giờ, sự náo nhiệt, sôi động ấy không còn.
° Cầu mong “Hoa Đà tái thế”
Nghề nuôi tôm hùm phải đầu tư vốn lớn. Vậy nên khi tôm chết, người nuôi cụt vốn là chuyện đương nhiên. Ở Cam Bình không đơn giản chỉ là chuyện cụt vốn. Tôm chết sẽ kéo theo miếng cơm, manh áo của những người “ăn theo” nghề nuôi tôm hùm. Những nghề “ăn theo” rất vô hình nhưng góp phần quan trọng để người nuôi tôm an tâm làm ăn. Những người kéo xe, bán nước, bán thức ăn tôm, bán gas… đều góp phần “lo” cho người nuôi tôm. Vì thế, con tôm bị dịch bệnh, cả làng đều điêu đứng. Được biết, những năm trước, tôm hùm Bình Ba thắng to nên vụ tôm này, người dân kỳ vọng nhiều vào nó. Họ đầu tư vốn lớn; thậm chí, nhiều người huy động vốn đầu tư gấp đôi. Nhưng đến giờ này, dịch bệnh tôm đã làm cho bà con “dở sống, dở chết”. Ông Mười buồn buồn nói: “Tôm chết không còn là chuyện bình thường ở làng này. Giờ đây, những người nuôi tôm ra đường gặp nhau không cười nổi. Hầu như mỗi ngày từ bè tôm, người nuôi đều mang về một vài con tôm hùm, hi hữu lắm mới có ngày không chết con nào. Ngay cả thằng con rể tôi, hôm nào ra bè về mà mặt nó hớn hở là tôi biết tôm không chết, còn hôm nào mặt mày ỉu xìu thì hôm đó cả nhà lại ăn… tôm”. Cuộc đời kể cũng lạ, chưa bao giờ người nuôi tôm dám bắt tôm hùm lên để cải thiện bữa ăn. Vậy mà giờ đây, phải ăn tôm hùm đến phát ngấy.
Trên hòn đảo nhỏ này, nhiều người đã sinh ra, lớn lên và làm giàu từ con tôm hùm. Nhiều người đã từng đi báo cáo điển hình nông dân sản xuất giỏi từ con tôm. Nhưng chỉ một lần dịch bệnh như thế này, ai cũng xác xơ. Ngày trước, ông Ngô Minh Phường (thôn Bình Ba) từng đại diện người dân trong thôn đi báo cáo điển hình tiên tiến về sản xuất giỏi với mức thu nhập từ tôm mỗi năm khoảng 200 triệu đồng. Nhưng giờ đây, chỉ mới chết 1/3 số tôm trong bè, ông đã mất trắng gần 400 triệu đồng. Phát dịch hơn 3 tháng nay, những người dân có tôm bị chết nhiều coi như đã trắng tay. Phần lớn các bè còn lại, lượng tôm đã chết đến 1/3…
Theo tuyến đường trung tâm xã, tôi vượt qua con dốc dài đến thôn Bình An, một thôn nhỏ nằm nép mình bên bờ biển cách trung tâm Bình Ba khoảng gần 1km. Đây cũng là thôn dịch bệnh tôm hùm đang lan rộng. Trong thôn, một số hộ nuôi tôm hùm đã bán tôm non để hạn chế thiệt hại. Số còn lại vẫn cố giữ và cầu mong dịch bệnh qua đi để có thể còn thu hồi được vốn. 3 tháng nay, người nuôi tôm ở 2 thôn Bình Ba và Bình An đều làm “thầy lang cho tôm” để trị bệnh cầu may. Hễ ai bày phương thuốc gì là họ làm nấy, nhưng dịch bệnh cứ diễn ra. Triệu chứng bệnh của tôm là đỏ thân, khi chết chảy ra nước đục. Giờ đây, người nuôi tôm chỉ cầu mong “Hoa Đà tái thế”…
Vệ sinh lồng sau khi bán non tôm hùm.
