• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Thủy sản An Giang - hướng tới chất lượng

Nguồn tin: AG, 31/1/2007
Ngày cập nhật: 31/1/2007

Với diện tích nuôi trồng trên 1.900 ha và sản lượng đạt 181.952 tấn, trong đó cá tra, basa chiếm tới 145.421 tấn nhưng lượng cá xuất khẩu lại đạt gần 100 ngàn tấn – đây là một bất ngờ qua một năm sản xuất của ngành Thủy sản An Giang. Điều này cho thấy một thực tế là tốc độ nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi cá tra, basa đã chậm hơn tốc độ chế biến và xuất khẩu. Vì thế, năm 2007 này, khi nhu cầu thực phẩm, như cá đông lạnh ngày càng tăng cao trên thị trường thì việc mở rộng vùng nuôi theo quy hoạch và nâng cao chất lượng sản phẩm là điều tỉnh An Giang phải tính tới, nếu muốn đẩy mạnh xuất khẩu và đưa thủy sản thành ngành sản xuất chính.

Nhìn lại tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2006 có thể thấy rõ: Tâm lý e dè, thận trọng của người nuôi trước sự bất ổn về giá cá tra, basa, nhất là trong giai đoạn giá cá tra, basa đột ngột giảm liên tục suốt 3 tháng. Trong điều kiện như thế nên hầu hết người nuôi đều ngán ngại, không mạnh dạn đầu tư ồ ạt như trước và do vậy quy mô nuôi cá tra, basa năm 2006 không bằng năm trước. Nhiều hộ ngư dân có xu hướng chuyển nuôi các loại cá khác để có thể tiêu thụ nội địa, vì thế dù diện tích nuôi trồng thủy sản trong năm qua tăng nhưng tăng chủ yếu là diện tích nuôi tôm, còn diện tích nuôi cá tra chỉ vào khoảng 807 ha, bằng 99% so thời điểm năm trước. Số lồng bè nuôi cá còn 2.810 cái, bằng 91,9 %, trong số lồng bè nuôi cá tra, basa 297 cái, giảm hơn 441 cái, bằng 40,2% so năm 2005. Với quy mô nuôi như thế nên sản lượng cá tra, basa không cao hơn năm trước, trong khi đó nhu cầu chế biến xuất khẩu lại tăng vọt nên doanh nghiệp đã linh động mua cá nguyên liệu từ các tỉnh khác. Đặc biệt, doanh nghiệp kinh doanh thủy sản tích cực mở rộng thị trường sang 65 nước, trong đó thị trường Châu Âu ngày càng tín nhiệm sản phẩm cá đông lạnh Việt Nam nên có khả năng thay thế hoàn toàn thị trường Mỹ. Riêng đối với thị trường Ba Lan - những năm trước đây không mua thủy sản của ta nhưng năm 2006 lại là nước tiêu thụ mạnh nhất ở Châu Âu với lượng cá tăng gấp 16 lần so với năm 2005 !

Đây là kết quả đánh dấu sự năng động của các doanh nghiệp nhưng không thể phủ nhận chất lượng cá tra, basa của An Giang đã phần nào đáp ứng được thị hiếu và yêu cầu nghiêm ngặt của thị trường Châu Âu đầy khó tính nhưng nhiều tiềm năng. Được biết, năm 2006 vừa qua, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu thủy sản An Giang tiếp tục đạt hiệu quả cao với Liên hợp sản xuất cá sạch APPU; Công ty TNHH Nam Việt thành lập Hội nuôi cá sạch Navico; Công ty Xuất nhập khẩu Nông sản thực phẩm An Giang thành lập Hội sản xuất cá sạch Afiex. Đồng thời, chương trình SQF cũng được tập trung triển khai để tạo sản phẩm sạch phục vụ xuất khẩu, đảm bảo chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm trên cơ sở tuân thủ quy hoạch và bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, để phát triển ổn định và bền vững. Đội ngũ các chuyên viên thực hành SQF của tỉnh đã đào tạo thêm 70 giảng viên cấp 2 là lực lượng trợ giảng cho các chuyên gia thực hành SQF trong việc huấn luyện cho ngư dân kỹ năng nuôi thủy sản an toàn theo tiêu chuẩn SQF 1000 CM; chất lượng và kỹ năng chọn tạo giống thủy sản chất lượng cao… Từ đó, toàn tỉnh đã tổ chức được 18 lớp kỹ năng nuôi và ương giống thủy sản với hàng trăm cán bộ và ngư dân tham gia.

Chương trình huấn luyện SQF và vấn đề nâng cao chất lượng thủy sản sẽ tiếp tục được phát huy trong năm 2007 này để ngành Thủy sản An Giang tiếp tục có bước tăng trưởng, vì theo như ông Ngô Phứơc Hậu, Tổng Giám đốc Công ty Agifish khẳng định: “Có sản phẩm hàng hóa tốt và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm tốt thì không sợ thiếu thị trường, song chỉ cần mất một khâu thì mất tất cả thị trường. Bài học từ những năm trước đây về vấn đề dư lượng kháng sinh trong tôm, cá vẫn còn nguyên giá trị nếu ngư dân và doanh nghiệp không thực hiện đúng yêu cầu của thị trường”.

Chính vì thế, theo kế hoạch năm 2007, toàn tỉnh sẽ tổ chức 107 lớp huấn luyện về kỹ năng nuôi thủy sản an toàn và chất lượng theo tiêu chuẩn SQF 1000 CM cho gần 3.300 ngư dân và lao động nghề cá; 7 lớp huấn luyện về kỹ năng chọn, tạo giống thủy sản chất lượng cao cho 229 hộ sản xuất và ương giống. Bên cạnh đó, ngành Thủy sản cũng có kế hoạch tổ chức lại sản xuất, trong đó tiếp tục thành lập các Hội nuôi cá sạch của doanh nghiệp chế biến trong tỉnh; củng cố và nâng chất các hợp tác xã thủy sản, câu lạc bộ thủy sản và Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thủy sản - tạo cầu nối liên kết để thực hiện kế hoạch lâu dài của ngành. Đồng thời, mở rộng thị trường xuất khẩu với thị trường tiêu thụ nội địa, nhằm khai thác mọi tiềm năng và giảm bớt rủi ro…

Những giải pháp này đã và đang được tập trung triển khai để tốc độ nuôi trồng thủy sản ở An Giang song hành với chế biến xuất khẩu đang trên đà tăng vùn vụt !

BÍCH VÂN


Nuôi tôm hùm ở Cam Bình

Nguồn tin: ND, 25/1/2007
Ngày cập nhật: 31/1/2007

Năm 2006, Cam Bình, một xã nhỏ ở Khánh Hoà, thu hơn 77,5 tỷ đồng từ nghề nuôi tôm hùm, nhiều hộ thu nhập từ 400 đến hơn 500 triệu đồng. Tuy nhiên, nghề nuôi tôm hùm ở đây cũng đang được cảnh báo là tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường.

Từ cảng Ðá Bạc, con đò ra đảo như mang theo cả một góc chợ, có cả từ dưa hành, hoa quả cho đến gạch ngói, sắt, thép, xi-măng. Thấy tôi ngạc nhiên, người lái đò giải thích: Làm nhà ở đảo khổ vậy đó, vật liệu phải chở từ đất liền ra. Vài năm gần đây, Bình Ba xây dựng mạnh lắm, làm nhà cỡ vài trăm triệu đồng là chuyện thường. Còn nội thất toàn đồ xịn, hàng thùng.

Ðang phấn khởi là thế, người lái đò bỗng dưng thở dài: Giờ thì thấy khó rồi ông ạ, mấy tháng nay tôm hùm chết dữ quá. Nhiều nhà ngồi đứng không yên, lo lắm. Nghề đưa đò như tôi, tôm được thì thu nhập còn được, tôm kiểu này, chưa biết làm sao nữa!

Mùa này biển động. Trong lờ mờ khói sóng, phía trước mặt chúng tôi đã là Bình Ba, một trong ba thôn của xã đảo Cam Bình, thuộc thị xã Cam Ranh (Khánh Hòa). Thôn đảo Bình Ba cách đất liền 13 hải lý về phía đông nam vịnh Cam Ranh. Cách xa đất liền là thế, nhưng từ năm 1999, tỉnh Khánh Hòa đã đầu tư đưa điện lưới quốc gia ra Bình Ba. Từ đó, Bình Ba mới bắt đầu "sáng" ra, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Trò chuyện cùng chúng tôi, các cán bộ trong cấp ủy xã đảo Cam Bình cho biết, trước đây, bà con sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản. Nghề nuôi trồng hầu như chưa có gì. Xã đảo nghèo, ghe thuyền bé nhỏ cho nên cứ quẩn quanh đánh bắt trong lộng, muốn vươn ra khơi thì không đủ sức, phải có bạc tỷ cho mỗi con tàu xa bờ. Cho nên, xác định cho đúng, cho trúng ngành nghề là bài toán cực kỳ khó đối với xã Cam Bình. Cấp ủy, chính quyền xã sau khi suy tính, cân nhắc đã tổ chức vận động bà con chuyển từ đánh bắt sang nuôi trồng. Nhưng, nuôi con gì cho hiệu quả? Lại là một bài toán khó nữa. Hết nuôi tôm sú lại nuôi ốc hương, hết nuôi ốc hương lại trồng rong sụn... Cuối cùng, chỉ có con tôm hùm là trụ lại được cho đến ngày hôm nay, dẫu cũng chẳng dễ dàng.

Chỉ đơn cử như chuyện môi trường, xã đã phải "xắn tay áo" xây dựng chợ bán thức ăn cho tôm để di dời chợ cá ra khỏi khu trung tâm xã; thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, thành lập bãi làm vệ sinh lồng tôm để giữ vệ sinh bãi biển... Nhờ được tổ chức chặt chẽ, nghề nuôi tôm hùm ở Cam Bình phát triển tốt, nhất là thôn Bình Ba hiện chiếm đến hai phần ba sản lượng tôm của toàn xã.

Hiệu quả của nghề nuôi tôm hùm ngày một rõ, nhất là từ năm năm trở lại đây. Năm 1999, xã Cam Bình mới có 20 tấn tôm hùm xuất bán. Ðến nay, toàn xã đã có 3.350 lồng nuôi, năm 2006 xuất bán được 155 tấn tôm hùm, tăng hơn 20 tấn so với năm 2005. Mỗi kg tôm hùm sống loại 1 mua tại lồng nuôi là hơn 700 nghìn đồng. Nếu tính giá bình quân ở mức thấp là 500 nghìn đồng mỗi kg, trong năm 2006, xã Cam Bình đã thu đến hơn 77,5 tỷ đồng từ con tôm hùm. Ở một xã đảo chỉ có 4.835 nhân khẩu, con số thu nhập từ một ngành nghề như thế thật ấn tượng.

Cầu tàu Bình Ba đón đò từ đất liền ra đảo.

Trong câu chuyện về phát triển kinh tế địa phương, ông Nguyễn Ân, Phó Chủ tịch UBND xã không giấu được niềm vui, cho biết, số hộ có thu nhập mỗi năm từ 100 triệu đồng trở lên hiện đã có hơn 100 hộ, trong đó nhiều hộ thu nhập từ 400 đến hơn 500 triệu đồng. Cả xã có 1.015 hộ mà đã có đến hơn 100 hộ giàu như thế, không phải địa phương nào cũng có được.

Thực tế cho thấy định hướng nuôi tôm hùm của Cam Bình đã rất đúng, rất trúng. Nghề nuôi tôm hùm lồng đã đem lại nguồn thu nhập chính cho người dân. Nhờ tôm hùm, nhà cửa, xóm làng ngày một khang trang. Từ ngoài biển nhìn vào Bình Ba đã san sát nhà xây. Trước đây, ở Cam Bình có rất ít con em học lên trung học. Bởi ở xã đảo này muốn học lên trung học, các em phải vào thị xã Cam Ranh, đi lại, ăn ở rất vất vả, tốn kém. Nay thì người dân ở đây không những đủ điều kiện cho con em học trung học mà còn có thể lo cho con em học đại học, cao đẳng. Năm 1999, cả thôn Bình Ba đi lại chỉ toàn đường mòn trên cát, không hề có bóng dáng một chiếc xe gắn máy nào. Bây giờ, Nhà nước và nhân dân cùng làm, người dân phấn khởi đóng góp, đường làng ngõ xóm được bê-tông hóa, phong quang, sạch đẹp, người lớn dùng xe máy đi lại, chở hàng, trẻ em đi xe đạp đến trường, không phải đi bộ như trước.