Nét u buồn của làng tôm cùng tiền tỷ của Nhà nước đã cho dân vay nuôi tôm hùm có nguy cơ không thu hồi được…
***
Ngày ngày, những chuyến đò chạy đều qua các bè tôm để về bến. Như đã lập trình sẵn, người dân trên bè và bà con trong thôn lại kéo ra trông ngóng. Không phải để đón những chuyến hàng (như trước đây) mà trông chờ một kết luận xác đáng, chi tiết của cơ quan chức năng về dịch bệnh và giải pháp di dời tôm, giúp người dân khắc phục thiệt hại, không gieo rắc dịch bệnh sang những vùng nuôi khác. Vậy mà đã hơn 3 tháng kể từ khi có dịch bệnh, người dân xã đảo Cam Bình vẫn ngày ngày “theo lịch đò” tập trung… ngóng trông về hướng đất liền!?…
HOÀNG TRIỀU
Cần Thơ: Nuôi trồng thuỷ sản giúp tiêu diệt hơn 10.000 tấn ốc bươu vàng mỗi năm
Nguồn tin: LĐ, 20/01/2007
Ngày cập nhật: 21/1/2007
Chi cục Thuỷ sản TP cho biết ngày 19.1: Phong trào nuôi trồng thuỷ sản đang phát triển mạnh ở nông thôn ngoại thành.
Các mô hình không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cao (nuôi tôm càng xanh đạt 0,9 - 3 tấn/ha, thu lãi 20-90 triệu đồng/vụ; nuôi cá rô đồng, lóc, trê 36-150 tấn/ha, 64-300 triệu đồng/vụ...) mà còn tạo việc làm cho hơn 4.000 người bắt ốc bươu vàng làm thức ăn cho tôm, cá hơn 10.000 tấn mỗi năm, tiết kiệm chi phí sử dụng hoá chất tới hàng tỉ đồng.
L.V.T
Dự án khổ... dân
Nguồn tin: SGGP, 19/01/2007
Ngày cập nhật: 21/1/2007
Dự án “Chuyển đổi vùng lúa nhiễm mặn sang nuôi trồng thủy hải sản” của UBND xã Nam Điền, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định gặp phải phản ứng kịch liệt của bà con nông dân. Họ cho rằng mình bị ép phải bỏ lúa để đồng loạt nuôi thủy hải sản trong khi đó, tôm cua thì chết và người nuôi khóc ròng. Đâu là sự thật?
Tôm chết, nhà cũng đi tong...
Không khí ngột ngạt bao trùm nhà ông Trần Văn Phú - đội 2, khi bà con nông dân xã Nam Điền tranh nhau bày tỏ nỗi niềm với chúng tôi: “Nhà Vinh - Huyễn đã phải bỏ làng rồi, chú ạ! Cũng chỉ tại tôm với chả tiếc... Giờ thì ngôi nhà của họ đã bị ngân hàng hóa giá 120 triệu đồng” - bà Trần Thị Hồng (đội 2) kể.
Hậu quả từ việc nuôi thủy sản ồ ạt trên vùng đất mới Nam Điền đã hiển hiện trước mắt. Bạc triệu bỏ ra thả giống tôm, cua nhưng nguồn lợi thu lại chẳng là bao, có gia đình còn mất trắng. Thả giống xuống nhưng đến khi thu hoạch: tôm thì bị bệnh đốm trắng, phù mang; cua thì bệnh héo gối (chân, càng tự nhiên teo lại) và chết.
Muốn có vốn nuôi tôm, người ta phải cầm sổ đỏ đến ngân hàng thế chấp, cá biệt có người “máu mê” như ông Bảo, ông Ban ở đội 3 đã mượn thêm cả sổ đỏ của họ hàng gửi ngân hàng để vay vốn ăn thua với những tôm cùng cua. Giờ đây, khi công nợ đã ngập đầu, đầm tôm, cua không có thu hoạch mà vẫn cứ phải bám trụ để mong gỡ gạc. “Nghề phụ không có, chỉ trông vào mấy sào lúa, tôm trong đầm chết sạch thì biết đến bao giờ mới trả hết nợ ngân hàng và vay lãi của tư nhân” - anh Trần Văn Đông - người đang gửi cả sổ đỏ của bố mẹ vào ngân hàng - nghẹn ngào.
Đồng cảnh ấy, gia đình bà Trần Thị Hồng còn định bỏ đi vào miền Nam, để nhà cửa cho ngân hàng… xử lý. Gia đình bà Hồng nuôi một hồ tôm, bỏ tiền giống má gần 20 triệu đồng nhưng khi thu hoạch chỉ được 870.000 đồng. Đầm tôm của bà được rao bán giá rẻ hơn 30 triệu đồng so với thời điểm bỏ thầu nhưng cũng chẳng ai thiết tha.
…Vì nhanh nhẩu, đoảng
Theo tìm hiểu của chúng tôi, Dự án “Chuyển đổi vùng lúa nhiễm mặn sang nuôi trồng thủy hải sản” được UBND tỉnh Nam Định phê duyệt theo Quyết định số 1781/QĐ, ngày 29-7-2002 với tổng vốn đầu tư là 11 tỷ 379 triệu đồng, triển khai trên diện tích chuyển đổi là 210 ha, thuộc địa bàn đội 1, 2, 3, 4, 10 của xã Nam Điền, huyện Nghĩa Hưng. Tuy nhiên, chủ đầu tư là UBND xã Nam Điền tỏ ra lúng túng khi triển khai một trọng trách quá tầm của mình.
Lẽ ra dự án được thực hiện từ năm 2002 - 2004 nhưng đến tận trong đầu năm 2006 mới được triển khai và đưa vào nuôi thả 37 ha nằm ở ven chân đê bao quanh xã.
Sự non kém còn thể hiện khi UBND xã vì nôn nóng nên đã ép dân phải chuyển đổi 100% diện tích trồng lúa sang nuôi tôm ngay, trong khi chưa hội đủ các khảo sát khoa học. Ngoài ra, “UBND xã còn tự động đưa mức giá đền bù 50-70kg thóc/sào/vụ nếu người dân nào đồng ý để người nuôi tôm sử dụng mảnh ruộng của mình, trong khi chưa thông qua UBND huyện” - ông Trần Đức Vượng, Phó Chủ tịch UBND huyện Nghĩa Hưng cho biết.
Trong khi còn chưa thuyết phục được người dân, chủ dự án đã nhanh, nhẩu, đoảng xây dựng một loạt hạng mục công trình kênh KT1. Trong khi dòng kênh vẫn chưa được đào thì những chiếc cầu, cống đầu mối đã được hoàn tất trên tổng diện tích 210 ha… càng làm bà con khẳng định rằng lãnh đạo xã chủ ý đưa họ vào thế đã rồi. Ngoài ra, gần 700m của tuyến kênh KT2 (thuộc đội 10), phải nắn vào hành lang an toàn của thân đê để tránh phần đất của những hộ dân chưa đồng ý di dời.
Bà Nguyễn Thị Tộ (72 tuổi) bức xúc: “Lúa chết thì còn trồng được, chứ tôm chết thì lấy đâu ra tiền mà phục hồi lại sản xuất mà cứ ép phải làm. Chúng tôi chỉ trông vào 1,5 sào ruộng/nhân khẩu để sống thôi…”. Đã vậy, nhìn lại, trong những năm gần đây, thổ nhưỡng của vùng đất nhiễm mặn này ngày càng được cải thiện nên năng suất lúa năm sau đã cao hơn năm trước, sản lượng bình quân đạt 5-6 tạ thóc/sào/năm; vậy nên người dân càng có cớ để ác cảm với dự án đáng lo này.