Phấn khởi trước những kết quả đó, nhưng ông Ân cho biết: Hiện cấp ủy đảng cũng như chính quyền địa phương đang rất lo lắng. Nghề nuôi tôm hùm đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Giá con giống cao, chi phí nuôi ngày càng tăng, mức độ rủi ro cũng ngày càng lớn. Ðặc biệt là gần sáu tháng nay, trên địa bàn có hiện tượng tôm hùm chết rất nhiều, có hộ bị chết 80% lượng tôm giống bởi một căn bệnh rất lạ, không rõ nguyên nhân. Ðây là điều từ trước đến nay bà con ngư dân chưa hề gặp. Nhiều hộ dân như đang ngồi trên đống lửa, bởi vốn liếng đang "ở dưới nước".

Khi được hỏi về hướng khắc phục, ông Ân cho biết: Về phía xã, một mặt động viên bà con tích cực làm sạch môi trường nuôi, điều chỉnh lại thức ăn cho tôm; mặt khác báo cáo, liên hệ với các cấp, các ngành tìm cách phòng chữa bệnh cho tôm. Ðã có nhiều đoàn chuyên ngành đến nghiên cứu, lấy mẫu... nhưng cho đến nay vẫn chưa đưa ra kết luận cụ thể nào. Một số ngư dân cứ nghe ai mách thuốc gì thì tất tả chạy chữa, thậm chí dùng cả thuốc chữa bệnh của tôm sú, nhưng không hiệu quả. Tôm vẫn cứ chết, mà chỉ cần vài con tôm chết là mất đứt bạc triệu.

PHONG NGUYÊN

 


Nuôi trồng thủy sản ở Nam Bộ cần theo quy hoạch.

Nguồn tin: ND, 29/1/2007
Ngày cập nhật: 31/1/2007

Ngày 29-1, tại TP Cà Mau, Bộ Thuỷ sản phối hợp UBND tỉnh Cà Mau tổ chức Hội nghị bàn biện pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) các tỉnh Nam Bộ theo hướng bền vững. Tại hội nghị này, các nhà khoa học, quản lý, người sản xuất thuỷ sản đã đề cập những vấn đề nóng bỏng đối với phát triển NTTS.

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Thuỷ sản Nguyễn Việt Thắng cho biết: Những năm qua, NTTS ở khu vực này phát triển mạnh ở cả ba loại hình nuôi nước mặn, lợ, ngọt.

Đến hết năm 2006, diện tích NTTS khu vực này đạt 747.296 ha, tăng hơn 384 nghìn ha so năm 1999. Từ năm 2000 đến nay, các tỉnh Nam Bộ đã chuyển hơn 325 nghìn ha ruộng trũng, trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS, chiếm hơn 82% tổng diện tích chuyển đổi của cả nước.

Sản lượng thuỷ sản năm 2006 đạt 1.272.369 tấn, trong đó sản lượng thuỷ sản nước ngọt chiếm 614.298 tấn (sản lượng cá tra, ba sa chiếm hơn 40%), sản lượng thuỷ sản nước mặn, lợ hơn 420 nghìn tấn (sản lượng tôm sú chiếm gần 23%).

Theo ông Thắng, phát triển NTTS các tỉnh Nam Bộ gặp nhiều khó khăn, xuất hiện nhiều vấn đề cần giải quyết như: quy hoạch chưa theo kịp sự phát triển, thuỷ lợi cho NTTS còn hạn chế, quản lý môi trường và dịch bệnh chưa tốt, tổ chức sản xuất chưa phù hợp, chưa đa dạng đối tượng nuôi, chưa có thương hiệu sản phẩm thuỷ sản chủ lực, việc sử dụng hoá chất, kháng sinh trong NTTS chưa được kiểm soát.

Ông Vũ Dũng, Quyền vụ trưởng NTTS (Bộ Thuỷ sản) cho rằng, các tỉnh Nam Bộ hiện là vùng có sản lượng, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất nước, với các đối tượng nuôi chủ lực chiếm ưu thế như tôm sú, cá tra, ba sa và nhuyễn thể hai mảnh vỏ.

Mục đích của hội nghị lần này là chỉ ra được những yếu kém, những vấn đề nóng bỏng trong NTTS để từ đó Bộ Thuỷ sản cùng với các địa phương đưa ra các giải pháp phát triển theo hướng hiệu quả bền vững.

Để phát triển NTTS các tỉnh Nam Bộ theo hướng bền vững, Bộ Thuỷ sản sẽ tập trung thực hiện các giải pháp chủ yếu: Rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển NTTS đến năm 2015 và tầm nhìn 2020. Quy hoạch phải có sự phối hợp liên ngành và tuân thủ các quy trình công nghệ, đối tượng, đặc điểm của các vùng sinh thái.

Tập trung đầu tư hiện đại hoá cơ sở hạ tầng cho vùng nuôi thâm canh phục vụ nuôi các đối tượng nuôi chủ lực như cá tra, ba sa, tôm sú, nhuyễn thể hai mảnh vỏ.

Nghiên cứu, áp dụng và hoàn thiện công nghệ sản xuất giống chất lượng cao các đối tượng nuôi bản địa, nuôi sạch, đa dạng hóa các đối tượng nuôi.

Đẩy mạnh hoạt động chọn giống, tạo giống thuỷ sản chất lượng cao đáp ứng yêu cầu NTTS; tổ chức lại sản xuất theo hướng phân cấp trách nhiệm giữa các ngành, các cấp.

Tăng cường quản lý chặt chẽ việc sử dụng hoá chất, kháng sinh bị cấm, đáp ứng yêu cầu sản phẩm thuỷ sản sạch.

TẠ QUANG DŨNG

 


Quảng Ngãi: Cơ hội cho các nhà máy sản xuất giống thủy sản, Hậu Giang: Năm 2007 phấn đấu đưa diện tích mặt nước nuôi thủy sản đạt 11.000 ha

Nguồn tin: Vasep, 29/1/2007
Ngày cập nhật: 31/1/2007

Ngày 26/1, tại hội nghị triển khai kế hoạch sản xuất, cung ứng tôm giống trên địa bàn tỉnh năm 2007, giám đốc Sở Thủy sản Quảng Ngãi, Nguyễn Minh Tuấn cho biết: năm 2007 dự kiến 16 cơ sở sản xuất tôm giống trong tỉnh chỉ sản xuất được 440 triệu con tôm post chân trắng, 30 triệu con tôm sú giống và 2 triệu con cá giống nước ngọt. Tính ra vẫn cần thêm khoảng 640 triệu con tôm post chân trắng, 2,6 triệu con cá giống nước ngọt mới đáp ứng đủ nhu cầu giống cho người nuôi thủy sản.

Năm 2007, tỉnh Hậu Giang phấn đấu đưa diện tích mặt nước nuôi thủy sản đạt 11.000 ha, trong đó có 94 ha nuôi tôm càng xanh, chuyển sang nuôi tập trung các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao như: cá thát lát, bống tượng, rô đồng, trê vàng, cá lóc, lươn... Mô hình nuôi thuỷ sản trong ruộng lúa cho mức lợi nhuận từ 10 - 40 triệu đồng/ha, giúp người dân thực hiện xoá đói, giảm nghèo.


Sóc Trăng phát triển vùng nuôi tôm an toàn

Nguồn tin: ND 29/1/2007
Ngày cập nhật: 30/1/2007

Những năm gần đây, nghề nuôi tôm áp dụng công nghệ sinh học phát triển mạnh tại các vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ðiều đó đã giải quyết việc làm cho hơn 50 nghìn lao động nông thôn, góp phần cải thiện đời sống người dân và làm thay đổi bộ mặt nhiều làng quê.

Nguồn lợi từ con tôm rất lớn, nhưng nghề nuôi tôm không phải lúc nào cũng thuận buồm, xuôi gió. Nghề này cũng lắm lao đao, có lúc rủi ro tôm chết, nhiều người bị phá sản, nợ nần chồng chất. Nguyên nhân vẫn là người dân chỉ thấy cái lợi trước mắt, bỏ lúa nuôi tôm trên diện tích rộng, trong khi địa phương chưa có quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết cho từng vùng, nhất là những vùng mới chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Hậu quả là các ao nuôi tôm bị ô nhiễm dịch bệnh xuất hiện, dẫn đến người nuôi tôm thua lỗ nặng.

Trải qua nhiều năm thử nghiệm, Sóc Trăng đã quy hoạch được vùng nuôi tôm rộng lớn, tập trung ở các huyện phía nam theo tuyến, vùng cụ thể: Vùng nội đồng, nước lợ (Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên); tuyến ven biển, nước mặn (Vĩnh Châu, Long Phú); tuyến ven sông Mỹ Thanh, sông Hậu, Tổng Cán, cánh đồng năn Long Phú; tuyến ven sông Trà Niên, Kinh Mới, Vĩnh Châu.

Xác định nuôi trồng thủy sản là một hướng chiến lược, Sóc Trăng có chính sách đầu tư thích hợp, huy động được nguồn lực trong dân để phát triển và nâng cao mức sống người dân. Ðến nay, Sóc Trăng đã đầu tư 1.297,5 tỷ đồng xây dựng 35 dự án phát triển nuôi trồng thủy sản; công trình thủy lợi phục vụ 41.060 ha; mở mới và nâng cấp 22.114 ha nuôi tôm. Nhờ vậy, hàng nghìn ha đất hoang hóa ở cánh đồng năn Long Phú và dọc hai bờ sông Mỹ Thanh đã hình thành những vuông tôm công nghiệp, bán công nghiệp. Hơn

20 nghìn ha đất nhiễm mặn, trồng lúa kém hiệu quả ở Vĩnh Hiệp, Khánh Hòa, Hòa Ðông, Lai Hòa, Vĩnh Tân... (Vĩnh Châu) được chuyển sang nuôi tôm. Bên cạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, Sóc Trăng thành lập Trung tâm khuyến ngư; các huyện, thị xã trong tỉnh đều có trạm hướng dẫn người dân về quy trình kỹ thuật nuôi tôm để đạt chất lượng cao. Mạng lưới dịch vụ kinh doanh giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản phát triển mạnh với 577 đại lý. Ðó là yếu tố quan trọng tác động tích cực đến ý thức cũng như tay nghề nuôi của người dân, quyết định sự thành công của mỗi mùa vụ. Theo đánh giá của ngành thủy sản Sóc Trăng, hiện toàn tỉnh có khoảng 80% số hộ nuôi tôm có khả năng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào vụ nuôi, tạo nguồn nguyên liệu lớn cho các nhà máy chế biến xuất khẩu.

Năm 2000, tỉnh Sóc Trăng có 33 nghìn ha nuôi tôm sú chính vụ, đến nay tăng lên 41.293 ha. Các mô hình nuôi ngày càng đa dạng, trong đó diện tích nuôi công nghiệp, bán công nghiệp chiếm 22.527 ha, còn lại nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến (tôm - lúa, tôm - rừng) với số lượng thả nuôi hơn 5 tỷ con tôm giống/năm. Công nghệ nuôi cũng được cải tiến theo hướng thân thiện với môi trường, nhất là nuôi tôm bằng công nghệ sinh học.

Năm 2006, Sóc Trăng trúng lớn vụ tôm sú với tổng sản lượng hơn 54 nghìn tấn tôm nguyên liệu, vượt 45% chỉ tiêu kế hoạch, kim ngạch xuất khẩu đạt 340 triệu USD. Ðể có được thành quả này, các chủ trang trại, câu lạc bộ, hợp tác xã và người nuôi tôm công nghiệp ở Sóc Trăng đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi, ao nuôi bảo đảm kỹ thuật với những mô hình nuôi tôm bằng chế phẩm vi sinh, đưa năng suất tôm nuôi vượt hơn 12 tấn/ha/vụ. Ðiển hình như Công ty cổ phần nuôi trồng thủy sản Mỏ Ó (Seaco) Sóc Trăng.

Với ba khu nuôi tôm công nghiệp, một khu 90 ao ở Bạc Liêu, còn hai khu hơn 100 ao ở cánh đồng năn, huyện Long Phú. Bình quân mỗi ao rộng từ 5.000 đến 6.000 m2, mật độ thả giống 45 - 50 con/m2. Vụ nuôi năm 2006, Seaco đạt năng suất bình quân 12 tấn/ha/vụ. Nhiều ao nuôi đạt 14 - 16 tấn/ha/vụ. Giám đốc công ty Lưu Quốc Việt cho biết, nhờ áp dụng quy trình nuôi tôm bằng chế phẩm vi sinh ES-01, BS-01 của Trung tâm nghiên cứu ứng dụng sinh học phục vụ nuôi trồng thủy sản Sóc Trăng, mà vụ nuôi vừa qua Seaco đạt sản lượng gần 1.000 tấn tôm sú, doanh thu đạt hơn 100 tỷ đồng, trừ chi phí còn lãi 20 tỷ đồng.

Năm trước đó, kỷ lục năng suất tôm nuôi quốc gia được thiết lập cũng bởi Seaco bằng công nghệ sinh học. Ðầu năm 2007, tin vui đến với Seaco và người nuôi tôm Sóc Trăng khi hai chế phẩm ES-01 và BS-01 của Trung tâm nghiên cứu ứng dụng sinh học phục vụ nuôi trồng thủy sản Sóc Trăng thuộc Công ty cổ phần sản xuất và dịch vụ nuôi trồng thủy sản kỹ thuật cao (Sóc Trăng E-TECH) được Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm (Bộ Thủy sản) công nhận thương hiệu và cấp phép lưu hành trên thị trường.

Không chỉ có Seaco, mô hình nuôi tôm ứng dụng chế phẩm vi sinh ngày càng được nhân rộng và xuất hiện nhiều điển hình làm ăn hiệu quả. Vụ tôm 2006, nhiều hộ nuôi tôm ở huyện Mỹ Xuyên, Long Phú, Cù Lao Dung, Vĩnh Châu đạt năng suất cao.

Anh Nguyễn Văn Són ở ấp Sóc Lèo, xã Lịch Hội Thượng, huyện Long Phú nuôi tôm theo công nghệ sinh học, mật độ thả nuôi 40 con/m2. Anh cho biết, nuôi tôm, xử lý bằng chế phẩm vi sinh, nên môi trường nước luôn ổn định, giúp tôm phát triển nhanh. Vụ nuôi vừa qua, anh có năm ao tôm, thu hoạch gần 30 tấn, lãi hơn một tỷ đồng. Theo anh, nuôi tôm bằng công nghệ sinh học sẽ khắc phục được nhiều khó khăn về thời tiết, môi trường, chi phí đầu tư, dịch bệnh.

Các ông Lê Văn Xinh, Chủ nhiệm Hợp tác xã thủy sản thuộc ấp Trà Vôn A, xã Vĩnh Tân; Quách Hoàng Phong, Giám đốc Công ty nuôi trồng thủy sản Vĩnh Thuận thuộc xã Vĩnh Phước, huyện Vĩnh Châu có chung một nhận xét: Sử dụng chế phẩm vi sinh trong nuôi tôm có ưu điểm là tạo được môi trường nước sạch, đồng thời bổ sung vào thức ăn men tiêu hóa, chất vi lượng, vitamin, khoáng chất làm tăng khả năng hấp thụ thức ăn của tôm, hạn chế dịch bệnh, tôm phát triển nhanh và chi phí thấp. Với mật độ thả nuôi 40 - 50 con/m2, năng suất thu hoạch bình quân có thể lên đến 10 tấn/ha/vụ; cá biệt có nơi đạt 12 - 14 tấn/ha/vụ, trọng lượng tôm nuôi 30 - 32 con/kg. Tuy nhiên, cái khó của người nuôi tôm theo mô hình chế phẩm vi sinh là hiện nay trên thị trường có nhiều loại, cho nên việc chọn lựa loại chế phẩm nào đúng chất lượng, phù hợp và có hiệu quả thật không dễ dàng.

Năm 2007, Sóc Trăng phấn đấu mở rộng diện tích nuôi tôm khoảng 45 nghìn ha, trong đó có 24 nghìn ha nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp với tổng sản lượng ước đạt 55 nghìn tấn tôm nguyên liệu.

Ông Phạm Hữu Lai, Phó Giám đốc Sở Thủy sản Sóc Trăng cho biết: Năm nay và những năm tới cần phải xác lập một quy trình nuôi tôm ổn định và bền vững theo hướng CNH, HÐH gắn với bảo vệ môi trường phải tiến đến thành lập các vùng nuôi tôm an toàn được cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận cơ sở nuôi tôm sạch đạt chất lượng về vệ sinh thực phẩm và có thương hiệu. Ðồng thời tổ chức lại sản xuất, phát triển các câu lạc bộ, hợp tác xã, tổ quản lý cộng đồng môi trường; từng bước xây dựng và thiết lập ba vùng nuôi tôm an toàn có thương hiệu ở Cù Lao Dung, hai bên bờ sông Mỹ Thanh (Long Phú, Mỹ Xuyên, Vĩnh Châu) và khu ven biển Vĩnh Châu; xây dựng các chợ đầu mối tôm sạch, thu hút đầu tư đổi mới công nghệ chế biến thủy sản đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.

Đỗ Nam - Phóng viên báo Nhân Dân - thường trú tại Sóc Trăng


Lạng Sơn: Chuyển hơn 926 ha ao, hồ, ruộng trũng sang nuôi trồng thủy sản

Nguồn tin: Vasep, 29/1/2007
Ngày cập nhật: 30/1/2007

Năm qua, nhiều địa phương trong tỉnh Lạng Sơn đã mạnh dạn chuyển hơn 926 ha diện tích ao, hồ, ruộng trũng, đắp đập ngăn suối sang nuôi trồng thủy sản. Nhờ đó, số diện tích nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh đã tăng lên 8,9% so với cùng kỳ, sản lượng đạt hơn 1.000 tấn/năm. Các huyện Bắc Sơn, Tràng Định, Hữu Lũng được bà con nông dân đầu tư vốn nuôi trồng thủy sản cao nhất từ trước đến nay, đáp ứng nhu cầu thực phẩm ở một tỉnh miền núi.


Nam Điền (Nam Định): Chuyển đổi vùng lúa nhiễm mặn sang nuôi trồng thủy hải sản bị nông dân phản ứng

Nguồn tin: SGGP, 30/1/2007
Ngày cập nhật: 30/1/2007


Kinh tế thủy sản ở ĐBSCL phát triển chưa bền vững

Nguồn tin: SGGP, 30/01/2007
Ngày cập nhật: 30/1/2007

Sáng 29-1, tại Cà Mau, Bộ Thủy sản đã tổ chức hội nghị bàn biện pháp phát triển nghề nuôi trồng thủy sản bền vững các tỉnh Nam bộ.

ĐBSCL hiện có hơn 1,1 triệu ha mặt nước nuôi trồng thủy sản, chiếm 57,7% giá trị xuất khẩu, 52,22% sản lượng thủy sản xuất khẩu của cả nước nhưng tăng trưởng thủy sản chưa vững chắc, chủ yếu khai thác tiềm năng sẵn có, đầu tư khoa học và công nghệ còn thấp; khai thác thủy sản chưa gắn với bảo vệ nguồn lợi thủy sản; chưa định hình rõ cơ cấu, đối tượng nuôi gắn với cơ cấu sản phẩm theo yêu cầu biến động thị trường; thiếu định hướng trong chế biến sản phẩm chủ lực nên quá lệ thuộc vào một số thị trường... Nuôi trồng thủy sản vẫn còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, mức độ rủi ro cao, hiệu quả kinh tế còn thấp.

T.M.T.


 

“Ông bụt” ở vùng tôm

Nguồn tin: BCT, 28/1/2007
Ngày cập nhật: 29/1/2007

Quần áo bạc màu, đi dép lê cũ kỹ, dáng người thấp đậm, khuôn mặt chân chất… Nhìn cái vẻ bên ngoài ấy, nếu mới gặp lần đầu, ít ai ngờ rằng ông Võ Hồng Ngoãn (Sáu Ngoãn) ở thị xã Bạc Liêu lại là tỉ phú, người nuôi tôm nổi tiếng nhất ở vùng ven biển bán đảo Cà Mau. Với ý chí vượt khó và kiên trì tìm tòi, ông đã khám phá ra một qui trình nuôi tôm sạch đạt hiệu quả cao, bền vững đang được phổ biến ngày càng rộng rãi ở nhiều vùng nuôi tôm ven biển miền Tây Nam bộ. Hơn thế nữa, ông còn là người giàu lòng nhân ái, có nhiều việc làm tình nghĩa đối với xóm làng, xã hội.

Ông Sáu Ngoãn (ảnh) đến với nghề nuôi tôm rất tình cờ, từ hai bàn tay trắng. Những năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ông là lái xe chuyên chở hàng phục vụ cho các đơn vị Quân khu 9 thực hiện nghĩa vụ quốc tế trên đất nước bạn Campuchia. Sau khi thôi cầm vô lăng, năm 2000 ông bắt đầu nuôi tôm trên diện tích 2 ha. Lúc đó, nhiều người nuôi tôm đã gặp cảnh thất bát. Thấy vậy, ông Sáu đã dành nhiều thời gian đã tìm hiểu nguyên nhân thất bát của người nuôi tôm trong vùng. Cuối cùng ông biết được nguyên nhân chủ yếu khiến tôm chết là do nuôi mật độ quá dày (20 đến 40 con/m2), dễ gây ô nhiễm, khó chăm sóc... Biết nguyên nhân, ông Sáu Ngoãn tự học, tự mày mò thử nghiệm quy trình nuôi tôm sạch. Trên mỗi mét vuông mặt nước ông chỉ thả tôm giống với mật độ thấp 7-9 con; thức ăn cho tôm chủ yếu là ốc bươu vàng. Đồng thời ông Sáu cũng nắm rõ hàm lượng các chất có trong nước vào mỗi giai đoạn phát triển của tôm để có thể chủ động xử lý... Với cách nuôi đó, nguồn nước trong vuông tôm của ông Sáu vừa không bị ô nhiễm, vừa góp phần tiêu diệt ốc bươu vàng hại lúa. Thấy cách nuôi này của ông Sáu có hiệu quả, một nhà thơ địa phương đã làm một bài thơ có tựa đề “Nuôi tôm bằng ốc bươu vàng”, có đoạn như sau: “Ốc bươu vàng hại mùa màng/Dân càng kiếm bắt nó càng sinh sôi/ Có người nghĩ cách diệt rồi/Đem ngâm nước muối làm mồi cho tôm...”.

Qua thực nghiệm, nhận thấy quy trình nuôi tôm của mình đạt hiệu quả cao, ông Sáu Ngoãn đã mang đi giới thiệu cho mọi người trong vùng biết và làm theo. Lúc đầu, ít người chịu làm theo vì họ không dám tin một nông dân tay ngang như ông Sáu Ngoãn lại có thể tìm ra quy trình nuôi tôm sạch, hiệu quả - thậm chí có người còn cho rằng cách nuôi tôm của ông là... dở hơi! Nhưng đến khi cả vùng tôm Bạc Liêu lao đao vì tôm chết, thất bát triền miên, thì nhiều người mới bừng tỉnh khi thấy ông Sáu Ngoãn liên tiếp thành công từ vụ tôm này đến vụ tôm khác, bán tôm hàng năm cả tỉ đồng. Lúc đó, mọi người mới thừa nhận cách làm của ông là đúng. Ngày càng có nhiều người đến gặp ông tìm hiểu, nhờ giúp đỡ. Quy trình nuôi tôm của ông Sáu Ngoãn được ngành khuyến ngư tỉnh Bạc Liêu tìm hiểu và đánh giá là một quy trình nuôi tôm đạt hiệu quả cao, đồng thời sử dụng làm tài liệu tập huấn cho nông dân, khuyến khích nông dân làm theo.