Người dân phải được làm chủ ruộng đồng
Làm việc với chúng tôi, ông Trần Đức Vượng, Phó Chủ tịch UBND huyện Nghĩa Hưng cho biết: “Dự án nuôi trồng thủy sản trên vùng đất nhiễm mặn ở xã Nam Điền nhằm nâng cao đời sống của người dân. Tuy nhiên, khi triển khai gặp rất nhiều bất cập như: chủ dự án tỏ ra yếu kém khi lập và xét duyệt dự án, do “lạc quan chủ nghĩa” nên chỉ nghĩ đến thành công chứ không lường trước được những rủi ro”.
Trên thực tế, 37 ha ruộng làm ao nuôi tôm thí điểm thất bại liên tiếp 2 vụ đã khiến một số người dân ở đội 1 trắng tay, nợ nần chồng chất, có người đã phải bỏ quê đi nơi khác kiếm sống. Trong khi đó, đằng thẳng ra, họ vẫn sống no đủ nếu trồng lúa.
Đến tận bây giờ, UBND xã Nam Điền mới thừa nhận sai lầm của mình và tìm cách gỡ rối. Lãnh đạo 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) của tỉnh Nam Định đã thống nhất, mục tiêu trước mắt của dự án là tập trung hỗ trợ người dân về kỹ thuật để nuôi thủy sản ở khu vực 37 ha đã chuyển đổi. Nếu dân thấy lợi ích kinh tế mang lại, tự nguyện chuyển đổi thì sẽ tiếp tục, còn nếu không thì dự án sẽ kết thúc tại đây.
Vậy là đã rõ, chỉ vì nhanh nhẩu, đoảng (và cũng là vì muốn chạy theo thành tích (?)) mà UBND xã Nam Điền, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định đã cho ra đời một dự án “oán lòng dân” rồi đến giờ lại tất tưởi đi giải quyết hậu quả. Đúng là mua dây buộc mình!
TRUNG HIỀN - TUẤN HOÀNG
Ngành thủy sản cần có cách làm ăn lớn trên biển
Nguồn tin: VOV, 16/01/2007
Ngày cập nhật: 21/1/2007
Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng: Đến năm 2010, ngành thuỷ sản phấn đấu xuất khẩu đạt 4,5-5 tỷ USD; nâng cao lượng hàng hoá tiêu dùng nội địa; tổ chức các hải đoàn đánh bắt lớn trên biển...
Tại Hội nghị tổng kết năm 2006 của Bộ Thuỷ sản diễn ra sáng nay (16/1), Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng chúc mừng các kết quả ngành thuỷ sản đạt được trong năm qua, đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, cải thiện đời sống nhân dân. Phó Thủ tướng cũng nêu ra một số nhiệm vụ quan trọng cho ngành từ nay đến 2010: “Từ nay đến 2010, ngành thuỷ sản phấn đấu xuất khẩu đạt 4,5 đến 5 tỷ USD. Điều này có nghĩa là ngành tạo ra một lượng hàng hoá nhất định và giải quyết việc làm cho hơn 3 triệu lao động trong ngành thủy sản. Thứ hai, ngành tập trung vào việc nâng cao lượng hàng hoá cho người tiêu dùng trong nước, hiện nay tiêu dùng nội địa được trên 1 triệu tấn, phấn đấu đến 2010 con số này lên khoảng 3 triệu tấn”.
Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cũng lưu ý ngành thuỷ sản cần tập trung vào việc giải quyết giống thuỷ sản, qui hoạch vùng nuôi, chế biến, nghiên cứu khoa học ứng dụng, tổ chức khai thác kinh tế biển. Phó Thủ tướng đặc biệt lưu ý đến vấn đề khai thác: “Phấn đấu đến năm 2010, Việt Nam phấn đấu có những hải đoàn khai thác lớn, khai thác gắn liền với bảo vệ môi trường. Vừa khai thác vừa chế biến liên hoàn trên biển để bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm”.