Quy trình nuôi tôm sạch theo công nghệ của ông Sáu Ngoãn nổi tiếng từ đó. Với quy trình thành công đó, lẽ ra người ta có thể bán hoặc nhượng quyền sử dụng, nhưng đối với Sáu Ngoãn thì ngược lại, ông đều cho không người khác thành công của mình. Nhiều nông dân ở Bạc Liêu và các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến tìm hiểu ông đều chỉ dẫn kỹ càng, tỉ mỉ. Từ đó, cả vùng tôm nơi ông ở dần dần làm theo quy trình nuôi tôm bền vững hiệu quả cao. Cảnh thất bát vì tôm lùi dần, đời sống người nuôi tôm khấm khá, tỷ lệ hộ nghèo thấp dần. Còn ông Sáu Ngoãn, đến năm 2006 đã phát triển trang trại tôm có diện tích gần 70 ha, thu lãi hơn 4 tỉ đồng. Năm 2004, ông Sáu Ngoãn là đại biểu của tỉnh Bạc Liêu tham dự Hội nghị khoa học ứng dụng toàn quốc về khoa học công nghệ và nuôi trồng thủy sản. Tại Hội nghị này, quy trình nuôi tôm sạch của ông đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu và đánh giá rất cao. Nhiều giáo sư của các đại học danh tiếng trên thế giới đã về tận trang trại của ông Sáu Ngoãn để được thấy tận mắt, được nghe kể về quy trình nuôi tôm có một không hai.

Nay đã là tỉ phú nhưng cách sống của ông Sáu Ngoãn vẫn rất giản dị, giữ nguyên phong cách chất phác, mộc mạc của một nông dân Nam bộ. Những việc nhân nghĩa mà ông đã làm cho cộng đồng, cho xã hội khi tôi muốn tìm hiểu, ông một mực không nói. Ông không nói nhưng bà con và chính quyền địa phương từ ấp, xã, thị xã Bạc Liêu đều biết về ông và những việc nghĩa ông làm. Ông Trần Ngọc Chiến, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Trạch Đông (thị xã Bạc Liêu) nói: “Ông Sáu Ngoãn là một điển hình nông dân sản xuất giỏi của tỉnh Bạc Liêu, là đại diện của nông dân tỉnh dự các Hội nghị quốc tế ngành thủy sản, Hội nghị nông dân sản xuất giỏi toàn quốc, Hội nghị biểu dương chủ trang trại và doanh nghiệp nông thôn toàn quốc... Đối với chính quyền địa phương, ông Sáu Ngoãn không chỉ là nông dân giỏi, giàu có mà còn là người luôn chủ động tham gia rất nhiều việc làm xã hội - từ thiện như: hỗ trợ kinh phí xây cầu, làm đường giao thông, thủy lợi, làm nhà tình thương, mua bảo hiểm, dụng cụ học tập cho học sinh nghèo...”.

Ở xã Vĩnh Trạch Đông này, từ người già đến em bé đều coi ông Sáu Ngoãn như là “ông Bụt” của vùng tôm ven biển. Những vuông tôm rộng gần 70 ha của ông đã giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động địa phương với mức lương 1 - 1,2 triệu đồng/tháng, dịp cuối năm đều được trích thưởng từ 3 triệu đồng/người trở lên. Mỗi dịp lễ, tết cổ truyền của bà con dân tộc Kinh, Khmer, ông Sáu đều trích hàng chục, hàng trăm triệu đồng mua quà cho các em nhỏ, tổ chức văn nghệ, lễ cho các em vui đón Tết. Xã Vĩnh Trạch Đông có một lớp học phổ cập giáo dục cho trẻ em nghèo do cán bộ đồn Biên phòng 664, Bộ đội Biên phòng Bạc Liêu tổ chức giảng dạy. Biết các em nhỏ đều có hoàn cảnh khó khăn, lớp học phải mượn tạm nhà của dân để giảng dạy, ông Sáu Ngoãn đứng ra hỗ trợ toàn bộ sách vở, bảo hiểm y tế, quần áo cho các em; trích 40 triệu đồng xây 2 phòng học khang trang cho các em. Và trước bà con Khmer trong vùng, ông đã từng tuyên bố: Em nào học giỏi sẽ được ông hỗ trợ ăn học đến bậc đại học.

Để kết thúc bài viết này tôi muốn nhắc lại câu chuyện giữa tôi và ông Sáu Ngoãn trước lúc ông chia tay tôi. Ông tập hợp rất nhiều tài liệu, sơ đồ, hệ thống biểu đồ so sánh, hình ảnh, đĩa CD lưu trữ kiến thức quy trình nuôi tôm sạch mà ông đã dày công nghiên cứu, tìm tòi và thực nghiệm thành công trên ruộng đồng Bạc Liêu... Cầm những tài liệu đó trên tay, ông nói: “Việc từ thiện tôi làm là trách nhiệm, cũng như nhiều người khác mà thôi. Anh đừng viết làm chi! Chỉ mong anh giới thiệu tài liệu này rộng rãi cho bà con cả nước biết, nghiên cứu và áp dụng trong nuôi tôm để đạt hiệu quả cao, không rơi vào cảnh thất bát, nợ nần, ô nhiễm vùng tôm... Được như vậy là tui vui lắm rồi”.

Cầm xấp tài liệu của ông Sáu trên tay, tự đáy lòng mình, tôi cảm nhận rõ nghị lực, tấm lòng nhân ái thật đáng quý vô cùng của một lão nông Nam bộ.

ĐẶNG HOÀNG VINH

 


Hỗ trợ người nghèo cách làm ăn bằng mô hình nuôi cá nước ngọt

Nguồn tin: PY, 28/1/2007
Ngày cập nhật: 29/1/2007

Từ năm 2005, Trung tâm Khuyến ngư Phú yên được tỉnh cấp 50 triệu đồng/năm để hướng dẫn, hỗ trợ ngư dân nghèo cách làm ăn. Qua 2 năm triển khai thực hiện, chương trình khuyến ngư đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi.

Năm 2005, Trung tâm Khuyến ngư triển khai mô hình hỗ trợ người nghèo nuôi cá lóc lai đen tại 3 huyện Sông Hinh, Đồng Xuân và Phú Hòa. Bà con cải tạo ao theo đúng quy trình, chọn giống tốt và chuẩn bị đầy đủ thức ăn, nuôi theo đúng kỹ thuật, cá không bị dịch bệnh. Sau từ 4-7 tháng nuôi, tổng doanh thu mà mô hình này mang lại là 117.250.000 đồng, trừ chi phí 89.114.300 đồng, thu lãi 28.135.700 đồng.

Năm 2006, cùng với việc triển khai mô hình hỗ trợ các hộ nghèo nuôi cá chép tại xã Sơn Thành Tây, nuôi cá lóc lai đen tại Sơn Thành Đông (huyện Tây Hòa) và tại xã An Nghiệp (huyện Tuy An), Trung tâm Khuyến ngư còn mua con giống hỗ trợ cho 22 hộ nghèo ở các huyện Đông Hòa và Sơn Hòa. 100% số hộ được hỗ trợ cá giống đều nuôi đạt hiệu quả và có lãi trung bình 200.000đ/hộ với tổng chi trung bình 1.000.000đ/hộ. Tổng lợi nhuận từ 22 hộ trên là 4.400.000đ.

Mô hình nuôi thâm canh cá lóc, nuôi quảng canh cải tiến cá chép mang lại tổng doanh thu 121.325.000 đồng, trừ chi phí 84.000.000 đồng, thu lãi 37.325.000 đồng.

Sau 2 năm triển khai chương trình, có 6 hộ gia đình được hưởng lợi trực tiếp từ mô hình trình diễn và 22 hộ được hưởng lợi từ mô hình hỗ trợ cá giống, bước đầu nuôi cá thành công, có lãi. Trung tâm đã tổ chức 7 lớp tập huấn kỹ thuật nuôi cá nước ngọt cho 280 người thuộc diện nghèo trên các địa bàn, tổ chức 3 cuộc hội thảo đầu bờ, có 140 người nghèo được trực tiếp trao đổi, học tập kinh nghiệm nuôi cá lóc và các đối tượng cá nước ngọt khác.

Chi phí cho một đơn vị diện tích nuôi cá tương đối cao, nếu không có sự trợ giúp thì những người nghèo khó có thể xoay xở được. Tuy nhiên, lợi nhuận mà mô hình hỗ trợ người nghèo đem lại tương đối cao, thời gian nuôi ngắn và có thể áp dụng với qui mô nhỏ, thả mật độ thấp, tận dụng thức ăn sẵn có tại địa phương (cua, ốc bươu vàng) phù hợp với khả năng của người nghèo.

Kết quả thực hiện mô hình cho thấy: Tuy cá lóc dễ nuôi, nhưng lại nhuận của mô hình phụ thuộc nhiều yếu tố: Chất lượng giống, tỉ lệ sống, mật độ thả nuôi, trình độ chăm sóc quản lý, giá thức ăn, giá sản phẩm tiêu thụ…

Cá lóc thương phẩm tại địa bàn Phú Yên trong những năm gần đây tiêu thụ tốt với cỡ từ 0,6kg/con đến 1kg/con. Hiện tại bà con nuôi cá lóc ở Phú Yên chủ yếu sử dụng cá tạp làm thức ăn cho cá lóc. Thời gian gần đây, thức ăn của cá lóc bị đội giá lên cao do nghề nuôi tôm hùm phát triển đã làm ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận khi nuôi thương phẩm cá lóc.

Cá chép dễ nuôi, nhưng nếu nuôi trong ao nghèo dinh dưỡng và không có ốc phát triển tốt thì cá chậm lớn, lợi nhuận thấp.

Nuôi các loại cá truyền thống nên thả giống với mật độ thưa, ghép các giống loài có tính ăn khác nhau và cần bổ sung thức ăn ưa thích cho từng giống loài cụ thể để bảo đảm cho sự tăng trưởng phát triển của cá.

Tuy nuôi cá lóc dùng thức ăn tươi là chính, nhưng ở mô hình này, bà con nuôi với qui mô nhỏ và phân tán nên không ảnh hưởng xấu đến môi trường xung quanh. Ngoài ra, có thể thả ghép thêm cá rô phi, chép và trôi… để tận dụng thức ăn thừa, phân của cá lóc, xử lý môi trường, tăng chất lượng nước nuôi ngay tại từng ao nuôi.

Mô hình thả giống hỗ trợ có thể tận dụng mọi loại mặt nước hiện có, vừa đem lại thu nhập cho bà con ngư dân nghèo, vừa có tác dụng cải thiện môi trường nước, tiêu diệt ấu trùng muỗi có hại trên diện rộng.

Nuôi cá lóc và nuôi cá chép vẫn là những mô hình hiệu quả với qui mô vừa và nhỏ và không ảnh hưởng xấu đến môi trường xung quanh.

Các mô hình trên đều dễ áp dụng và đem lại hiệu quả rõ rệt, được đông đảo bà con ngư dân tại địa phương hưởng ứng.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Phú Yên, nguồn giống cá lóc có chất lượng cao rất khan hiếm. Việc bà con mua lẻ với số lượng ít để thả nuôi trên qui mô nhỏ khó kiểm soát về mặt chất lượng giống. Cá lóc lai đen dễ nuôi, thích nghi tốt với khí hậu ở Phú Yên, qua 2 năm triển khai mô hình chưa có bệnh xảy ra trên cá nuôi. Thời gian tới cần chú trọng đến việc nhân rộng mô hình này một cách phù hợp nhằm khai thác tiềm năng lợi thế về tự nhiên và xã hội, đồng thời tạo ra sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao, có khả năng tham gia mạnh vào thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống bà con nông ngư dân tại địa phương.

NGUYỄN KHẮC TÂN

 


Quảng Trị: 5 tỷ đồng cho một dự án... bỏ hoang

Nguồn tin: TP, 29/01/2007
Ngày cập nhật: 29/1/2007

Năm 2003, tỉnh Quảng Trị đầu tư 5 tỷ đồng xây dựng Trạm sản xuất tôm giống tại xã Triệu Lăng của huyện Triệu Phong với mục đích cung ứng nguồn tôm giống cho người nuôi tôm trên địa bàn tỉnh.

Năm 2005, công trình hoàn thành với quy mô xây dựng hệ thống nhà cửa, ao hồ khá bề thế. Nhưng không hiểu vì sao hiện nay các hạng mục của công trình đã được xây dựng như khu sản xuất tôm giống, hồ nước... đang bị bỏ hoang, xuống cấp nghiêm trọng và có nguy cơ đổ nát.

Được biết trước khi triển khai dự án, nơi đây là vùng đất sản xuất hoa màu và trồng cây lâm nghiệp của người dân trong xã.

Hữu Thành

 


Trên 2.000 ha mặt nước để nuôi nghêu

Nguồn tin: CM, 24/01/2007
Ngày cập nhật: 28/1/2007

Ngày 22/01/2007, UBND tỉnh có Công văn đồng ý cho UBND huyện Ngọc Hiển được sử dụng 2.379 ha mặt nước để tổ chức nuôi nghêu, sò tại bãi Khai Long, huyện Ngọc Hiển.

Theo Báo cáo dự án khả thi nuôi nghêu bãi cát Khai Long, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, vào năm đầu tiên thực hiện dự án sẽ cho các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực tham gia nuôi nghêu. Tiếp theo sẽ ưu tiên giao hoặc cho thuê mặt nước cho những hộ dân tại địa phương chưa có việc làm; có lao động nhưng không đất sản xuất; những hộ chuyển từ nghề khai thác thuỷ sản ven bờ, mang tính sát hại nguồn lợi thuỷ sản sang nuôi nghêu, sò. Vốn đầu tư bình quân cho 01 ha nuôi nghêu khoảng 32 triệu đồng, 01 ha nuôi sò là 26 triệu đồng, do các tổ chức, cá nhân tham gia nuôi nghêu, sò tự đầu tư. Dự kiến sau 10 đến 12 tháng thả nghêu giống, sẽ thu hoạch được 11,5 tấn nghêu thịt/ha, với giá 6 triệu đồng/tấn thì lợi nhuận trên 21 triệu đồng. Sau 7 đến 9 tháng thả sò giống, sẽ thu hoạch được 04 tấn/ha, với giá 15 triệu đồng/tấn thì lợi nhuận trên 13 triệu đồng. Ngoài ra, dự án sẽ góp phần bảo vệ và phát triển loài nghêu, giải quyết việc làm cho những hộ nghèo, chuyển đổi ngành nghề cho các hộ khai thác thuỷ sản ven bờ trong khu vực, tạo nên một vùng du lịch sinh thái Khai Long - xóm Mũi Rạch Tàu - cụm đảo Hòn Khoai.

Để được nuôi nghêu, sò tại khu vực trên, các tổ chức, cá nhân phải lập thủ tục theo trình tự quy định tại Nghị định số 27/2005/NĐ-CP ngày 08/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuỷ sản, để xin UBND huyện Ngọc Hiển giao mặt nước, hoặc xin UBND tỉnh cho thuê mặt nước. Riêng đối với những vị trí đất ngập nước thì phải lập thủ tục xin giao đất hoặc thuê đất ngập nước theo quy định của Luật Đất đai.

Trung tín

 


Nguy cơ tăng trưởng nóng!

Nguồn tin: TBKTSG, 25/1/2007
Ngày cập nhật: 28/1/2007

Cá tra, cá ba sa là một trong những mặt hàng xuất khẩu có mức tăng nóng nhất trong năm qua. Đó là điều mà Bộ Thủy sản không mong muốn.

Năm 2006, tôm tiếp tục là sản phẩm xuất khẩu số một của ngành thủy sản Việt Nam với kim ngạch gần 1,6 tỉ đô la Mỹ. Nhưng trong năm nay cá có nhiều khả năng sẽ vượt qua con tôm để trở thành mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ của sản phẩm cá tra và cá ba sa. Theo Bộ Thủy sản, sản lượng cá tra, ba sa nuôi của Việt Nam vào năm ngoái đạt 825.000 tấn, tăng tới 2,2 lần so với năm trước đó và xuất khẩu đạt 750 triệu đô la Mỹ. Ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), dự báo kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này có thể đạt tới 1,8 tỉ đô la Mỹ trong năm nay.

Sản lượng cá tra, ba sa nuôi và xuất khẩu tăng quá nóng không làm cho Bộ Thủy sản và nhiều doanh nghiệp chế biến cá phấn khởi, mà chỉ làm tăng mối lo về sự bấp bênh của giá cả thị trường và những nguy cơ liên quan đến chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm và môi trường sinh thái.

Bà Nguyễn Thị Hồng Minh, Thứ trưởng Bộ Thủy sản, cho biết: “Chế biến cá tra, ba sa xuất khẩu đang là ngành có lợi nhuận cao, nên cuốn hút hàng loạt doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, trong đó có cả những công ty xây dựng, cao su. Chỉ riêng tại ĐBSCL, năm nay sẽ có thêm ít nhất 15 nhà máy chế biến cá ra đời”. Số lượng doanh nghiệp chế biến xuất hiện ngày càng nhiều, trong khi khả năng hợp tác với nhau kém, dễ dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán, kéo giá xuất khẩu xuống thấp như đã từng diễn ra với ngành may xuất khẩu. Tình trạng này, nếu xảy ra, sẽ đẩy các doanh nghiệp đến nguy cơ đối mặt với các vụ kiện bán phá giá.

Đến nay, thị trường cá tra, ba sa Việt Nam đã mở rộng đến 65 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhiều hơn gần bốn lần so với cách nay bốn năm. Tuy nhiên, việc xuất khẩu vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào một số thị trường chính, trong đó Liên hiệp châu Âu (EU) chiếm 46%, Nga 11,2%, Mỹ 9,8%... Tốc độ tăng xuất khẩu vào các thị trường lớn cũng đang rất nóng. Năm ngoái kim ngạch xuất khẩu vào EU tăng 158%, còn Nga tăng tới 1.500%. Nếu để xảy ra những vụ kiện bán phá giá ở những nơi này sẽ gây tác hại khôn lường lên ngành cá xuất khẩu. Trước đây, Mỹ từng là nước nhập khẩu cá tra, ba sa lớn nhất của Việt Nam, nhưng sau khi bị đánh thuế chống bán phá giá, mức tăng xuất khẩu vào thị trường này đã giảm mạnh.

Bên cạnh đó, việc gia tăng sản lượng cá nuôi ngoài tầm kiểm soát còn đe dọa làm mất cân đối thị trường. Hiện tại, nhu cầu cá tra, ba sa ở thị trường thế giới còn đang gia tăng và chưa có dấu hiệu sẽ bão hòa, nhưng nếu sản lượng cá của Việt Nam đưa ra thị trường thế giới cứ tiếp tục tăng đột biến như những năm vừa qua, cộng với khả năng Trung Quốc và một số nước Asean khác đầu tư vào sản xuất sản phẩm này, sẽ dễ dẫn đến tình trạng cung vượt cầu và nguy cơ cá rớt giá, giống như mặt hàng cà phê trước đây, là khó tránh khỏi.

Dù sao, khả năng mất cân đối cung - cầu cũng khó xảy ra trong thời gian gần. Điều Bộ Thủy sản lo ngại nhất là diện tích nuôi cá tra, ba sa tăng quá nhanh sẽ làm tổn hại môi trường sinh thái, ảnh hưởng xấu đến các ngành nuôi trồng thủy sản khác và nảy sinh vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm.

Đến cuối năm 2006, diện tích nuôi trồng thủy sản của Việt Nam là 1,05 triệu héc ta, tăng 15.600 héc ta so với năm trước. Phát triển nuôi, trồng thủy sản phải đi đôi với phát triển hệ thống thủy lợi, nhưng lâu nay việc đầu tư thủy lợi ở Việt Nam vẫn chủ yếu phục vụ cho các mục tiêu nông nghiệp. Quy hoạch phát triển vùng nuôi thủy sản thì chồng chéo với phát triển nông nghiệp, dẫn đến khó kiểm soát chất lượng nguồn nước cũng như vấn đề an toàn vệ sinh vùng nuôi thủy sản.

An toàn, vệ sinh thực phẩm đang là một trong những thách thức lớn nhất đối với ngành xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Tiêu chuẩn về hóa chất, dư lượng kháng sinh... do các nước nhập khẩu đưa ra ngày càng cao và muốn vượt qua rào cản kỹ thuật này, Việt Nam phải kiểm soát được chất lượng thủy sản ngay từ khâu nuôi, trồng, nghĩa là phải kiểm soát được từ con giống, chất lượng thức ăn, đến chất lượng nguồn nước...

Tại hội nghị tổng kết ngành thủy sản diễn ra vào trung tuần tháng Giêng vừa qua, Bộ Thủy sản đưa ra mục tiêu tăng sản lượng 6,24% đối với thủy sản nuôi trong năm 2007, nhưng trong bối cảnh phát triển ngoài tầm kiểm soát như hiện nay, khó mà giới hạn sản lượng. Một quan chức Bộ Thủy sản cho biết, bộ không thể cấm người dân phát triển vùng nuôi, nên giải pháp tốt nhất là các doanh nghiệp phải tự kiểm soát sản lượng chế biến, nhằm tránh gây xáo trộn thị trường. Đó là vai trò của Vasep, tổ chức quy tụ hầu hết các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy, hải sản hàng đầu Việt Nam. Từ mấy năm qua, không ít lần Vasep đã nỗ lực kết nối các thành viên với nhau, tạo ra một tiếng nói chung nhằm bảo đảm cho sự phát triển ổn định của ngành, nhưng không thành công. Một vị lãnh đạo của hiệp hội buồn bã nói: “Các thành viên vẫn không tin tưởng nhau và không ai chịu chia sẻ thông tin của mình”.

Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không đoàn kết lại với nhau nhằm phát huy sức mạnh qua các tổ chức hiệp hội, thì sẽ chịu nhiều thua thiệt trên thương trường thế giới.

Diện tích nuôi cá tra, ba sa tăng quá nhanh sẽ làm tổn hại môi trường sinh thái, ảnh hưởng xấu đến các ngành nuôi trồng thủy sản khác và nảy sinh vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm.

Đức Hoàng


Người giàu nhờ cá basa

Nguồn tin: KHPT, 26/01/2007
Ngày cập nhật: 27/1/2007

Từ đôi bàn tay chai sần, lưng trần cháy nắng; “không cục đất chọi chim”, không căn nhà lành lặn nhưng sau nhiều năm xuôi ngược khắp nơi, cần cù, chí thú làm ăn, chi tiêu tiết kiệm và tích cóp vốn liếng... hiện nay, anh Trần Văn Hùng, 49 tuổi, đã sở hữu một cơ ngơi khá đồ sộ, với tổng giá trị tài sản lên đến hàng trăm tỷ đồng, trở thành “đại gia” trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản ở vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long!

Người dân quanh vùng thường gọi anh Hùng bằng biệt danh đại gia “Hùng Cá”! Anh lấy biệt danh này đặt tên cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hùng Cá và trang web của công ty (hungca.com)...