Báo cáo do Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng đọc tại Hội nghị nêu rõ: Năm 2006, thị trường xuất khẩu thuỷ sản vẫn gặp nhiều khó khăn và thách thức nhưng xuất khẩu thuỷ sản vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu sản phẩm, cơ cấu thị trường chuyển dịch theo hướng tích cực. Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản đã chủ động chuyển hướng thị trường, vừa giữ được các thị trường truyền thống, vừa mở rộng phát triển các thị trường mới. Cơ cấu thị trường xuất khẩu có chuyển biến về tỷ trọng tại các thị trường chính: Nhật Bản 25,3%, EU 21,6%, Hoa Kỳ 19,9%... so với năm 2005: Nhật Bản 30%, EU 16%, Hoa Kỳ 23%.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu có chuyển biến tích cực. Tôm vẫn là sản phẩm chủ lực, về giá trị chiếm 44,3%, cá đông lạnh 33,8% (so với năm 2005, tôm 51%, cá 24%). Sản phẩm cá tra và ba sa có mức tăng trưởng rất nhanh, xuất khẩu ước đạt 250 ngàn tấn với giá trị ước đạt 750 triệu USD. Nét mới của xuất khẩu thuỷ sản năm nay là cá tra, ba sa được tiêu thụ mạnh ở EU và Đông Âu, cho thấy triển vọng của các thị trường này về tiêu thụ cá tra, ba sa. Xuất khẩu năm 2006 của toàn ngành ước đạt 3,3 tỷ USD.
Nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng thêm 15.600 ha, đưa tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản của cả nước ước đạt trên 1 triệu ha.
Sản xuất giống thuỷ sản đã cơ bản đáp ứng nhu cầu về lượng. Cả nước đã sản xuất 20 tỷ cá giống và 25 tỷ tôm giống. Tuy nhiên, chất lượng tôm giống vẫn chưa được kiểm soát, quản lý tốt, chưa xây dựng được thương hiệu giống thuỷ sản từng vùng.
Năm 2007, ngành thuỷ sản phấn đấu đạt tổng sản lượng 3,8 triệu tấn; giá trị xuất khẩu đạt 3,6 triệu USD (tăng 7,02%% so với năm 2006)./.
Vũ Hạnh
Nhiều mô hình khuyến ngư trở thành điểm sáng để nhân rộng
Nguồn tin: VOV, 18/01/2007
Ngày cập nhật: 21/1/2007
Hàng năm Trung tâm khuyến ngư Quốc gia (Bộ Thủy sản) dành hơn 70% kinh phí cho các mô hình trình diễn. Riêng năm 2006, Trung tâm đã xây dựng được 952 mô hình cho gần 12 ngàn nông, ngư hộ tham gia.
Nhiều mô hình trở thành điểm sáng để phổ biến, nhân rộng trong sản xuất như mô hình nuôi tôm càng xanh ở Lào Cai (đạt tỷ lệ sống 59%, cỡ tôm thu hoạch đạt 30-35 gam/con, năng suất đạt 1,59 tấn/ha), mô hình nuôi cá tra miền núi (đạt tỷ lệ sống trên 83%, cỡ cá thu hoạch 0,8 kg, năng suất đạt 16,6 tấn/ha) và hàng loạt các mô hình khác như: nuôi tôm thẻ chân trắng ở miền Trung, cá dò, ốc hương, tu hài, điệp, cá song, tôm hùm... tạo nhiều công ăn việc làm và nguồn hàng xuất khẩu.
Ông Nguyễn Huy Điền - Phó Giám đốc Trung tâm khuyến ngư quốc gia cho biết: "Các mô hình khai thác mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế hỗ trợ tài chính chưa phù hợp nên số lượng triển khai còn rất ít, nhưng nhìn chung đã thực sự là mô hình mẫu, các điểm sáng và có tính nhân rộng cao, đem lại hiệu quả thiết thực phục vụ sản xuất".
Đối với các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, công tác khuyến ngư đã góp phần xây dựng những mô hình phù hợp với trình độ kỹ thuật và tiềm năng kinh tế của người dân, làm thay đổi nhận thức của người dân; khơi dậy phong trào phát triển nuôi trồng thủy sản, tạo nguồn thực phẩm tuơi sống tại chỗ nâng cao đời sống nhân dân.