Tiếp chuyện với chúng tôi bên cạnh dãy nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu trong cụm công nghiệp Thanh Bình (Đồng Tháp), anh Hùng kể cho tôi nghe về thời gian dựng nên cơ nghiệp Thanh Bình: “Tôi là đứa con thứ năm trong một gia đình nghèo ở huyện vùng biên giới Hồng Ngự. Gia cảnh khốn khó nên tôi không được đi học tới nơi tới chốn. Chưa hết lớp 3 phải nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình thả lưới, giăng câu, đóng đáy, tát đìa... khai thác thủy sản kiếm sống. Lúc rảnh, tôi còn làm mướn và thức khuya dậy sớm để hái từng bông điên điển, từng cọng rau muống, bông súng... đem ra chợ bán đổi từng lon gạo sinh sống qua ngày. Đến năm 20 tuổi, tôi lập gia đình”. Cuộc sống ngày thêm cơ cực, nên anh Hùng quyết định sang đất bạn Campuchia đấu thầu độc quyền khai thác thủy sản... Sau hơn 7 năm nỗ lực làm ăn, anh Hùng đã tích lũy được lưng vốn trên 10 lượng vàng... Trở lại quê nhà, anh Hùng đầu tư vốn đóng 2 chiếc bè gỗ neo đậu dưới lòng sông Tiền để nuôi cá basa...

Từ 2 bè gỗ nuôi cá basa đầu tiên vào năm 1987, đến năm 1997, gia đình anh Hùng đã phát triển thành 7 chiếc bè gỗ lớn. Mỗi năm, anh xuất bán hơn 3.000 tấn cá basa thương phẩm, thu nhập trên dưới 4 tỷ đồng! Và biệt danh đại gia “Hùng Cá” đã lan rộng ra khắp vùng châu thổ. Hùng Cá quyết định đầu tư vốn mua 6 ha đất bãi bồi ven sông Tiền, thuê xáng nạo vét thành 4 cái ao lớn rồi thiết kế đăng, bửng và hệ thống ống thoát nước, xử lý nước làm sạch môi trường... để phát triển nghề nuôi cá tra trên đất bãi bồi. Với bản tính dám nghĩ dám làm và áp dụng quy trình kỹ thuật nên sau vụ nuôi đầu này, Hùng Cá đã thu hoạch hơn 1.000 tấn cá tra thương phẩm, thu nhập hơn 1 tỷ đồng! Phấn khởi trước kết quả đạt được, sang năm 2000, anh Hùng tiếp tục thả nuôi cá tra vào 4 cái ao trên đất bãi bồi trên và tăng cường các giải pháp khoa học - công nghệ vào chăn nuôi nên cuối vụ thu hoạch, đã đưa sản lượng cá tra thương phẩm tăng cao, lợi nhuận thu được tăng hơn gấp đôi so vụ nuôi năm trước.

Sau nhiều năm nuôi cá basa trong bè, nuôi cá tra trong ao trên vùng đất bãi bồi thành công, Hùng Cá tiếp tục mua và thuê thêm đất đào ao mở rộng nghề nuôi cá da trơn. Đến năm 2005, trang trại nuôi cá tra của Hùng Cá đã lên đến 40 ao, mỗi ao rộng trên dưới một hecta. Hằng năm, trang trại của anh xuất bán ra thị trường gần 20.000 tấn cá thương phẩm, doanh thu đạt gần 300 tỷ đồng! Đầu năm 2006, Hùng Cá quyết định đầu tư 60 tỷ đồng mua thêm 12 ha đất trong cụm công nghiệp Thanh Bình để xây dựng nhà máy chế biến thủy sản công suất 130 tấn nguyên liệu/ngày, trang bị dây chuyền máy móc - thiết bị hiện đại, đạt tiêu chuẩn châu Âu chế biến cá tra xuất khẩu. Hùng Cá cũng đã nhận lời với lãnh đạo huyện ủy - UBND huyện Tam Nông đầu tư vốn khai thác thủy sản trên 20 ha đất tại huyện trung tâm vùng Đồng Tháp Mười này.

Công ty TNHH Hùng Cá hiện tại do chính Trần Văn Hùng làm chủ tịch hội đồng quản trị; người con trai trưởng làm tổng giám đốc, con kế làm giám đốc phụ trách xuất - nhập khẩu và con út làm giám đốc phụ trách sản xuất... Trần Văn Hùng cho biết: “Công ty đang thực hiện tiến đến mô hình sản xuất an toàn và bền vững, để tạo ra sản phẩm sạch và an toàn cho mọi người”. Công ty Hùng Cá đã giải quyết việc làm cho nhiều lao động nhàn rỗi ở địa phương... Hàng năm, công ty đều trích quỹ phúc lợi khoảng 300 triệu đồng để làm công tác từ thiện - xã hội, giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh, tài trợ cho các chương trình văn nghệ, thể thao, khuyến học khuyến tài...

TRẦN TRỌNG TRUNG

 


Nuôi cá tra tăng sản trên vùng mặn đạt hiệu qủa kinh tế cao

Nguồn tin: Fistenet, 25/1/2007
Ngày cập nhật: 27/1/2007

Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre vừa thu hoạch ba ao nuôi cá tra tăng sản xuất khẩu thí điểm tại vùng nhiễm mặn thuộc ấp Bình Lộc, xã Đại Hòa Lộc, huyện Bình Đại.

Với diện tích 2,3 ha mặt nước, mật độ thả 10 con/m2, tỷ lệ sống đạt 93%, thời gian nuôi 140 ngày, sử dụng thức ăn viên công nghiệp, trọng lượng các thu hoạch đạt bình quân 950 gram/ con. Giá cá tra thương phẩm hiện nay trên 15.000 đồng một kg, sau khi trừ chi phí, mỗi kg các thương phẩm lời khoảng 5.000 đồng. Đây là mô hình thí điểm luân canh một vụ tôm sú, một vụ cá tra mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thuận lợi của mô hình này là tận dụng mặt nước của ao nuôi tôm có sẵn để nuôi cá, do có hàm lượng muối ngấm trong đất, cá nuôi ít hao hụt, ít nhiễm bệnh nên chi phí sản xuất thấp, các chỉ tiêu tăng trọng, tiêu tốn thức ăn tương đương với nuôi ở vùng nước ngọt. Trở ngại của mô hình này là, việc thay nước vào ao nuôi, do vậy cần phải có ao dự trữ nước ngọt. Thành công từ mô hình này đã mở ra một triển vọng mới cho nghề nuôi thủy sản ở các địa phương trong tỉnh.

(Đài PT-TH Bến Tre, 18/1/2006)

 


Sản xuất cá sạch vấn đề quan tâm ở huyện Châu Phú (An Giang)

Nguồn tin: AG, 25/1/2007
Ngày cập nhật: 27/1/2007

Nuôi trồng thuỷ sản đang là thế mạnh trong phát triển nông nghiệp của tỉnh, năm 2006 chăn nuôi thuỷ sản chiếm gần 20% trong cơ cấu sản xuất của ngành nông nghiệp và chiếm 4,67% trong GDP toàn tỉnh. Để nuôi trồng thuỷ sản phát triển ổn định và bền vững, nhất là nước ta trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới thì vấn đề chất lượng sản phẩm được đặt lên hàng đầu. Thời gian qua, Ngành thuỷ sản tỉnh đã triển khai chương trình quản lý chất lượng, hình thành các hiệp hội nuôi cá sạch, thực hiện khép kín qui trình nuôi cá để sản phẩm cá đạt chất lượng cao phục vụ chế biến xuất khẩu. Châu Phú là nơi sớm qui hoạch vùng chăn nuôi thuỷ sản, triển khai chương trình quản lý chất lượng cho ngư dân, qua đó đã được ngư dân áp dụng và đạt nhiều kết qủa.

Nuôi trồng thuỷ sản được huyện Châu Phú xác định là thế mạnh thứ 2 trong sản xuất nông nghiệp hiện nay. Thời gian qua, Châu Phú đã tập trung qui hoạch vùng nuôi trồng thuỷ sản, vận động bà con nông dân khai thác lợi thế để nuôi thuỷ sản và giới thiệu các mô hình chăn nuôi đạt hiệu quả để bà con nông dân học hỏi làm theo. Đến nay huyện Châu Phú có 2.469 ao hầm nuôi cá với diện tích trên 363 ha, 255 bè cá lớn nhỏ, sản lượng cá nuôi đạt trên 60.000 tấn, tăng 10.000 tấn so với năm 2.005. diện tích nuôi tôm là 140 ha, tăng gần 20 ha so với năm trước, sản lượng trên 150 tấn tôm thương phẩm. Kỹ sư Huỳnh Thị Khắc Hạnh, Phó phòng NN&PTNT Huyện cho biết, Để phát triển thuỷ sản, huyện Châu Phú đã xúc tiến hình thành 3 chi hội nghề cá, đang chuẩn bị thành lập thêm 3 chi hội nghề tôm và cá, tổ chức hàng chục buổi hội thảo chuyển giao mô hình nuôi trồng thuỷ sản cho bà con nông dân, tổ chức 10 lớp tập huấn kỹ thuật cho gần 300 hộ, trong đó có 2 lớp chuyển giao quy trình sản xuất cá sạch theo tiêu chuẩn SQF 1000CM, đã được bà con ứng dụng vào sản xuất đạt hiệu qủa cao.

Mô hình nuôi cá sạch của Chi hội nghề cá Thạnh Phú xã Bình Thuỷ là nơi thực hiện qui trình nuôi cá chất lượng cao khá thành công. Hiện chi hội nghề cá Thạnh Phú có 9 hộ nuôi cá tra với diện tích 30, 7 ha sản lượng cá nuôi trung bình mỗi vụ khoảng 2.500 tấn. Hầu hết các hộ nuôi cá đều tuân thủ thực hiện đúng qui trình nuôi cá sạch như thiết kế ao nuôi có hệ thống cấp thoát nước riêng biệt, thường xuyên sử dụng máy vét đáy ao, quản lý tốt nguồn giống sạch bệnh, sử dụng thức ăn công nghiệp, nhằm giảm dịch bệnh và đặc biệt cá hộ cam kết không sử dụng kháng sinh cấm trong nuôi trồng thuỷ sản. Chính vì thực hiện tốt qui trình nuôi cá nên hộ chăn nuôi nào cũng đều có sản phẩm cá đạt chất lượng cao. Ông Nguyễn Văn Bé, Chi hội trưởng nghề cá Thạnh Phú xã Bình Thuỷ cho biết, riêng ông có 2 ha nuôi cá vụ vừa rồi thu hoạch trên 300 tấn cá, sau khi bán trừ chi phí còn lời trên 800 triệu đồng. Vụ này ông thả 450.000 cá giống thực hiện đúng quy trình nuôi cá sạch, hiện cá phát triển tốt đạt trên 600 gram hứa hẹn vụ mùa bội thu.

Ông Huỳnh Sóc Mến, thành viên của Chi hội nghề cá Thạnh Phú có 7.000 mét vuông mặt nước, ông thả 320.000 con cá giống, áp dụng đúng kỹ thuật nuôi cá sạch như kiểm soát nguồn nước sạch trước khi cấp vào ao, tức là ngay nơi bơm nước ông dùng muối hột và vôi xử lý, trong hệ thống cấp nước ông đều treo vôi và muối xử lý nước lần 2, sử dụng thức ăn hợp lý, hàng tuần đều rãi vôi cặp bờ ao và rãi muối sát trùng môi trường nước. Sau 2 tháng thả cá, nền đáy bị dơ ông Mến cho nhân công bơm vét đáy hàng ngày, chính nhờ vậy nước trong ao lúc nào cũng sạch giúp cá phát triển khoẻ mạnh và tỷ lệ cá chết giai đoạn đầu rất thấp.

Theo ông Huỳnh Sóc Mến, thực hiện được qui trình nuôi cá sạch là nhờ ông theo học lớp chuyển giao kỹ thuật của huyện, giúp ông biết cách quản lý tốt môi trường nước, kiểm soát dịch bệnh và không sử dụng kháng sinh cấm mà cá vẫn phát triển tốt. Hiện cá đang trong thời gian tăng trọng nhanh, ông sử dụng thức ăn công nghiệp nuôi thúc và dự kiến sau tết Nguyên đán sẽ thu hoạch lứa cá sạch đầu tiên, đây sẽ là tiền đề để ông áp dụng qui trình nuôi cá sạch sau này.

Kỹ sư Lê Trần Minh Hiếu, cán bộ kỹ thuật Trạm khuyến nông huyện Châu Phú cho rằng, Để nuôi cá đạt chất lượng cao, theo giới chuyên môn ngành thuỷ sản thì việc kiểm soát tốt môi trường nước có vai trò quan trọng sẽ góp phần quyết định đến sự thành công của nghề chăn nuôi thuỷ sản. Bởi vì, nếu quản lý tốt nguồn nước sẽ giúp cá phát triển tốt, hạn chế dịch bệnh, giảm chi phí phòng trị bệnh ở thời điểm giao mùa. Lợi ích của việc quản lý tốt môi trường nước nuôi cá được khuyến cáo qua các cách sau.

Theo nhiều ngư dân nuôi cá sạch đề xuất, để phát triển thuỷ sản một cách ổn định và bền vững tỉnh ta cần quan đến việc qui hoạch vùng nuôi cá, và các hộ chăn nuôi phải tuân thủ thực hiện qui trình nuôi cá sạch theo tiêu chuẩn SQF 1.000CM. Đối với các hộ nuôi cá nhỏ lẻ không thuân thủ qui trình nuôi cá sạch thì chuyển sang nuôi đối tượng cá khác nhằm hạn chế rũi ro và giảm ảnh hưởng chất lượng cá tra chế biến xuất.

Sản xuất cá sạch phục vụ chế biến xuất khẩu phải đạt các yêu cầu sản phẩm cá đạt chất lượng cao và không có dư lượng thuốc kháng sinh cấm sử dụng. Hiện Ngành thuỷ sản tỉnh đang tăng cường công tác quản lý nhà nước về qui hoạch vùng nuôi, hình thành các hội nuôi cá sạch, tăng cường củng cố nâng chất các tổ chức nuôi trồng và chế biến thuỷ sản đảm bảo vai trò cầu nối giữa ngư dân với doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước. Nuôi cá sạch để sản phẩm thuỷ sản đạt chất lượng cao, đây là xu thế sản xuất thời hội nhập. Hy vọng, vấn đề nuôi cá sạch được ngư dân quan tâm thực hiện để sản phẩm cá tra chế biến xuất khẩu đạt chất lượng cao tiếp tục vươn xa hơn trên thị trường thế giới, góp phần thúc đẩy phát triển ngành chăn nuôi thuỷ sản tỉnh nhà.

Trung Liêm

 


Cá chình - Nguồn lợi thủy sản có triển vọng ở ĐBSCL

Nguồn tin: BCT, 25/1/2007
Ngày cập nhật: 26/1/2007

Hiện nay, hàng trăm ngàn con cá chình giống nước mặn và nước ngọt được thả nuôi vào cuối năm 2006 đầu 2007 ở vùng nuôi tôm nước mặn, nước lợ và nuôi cá nước ngọt ở ĐBSCL. Quy mô nuôi tùy theo vốn và khả năng đầu tư mỗi hộ, từ vài chục con, vài trăm và có hộ nuôi lên đến vài ngàn con. Loài thủy sản nhiều triển vọng này đang được nông dân chú ý...

Lợi thế của cá chình là lớn nhanh, giá trị thương phẩm cao, ít bệnh, tỷ lệ hao hụt giống rất thấp... Hiện tại, phong trào nuôi cá chình nước mặn và lợ khá sôi động, nhất là các vùng nước lợ ở các huyện Thới Bình, Đầm Dơi, U Minh (Cà Mau), Giá Rai, Đông Hải, Vĩnh Lợi (Bạc Liêu)... Cá chình nước ngọt cũng phát triển rộng khắp trong vùng ĐBSCL với quy mô nuôi gia đình.

Trong thực tế, cá chình được nuôi tại vùng Bán đảo Cà Mau như tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng... sau 24 tháng, có khả năng đạt trọng lượng từ 2 -3 kg /con. Cá chình giống lúc thả nuôi bình quân 10-12 con/kg loại nhỏ, loại trung 8-10 con và loại lớn 6-8 con/kg. Như vậy, tăng trọng của các hình thức nuôi nước mặn và nước ngọt bình quân khoảng từ 1-2 kg/con/ năm, với thức ăn đầy đủ, tương đương 6 -8 kg cá tạp thô thì đạt trọng lượng 1 kg cá thịt. Thả nuôi cá chình giống 6-8 con /kg sẽ rút ngắn thời gian tăng trọng, một năm nuôi có thể đạt trên 2 kg/con. Theo nhiều hộ nông dân, cá chình có giá trị kinh tế cao, có triển vọng khai thác vùng sinh thái nước mặn, nước lợ và nước ngọt để đa dạng hóa vật nuôi thủy sản thay vì chỉ nuôi độc canh tôm sú (sinh thái mặn), cá da trơn (sinh thái ngọt)... Các đại lý mua cá chình nước mặn và nước ngọt theo trọng lượng càng to thì giá càng cao. Giá cá chình nước mặn trên 2 kg/con có thể mua từ 280.000 -300.000 đồng/kg, còn nhỏ hơn cũng khoảng 250.000 đồng /kg. Cá chình nước ngọt mua từ 150.000 -180.000 đồng/kg tùy theo cá loại nhất, nhì... Đầu ra chủ yếu hiện nay là các siêu thị và nhà hàng cao cấp trong cả nước.

Cá chình nước ngọt và nước mặn có chiều hướng nuôi phổ biến ở các vùng nuôi tôm, nhưng nông dân đang lo là nguồn cá giống giá còn quá cao, loại 10 con/kg lúc thả nuôi vào tháng 11 và 12-2006 lên đến 330.000 đồng/kg. Chủ yếu là đặt mua các đại lý miền Trung đem vào. Được biết cá chình nước mặn chưa sinh sản nhân tạo được như tôm hay các loài cá khác. Nhân dân các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận... tự kéo, đẩy te ở các cửa sông rồi dự trữ thu gom chuyển vào bán cho các tỉnh ĐBSCL. Cá chình sinh sản vào cuối tháng 10 âm lịch và kéo dài cho đến tháng 2 và 3 âm lịch năm sau. Cá chình sinh sản giao phối từ biển khi thành con vào bờ tìm mồi ăn và lớn lên trở ra biển giao phối sinh sản. Cá chình có đặc tính ăn thức ăn chìm, trong khi các loài cá da trơn (cá ba sa, cá tra) ăn thức ăn nổi, nên cho cá chình ăn chủ yếu là thức ăn thô tự nhiên từ nguồn cá tạp phong phú ở bán đảo Cà Mau. Cá rô phi rất hợp “khẩu vị” cá chình, khi cho ăn chỉ cần thái nhỏ tùy theo trọng lượng của cá chình.

Kỹ thuật nuôi cá chình là tự phát trong dân chưa có khoa học hỗ trợ để giúp họ khi cần thiết phát triển nghề nuôi cá chình thành hàng hóa lớn để đa canh vùng nuôi trồng thủy sản thay vì chỉ có độc canh nuôi tôm sú, rủi ro rất lớn so với nuôi cá chình. Hơn nữa đầu ra cá chình chưa ổn định chủ yếu bán cho lái các tỉnh miền Trung còn khu vực ĐBSCL chưa có đơn vị mua chế biến xuất khẩu cá chình nên bà con sợ như nuôi cá sấu, ba ba... không có đầu ra. Đặc biệt nhất là nguồn vốn đầu tư nuôi cá chình hầu như cạn kiệt trong dân vì rủi ro từ phong trào nuôi tôm sú tràn lan thiếu khoa học và kỹ thuật nuôi. Hiện nay không ít trang trại nuôi tôm sú bị phá sản. Còn nông dân nuôi tôm thì cầm cố quyền sử dụng đất của họ gần hết cho ngân hàng. Trong khi nuôi cá chình đầu tư vốn rất lớn không thua cá da trơn nhưng thu hoạch tính hàng năm không như tôm sú hay cá da trơn chỉ vài tháng. Mặc dù thời gian nuôi dài hơn tôm sú nhưng sự rủi ro trong nuôi cá chình tại vùng sinh thái mặn và ngọt ở ĐBSCL rất ít. Chính sách khuyến ngư cũng như đầu tư cho cá chình hay chuyển dịch từ tôm sú sang cá chình còn bỏ ngỏ từ chủ trương chính sách của các địa phương.

Nếu các yếu tố trên được khắc phục, nhất là giống, kỹ thuật vốn đầu tư và đầu ra ổn định, con cá chình nước mặn và nước ngọt trở thành triển vọng lớn để nông dân chuyển dịch, hoặc đa canh từ nuôi tôm sú xen với cá chình (vùng sinh thái mặn), cá da trơn với cá chình nước ngọt (vùng sinh thái ngọt)... Khai thác và bảo vệ nguồn lợi cá chình của nước ta hiện nay cũng cần đặt ra, để bảo tồn cân bằng nguồn giống và phát triển đàn cá chình thương phẩm. Từ đó khai thác lợi thế đưa cá chình thành mặt hàng chủ lực xuất khẩu như con tôm sú và cá da trơn ở các tỉnh ĐBSCL.

Bài và ảnh: TRẦN QUỐC THÁI

 


Hiệu quả đem lại từ chương trình hỗ trợ giống cá nước ngọt

Nguồn tin: Ninh Thuận, 24/01/2007
Ngày cập nhật: 26/1/2007

Thực hiện đa dạng đối tượng nuôi trồng thủy sản, trong 2 năm qua Ban Quản lý Chương trình Hỗ trợ giống thủy sản tỉnh Ninh Thuận đã chú trọng đưa giống cá nước ngọt về cho bà con nông dân thả nuôi. Theo Ban Quản lý, nếu tính trong Chương trình thì toàn tỉnh có tổng diện tích 346,92 ha mặt nước nuôi cá nước ngọt được hỗ trợ giống, trong đó có 54,92 ha của 318 hộ dân nuôi và 3 đập hồ chứa nước: Sông Trâu (diện tích 287 ha), Ma Trai (5,5ha) ở Phước Chiến (Thuận Bắc) và Ông Kinh (1,2 ha) ở Nhơn Hải (Ninh Hải). Khởi động từ cuối năm 2005, ngành Thủy sản hỗ trợ tổng cộng 1 triệu con giống, đã góp phần đưa phong trào nuôi cá nước ngọt ở tỉnh ta phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.

Thông thường, thời vụ thả nuôi cá trong năm bắt đầu từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, tùy thuộc vào hình thức nuôi. Các mô hình nuôi luân canh một vụ lúa - một vụ cá thường thả giống vào tháng 3, 4 sau khi gần kết thúc vụ lúa đông - xuân. Các mô hình nuôi chuyên canh, nuôi ghép thường thả giống vào tháng 2. Mật độ cá giống thả nuôi trung bình 2-3 con/m3, các ao nuôi chuyên canh cá diêu hồng, cá trên thả cao hơn với mật độ 4-6 con/m2, các ao nuôi ghép nhiều đối tượng cá (như trắm, trôi, mè, chép, rô phi) thả mật độ thấp hơn từ 1 đến 2 con/m2. Theo tìm hiểu của chúng tôi, Thành Hải, Văn hải (Phan Rang - Tháp chàm); Phước Hữu, Phước Dân (Ninh Phước); Lâm Sơn, Lương Sơn, Quảng Sơn (Ninh Sơn) chính là những vùng nuôi tập trung, ở đây tuy số lượng giống hỗ trợ không nhiều nhưng đa số các hộ đều tự mua bổ sung giống cá nuôi như: Trắm cỏ, mè trắng, mè vinh, trôi, cá tra… Nhờ vậy đã nâng mật độ nuôi lên 2-3 con/m2, nhiều hộ nuôi lên 2-3 con/m2, nhiều hộ nuôi chuyên canh có mật độ lên đến 5-7 con/m2. Chị Bùi Thị Anh Vân, Phó Giám đốc Sở Thủy sản - Trưởng Ban quản lý Chương trình Hỗ trợ Giống thủy sản cho biết, các mô hình nuôi phổ biến thật sự mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho nông dân hiện nay là: VAC, VACR, xen canh (cá - lúa), luân canh 1 vụ lúa - 1 vụ cá. Qua điều tra của ngành Thủy sản, sản lượng cá nước ngọt bình quân đạt 2,2 tấn/ha, các hộ nuôi bình quân lãi 10-15 triệu đồng/ha. Đặc biệt ở một số vùng đồng bào dân tộc miền núi hoặc vùng sâu như Phước Chiến (Thuận Bắc), Phước Chính (Bác Ái) và Phước Minh (Ninh Phước), Chương trình hỗ trợ giống đã giúp khắc phục phần nào những khó khăn trong sản xuất trước tình hình hạn hán năm 2005. Mặc dù mức độ đầu tư nuôi cá chưa cao so với những vùng khác nhưng các xã cũng đã giải quyết được nhu cầu thực phẩm tại chỗ cho người dân.