Hoạt động khuyến ngư hiện nay chủ yếu là tập huấn kỹ thuật cho người nuôi thông qua mô hình trình diễn. Do thiếu nhiều trang thiết bị, nhất là dụng cụ quản lý môi trường nên hạn chế việc hỗ trợ kỹ thuật cho người dân./.
Vũ H
Cà Mau: có khoảng 80% cơ sở chưa đủ điều kiện kinh doanh thức ăn, thuốc thú y thủy sản
Nguồn tin: CM-CRT, 19/1/2007
Ngày cập nhật: 20/1/2007
Chi cục Quản lí chất lượng, An toàn vệ sinh & Thú Y Thủy sản Cà Mau cho biết: Hiện nay, toàn tỉnh có trên 140 cơ sở kinh doanh mặt hàng thức ăn, thuốc thú y thủy sản.
Qua kiểm tra các cơ sở kinh doanh trên thì có 80% cơ sở chưa đủ điều kiện kinh doanh và có 25% cơ sở chưa đảm bảo vệ sinh thú y theo quy định. Nguyên nhân chủ yếu là do không có giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề và trình độ chuyên môn. Phần lớn, các cơ sở này thuê bằng cấp hành nghề để hợp thức hóa trong kinh doanh. Bên cạnh đó, một số cơ sở còn kinh doanh chung nhiều loại hàng hóa khác nhau; nơi bảo quản thức ăn và thuốc thú y chưa đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y theo quy định.
Trong thời gian tới, Chi cục QLCL, ATVS&TYTS Cà Mau thường xuyên mở lớp tập huấn kiến thức chuyên môn cho chủ các cơ sở kinh doanh. Nhằm góp phần đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh đối với người nuôi thủy sản./.
Tuyết Anh
Sản xuất không bền vững: Hệ lụy khó tránh!
Nguồn tin: BCT, 19/1/2007
Ngày cập nhật: 20/1/2007
1 - Những ngày qua, người nuôi cá tra, ba sa ở nhiều địa phương vùng ĐBSCL lại mất ăn mất ngủ vì cá đột ngột phình bụng chết nổi “trắng” mặt ao. Nguyên nhân cá chết được xác định là do ô nhiễm môi trường nuôi, nông dân lạm dụng kháng sinh. Vấn đề này đã được các nhà khoa học “mổ xẻ” trong cuộc họp thông qua qui hoạch phát triển thủy sản do Bộ Thủy sản tổ chức vào tháng 9-2006. Thế nhưng, dầu đã “thấy bệnh” nhưng chưa có thuốc chữa, nên năm nay tình trạng cá chết cũng cứ “đến hẹn lại lên”.
Hiện nay, diện tích nuôi cá tra, cá ba sa toàn vùng ĐBSCL đạt gần 5.000 ha, sản lượng gần 400.000 tấn, tăng gấp 4 lần so với năm 1997, chiếm trên 98% sản lượng cá da trơn của cả nước và dẫn đầu sản lượng xuất khẩu trong các loài cá nước ngọt. Tuy nhiên, đến nay ĐBSCL vẫn chưa có một quy hoạch tổng thể phát triển vùng nuôi cá tra, ba sa. Phát triển tự phát, nuôi thâm canh liên tục trên qui mô lớn, thiếu quan tâm bảo vệ môi trường nước là nguyên nhân làm tình trạng ô nhiễm môi trường nước trầm trọng hơn.
Phó Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Thanh Phương, Trưởng khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, nêu ý kiến: “Theo quy hoạch đến năm 2010 thì diện tích nuôi cá tra ở ĐBSCL lên đến 16.000 ha, lượng thức ăn cho cá bằng 900.000 ha nuôi tôm, lượng thức ăn dư thừa thải ra môi trường sẽ rất lớn. Hiện nay, chất lượng nguồn nước mặt ở sông Tiền và sông Hậu đang xấu đi, tình trạng cá tra nuôi bị chết ngày càng phổ biến. Việc làm cấp bách của ngành chức năng là phải nhanh chóng xem xét đến khả năng, khống chế diện tích nuôi, phân bố vùng nuôi hợp lý. Không nên vì hiệu quả kinh tế mà quên đi yếu tố bền vững. Khi cá giống tăng giá, nhiều cơ sở ương cá giống vì ham lời nên tăng cường chích kích dục tố để cá đẻ nhanh hơn, nhiều hơn. Việc hám lợi đã làm cho đàn cá tra bố mẹ bị thoái hóa, chất lượng con giống không đảm bảo. Đây cũng là cảnh báo tính không bền vững của ngành nuôi thủy sản”.
2 - Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích trồng lúa hơn 1,5 triệu ha, tổng sản lượng lúa hàng năm gần 20 triệu tấn, bằng 50% tổng sản lượng lương thực của cả nước. Ngoài 2 vụ lúa chính là đông xuân và hè thu, nông dân ở các tỉnh Hậu Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng và TP Cần Thơ làm thêm vụ lúa thu đông (còn gọi là vụ 3), với diện tích trên 300.000ha. Về mặt tích cực, lúa vụ 3 đã đóng góp một phần sản lượng lương thực, giúp nông dân có thêm chút ít thu nhập. Tuy nhiên, mặt trái của nó thì không thể lường trước. Các nhà khoa học cảnh báo: Nếu chúng ta không thực hiện các biện pháp cắt vụ, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, chuyển đổi giống... thì nguy cơ bùng phát dịch bệnh là điều khó tránh khỏi. Giáo sư - Tiến sĩ Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, băn khoăn: “Ở ĐBSCL, lúc nào chúng ta cũng thấy có lúa trên đồng mà không thể tính được mùa vụ. Việc sản xuất nhiều vụ lúa, nối tiếp nhau đã vắt kiệt dinh dưỡng của đất và trở thành môi trường tốt để dịch hại lưu tồn, gây hại cho vụ tiếp sau. Đây là kiểu sản xuất không bền vững, rủi ro cao. Người trực tiếp gánh chịu hệ quả này chính là nông dân”. Dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá đã gây hại nghiêm trọng trên các cánh đồng, càng cho thấy một khía cạnh của kiểu sản xuất không bền vững đang tồn tại.
Thủy sản và lúa gạo là 2 mũi công phá chủ lực trên bước đường thoát nghèo của nông dân ĐBSCL. Thế nhưng, nuôi trồng, chế biến thủy sản, lúa gạo mà không quan tâm đến yếu tố bền vững, môi trường bị phá hủy, dịch bệnh hoành hành thì nông dân phải lãnh trước tiên và lãnh đủ hệ quả tất yếu của nó.
PHÚ KHỞI
An Giang: năm 2007, giá thành nuôi cá tra nguyên liệu sẽ cao
Nguồn tin: SGTT, 19/1/2007
Ngày cập nhật: 20/1/2007
Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản ở An Giang dự báo: năm 2007, giá thành nuôi cá tra nguyên liệu cao hơn 20% so với năm 2006.
Nguyên nhân chủ yếu đưa đến giá thành nuôi cao là do phong trào chăn nuôi cá tra phát triển mạnh thì nhu cầu cá giống cũng tăng cao. Vì vậy, con giống dễ rơi vào tình trạng vừa thiếu vừa kém chất lượng, dẫn đến tỷ lệ hao hụt trong khi nuôi cao. Ngoài ra, giá thức ăn thủy sản tự chế cũng như thức ăn công nghiệp đều tăng do giá các loại nguyên liệu và thuốc trị bệnh cho cá cũng tăng...
Theo TTXVN
Nam bộ xuất hiện đợt triều cường mới
Nguồn tin: TTXVN, 19/01/2007
Ngày cập nhật: 20/1/2007
Đồng Tháp: Phát triển đàn cá hô quý hiếm
Nguồn tin: SGGP, 18/01/2007
Ngày cập nhật: 19/1/2007
Thạc sĩ Dương Nghĩa Quốc, phó Giám đốc Sở NN- PTNT Đồng Tháp thông tin với SGGP 12giờ: tỉnh đang phối hợp với Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II và các ngành chức năng thực hiện đề án “Thuần dưỡng, tái tạo và phát triển cá hô quý hiếm”.
Cá hô là loại cá thịt rất ngon, nhiều con nặng tới 200-400kg. Tuy nhiên, thời gian gần đây cá hô rất ít, thỉnh thoảng dân chài lưới trên sông Hậu bắt được vài con nhưng trọng lượng nhỏ, chỉ hơn 100kg…
(H.P.L.)
Quảng Nam: Nuôi và xuất khẩu cá tra
Nguồn tin: SGGP, 18/01/2007
Ngày cập nhật: 19/1/2007
Ghe tàu bị hư máy do nhiên liệu kém chất lượng: Kiểm tra các cơ sở sản xuất dầu mỡ cá
Nguồn tin: SGGP, 18/01/2007
Ngày cập nhật: 19/1/2007
Như Báo SGGP ngày 18-1 phản ánh tình trạng ghe tàu bị hư máy ở Cà Mau do nhiên liệu kém chất lượng, hôm qua (18-1), Cảnh sát Kinh tế (Công an Cà Mau) đã đến làm việc với Công ty Agifish (An Giang), một trong những nơi nghiên cứu sản xuất thành công dầu biodiesel chế biến từ mỡ cá ba sa, cá tra.
Theo Sở KH-CN An Giang, quy trình sản xuất dầu sinh học biodiesel được thử nghiệm Pilot của Công ty Agifish đạt kết quả tốt theo các tiêu chuẩn Việt Nam. Phía Trung tâm kỹ thuật Tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3 cũng đánh giá cao và đã nghiệm thu.
Ông Ngô Phước Hậu, Tổng Giám đốc Công ty Agifish khẳng định: “Mặc dù kết quả sản xuất thử nghiệm được đánh giá cao nhưng đến nay công ty chưa hề bán ra thị trường sản phẩm này. Mấy ngày qua, bản thân tôi cũng bức xúc trước thông tin dầu dỏm làm hư máy móc của bà con ngư dân Cà Mau”. Theo ông Hậu, nhiều khả năng loại dầu này đã bị một số người lén lút làm giả đem bán kiếm lời.
Theo Viện Khoa học Vật liệu ứng dụng, nơi nghiên cứu đề tài khoa học về biodiesel ở Việt Nam, việc sản xuất dầu biodiesel từ mỡ cá là chuyện bình thường, vì trên thế giới cũng đã làm. Nhưng vấn đề là chất lượng sản phẩm và ảnh hưởng của nó với môi trường… Nhà nước cho sản xuất nhưng phải có tiêu chuẩn nhất định.
H.P.L. – N. T.
Khánh Hoà: Hàng vạn con tôm hùm bị bệnh thối đầu, thất thu hơn 100 tỉ đồng
Nguồn tin: Lao Động, 18/01/2007
Ngày cập nhật: 19/1/2007
Ngày 17.1, UBND thị xã Cam Ranh cho hay, hơn 2/3 trong số 3.350 lồng tôm hùm thả nuôi ở khu vực đảo Bình Ba đã bị nhiễm bệnh, thối đầu chết hàng loạt. Riêng khoản tiền ngư dân vay ngân hàng đầu tư nuôi tôm hùm lên đến gần 25 tỉ đồng. p>Điều đáng lo là mặc dù dịch bệnh trong tôm hùm khởi phát từ 3 tháng trước, ngành thuỷ sản và các cơ quan chuyên môn đã lấy mẫu xét nghiệm nhưng chưa đưa ra khuyến cáo cụ thể với người nuôi tôm. Thời điểm này mọi người đang tập trung thu hoạch tôm nhưng đa phần trắng tay vì mỗi lồng tôm có từ 700-1.000 con nhưng chỉ sống sót khoảng 20-30%, thất thu khoảng hơn 100 tỉ đồng.
N.H
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.