Đối với loại hình nuôi mặt nước lớn như đập thủy lợi, hồ chứa nước tưới phục vụ nông nghiệp, ngoài lượng giống hỗ trợ của chương trình, Ban quản lý các hồ đập còn đưa thêm một số đối tượng nuôi sử dụng thức ăn tự nhiên như: mè trắng, mè hoa, trắm cỏ… Do đặc trưng của loại hình này là khi thu hoạch chỉ đánh tỉa, thả bù cho nên sau thời gian nuôi 8 tháng, kích cỡ cá đạt giá trị thương phẩm 0,8-1kg/con. Có thể nói việc hỗ trợ giống cá nước ngọt cho các hồ, đập chứa nước đã mang lại kết quả, giải quyết nhu cầu thực phẩm cho người dân sinh sống ven hồ, chẳng hạn ở hồ Ma Trai, Nhơn Hải, hoặc nâng cao thu nhập cho người nuôi như trường hợp ở hồ Sông Trâu.

Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn một số vùng nuôi cá nước ngọt trên địa bàn huyện Ninh Hải không có hiệu quả kinh tế. Qua các đợt kiểm tra định kỳ và thống kê tại các hộ nuôi đã tiến hành thu hoạch cho thấy tốc độ sinh trưởng và phát triển của cá rất chậm do phần lớn được thả nuôi trong các ao đìa nuôi tôm sú, nền đáy nhiễm mặn không phù hợp với một số loài cá sống hoàn toàn trong môi trường nước ngọt như các loại cá: Chép, chim trắng, trê lai…Thêm vào đó việc chăm sóc, quản lý, cho ăn của các hộ nuôi cũng rất hạn chế đã làm ảnh hưởng nhiều đến sinh trưởng và phát triển của các đối tượng nuôi, do đó hiệu quả kinh tế mang lại không cao.

Nhìn chung, dù không phải vùng nuôi nào cũng đạt hiệu quả nhưng có thể thấy rõ Chương trình Hỗ trợ giống cá nước ngọt đã mang lại ý nghĩa to lớn, đặc biệt là ở miền núi. Trước triển vọng phát triển của nghề nuôi cá nước ngọt, cuối năm 2006, Ban Quản lý Chương trình đã tiến hành hỗ trợ 1.075.000 con giống (cá rô phi và cá chép) cho 1.050 hộ dân ở 28 xã, phường, thị trấn trong tỉnh. Thời gian nuôi tính đến nay chưa lâu, nhưng qua điều tra của Trung tâm Khuyến ngư, cá sinh trưởng và phát triển bình thường. Điều đó hứa hẹn trong năm nay sẽ có thêm thu nhập để ổn định cuộc sống.

Bạch Thương, Báo Ninh Thuận

 


Nghề giũ đùm

Nguồn tin: Bình Thuận, 24/01/2007
Ngày cập nhật: 26/1/2007

Vĩnh Tân (Bình Thuận), những năm gần đây nghề nuôi tôm hùm bằng lồng bè trên biển phát triển mạnh, và dĩ nhiên nhu cầu tôm giống cũng tăng nhanh. Nhiều người dân cho rằng từ khi việc nuôi tôm hùm rộ lên, tôm giống ven bờ bỗng nhiên xuất hiện nhiều, giá lại cao nên hấp dẫn người khai thác. Từ đó cả làng có thêm nghề mới, nghề giũ đùm.

Từ làm “bẫy” tôm giống

Vĩnh Tân giữa tháng đầu năm 2007, không khí thật sôi động, không chỉ là thu hoạch tôm hùm, cá mú lồng bè; mà nhộn nhịp nhất là làm đùm, thả đùm để khai thác tôm giống. Tôi gặp Lê Dũng 37 tuổi, thợ may, cũng là “ông chủ” của hai lồng nuôi tôm hùm đang say sưa với tấm lưới vụn trên tay. “Em đang làm đùm, mình ít vốn nên tranh thủ làm thêm nghề này, vừa có tôm giống để nuôi, còn thừa bán có thêm thu nhập, nghề này “làm chơi ăn thật, hàng ngày kiếm được vài triệu”, anh nói. Vừa nói, anh vừa dùng dao cắt lưới mùng, lưới cũ ra từng tấm nhỏ theo chiều dài khoảng 60cm, chiều rộng 30 – 40cm. Cắt xong anh cầm từng tấm dùng ghim nẹp (kim) xỏ cước, khâu túm lại phần đầu, phần dưới vẫn để bung ra bùng nhùng tự nhiên. Sau này khi đưa xuống nước, phần đầu sẽ được nối với phao bên trên, phần dưới sẽ trôi tự do uyển chuyển theo sóng nước được giới hạn cố định bởi vật nặng bên dưới như chì, đá, bao cát. Qua trao đổi, tôi biết anh Dũng hiện có trên 200 đùm, anh đang làm thêm 100 đùm lưới nữa để thả trong vụ này. Anh Nguyễn Đình Nam – Chủ tịch Hội Nông dân xã Vĩnh Tân đi cùng tôi cho biết: “Hiện giờ, cả làng đang làm nghề này, nhà nào ít nhất cũng thả 100 đùm, nhiều nhất đến 600 đùm, nên không còn lưới cũ, lưới phế thải, để tận dụng nữa, mà phải mua lưới mới 12.000 đồng/kg, làm một đùm phải từ 1,5kg – 2kg lưới”. Chị Vân Hường tuổi xấp xỉ 50 tình cờ có mặt cũng lên tiếng “ở đây nhà nào cũng làm thêm nghề này, đơn giản là dễ làm, ít tốn công, nhiều lúc lại trúng. Tôi cũng nuôi 8 lồng tôm, thả trên 300 đùm, hàng trăm cục san hô, có tháng kiếm được 3,4 triệu đồng”…Tôi ngạc nhiên hỏi chị, san hô làm sao bắt tôm? “Lát nữa anh sang nhà tôi, mấy đứa nhỏ con tôi đang khoan lỗ san hô bên đó” - chị nói. Qua tìm hiểu tôi được biết, trước khi có nghề giũ đùm, những người khai thác tôm giống thông thường là lặn bắt từng con trong các rặng san hô. Do quá trình ấu trùng di chuyển lớn lên thành post, rồi tôm giống, tôm giống lưu trú lại trong các lỗ, khe hốc đá san hô hoặc trong những tấm lưới rách bùng nhùng kẹt lại trong các rặng đá để phát triển. Tôi đến nhà chị Hường, hai cậu con trai chị khoảng 19 và ngoài 20 tuổi đang mải mê với khoan điện và đục trong tay. Từng viên san hô có chiều dài từ 40 – 60cm, chiều rộng 15 – 20cm, được khoan rất nhiều lỗ sâu khoảng 10cm, bên trên khoan một lỗ xuyên qua để cột dây nối với phao bên trên, các lỗ khoan sâu trên hai bề mặt viên san hô chính là nơi trú ngụ của tôm giống.

Đến giăng “bẫy”

Từ sáng sớm anh Nam đưa tôi ra bãi biển, nơi tôi muốn tìm hiểu cách thả và giũ đùm. Tình cờ tôi gặp lại anh Huỳnh Dìa 35 tuổi, người bị thiệt hại hàng trăm triệu đồng do tôm chết trong cơn bão số 9 vừa qua, anh đang chuẩn bị chuyển 200 đùm lưới ra chiếc thuyền nhỏ đang neo sát mép nước. Tôi theo anh lên thuyền, trên thuyền ngoài đùm lưới còn có cả phao và một số bao cát nhỏ nặng khoảng 10kg, chỉ có hai bao lớn gấp đôi. Thuyền nổ máy và chạy ra một đoạn ngắn cách bờ chừng 15m là bắt đầu thả đùm, nơi đã được chọn trước. Đầu tiên là thả một bao cát 20kg để giữ vị trí cố định cho một đầu, bên trên là một phao nổi để định vị và đầu bên kia cũng vậy. Kết nối giữa hai đầu là sợi dây cước lớn bằng nửa ngón chân cái, dài hơn 100m (độ dài tùy thuộc số lượng đùm kết vào), trên suốt đoạn dây được cột các đùm lưới vào với mật độ đùm cách đùm nửa mét; rải rác trên từng đoạn dây là thả bao cát 10kg và phao nổi. Theo anh Dìa và những người thả đùm có kinh nghiệm cho biết: làm thế nào thì tùy mỗi người, nhưng đùm phải chìm cách mặt nước nửa mét là hiệu quả nhất. Tương tự các viên đá san hô cũng được thả với khoảng cách và độ sâu như vậy. Nhìn xung quanh vùng biển này, tôi thấy nhiều người cũng đang thả đùm với phương tiện thúng chai là chủ yếu. Những vùng cho năng suất cao mật độ thả đùm lưới khá dày, lớp trong, lớp ngoài. Anh Nam cho biết: “chưa thể nói thả trong hay ngoài thì năng suất cao hơn, nhưng chủ yếu là may rủi. Trên vùng biển Tuy Phong, do ưu đãi của tự nhiên từ Vĩnh Tân, Vĩnh Hảo cho đến Bình Thạnh, Chí Công đều có rất nhiều tôm giống. Vùng biển Vĩnh Tân chủ yếu là cho tôm giống xanh, biển Bình Thạnh lại nhiều tôm bông, giá trị hơn.

Giữ đùm và hiệu quả

Từ thuyền tôi xuống thúng, theo anh Trần Sang 45 tuổi đang lúc bơi thúng đi giũ đùm. Anh cũng là người nuôi tôm hùm lồng bè có thu nhập hàng năm vài trăm triệu đồng. Thông thường việc giũ đùm mỗi buổi sáng, anh giao cho đứa con trai 17 tuổi đi làm, sáng nay có việc nên anh đi thay. Việc giũ đùm diễn ra khá đơn giản, từ đầu phao này đến cuối phao kia, anh lần lượt kéo từng đùm lưới lên thúng, rồi cầm phần đầu của đùm lưới giũ mạnh 5,3 cái, nếu có tôm giống bên trong sẽ rớt văng ra thúng. Chính cái động tác giũ lưới này, nên người dân ở đây mới gọi là nghề giũ đùm. Còn đối với các viên đá san hô, khi kéo lên thúng nhìn vào các lỗ khoan trên mặt đá, nếu có sẽ thấy tôm vào trú bên trong để lộ râu ra ngoài. Tôm giống được khai thác phổ biến có độ lớn bằng chiếc đũa. Với hơn 150 đùm lưới và vài chục viên đá san hô sáng nay, anh Sang có được 10 con tôm xanh, 2 tôm bông. Giá tôm xanh thấp nhất cũng 35.000 đồng còn cao 60.000 – 70.000 đồng/con; tôm bông từ 180.000 – 210.000 đồng/con, sau hơn một giờ giũ đùm anh Sang đã có trong tay 700.000 – 800.000 đồng. Anh Nam và những người làm nghề giũ đùm cho biết: “nghề này chỉ diễn ra 5 tháng, bắt đầu từ tháng 11 cho đến tháng 3 âm lịch năm sau, thu nhập cho mỗi hộ làm nghề này ít nhất là vài triệu, nhiều 4,5 triệu đồng/tháng.

Điển hình cho nghề này, có thể nói Đặng Văn Dũng 43 tuổi, một lao động nghèo, nợ ngân hàng chục triệu đồng, xếp vào loại khó đòi. Ấy vậy, nhờ nghề này, Dũng đã trả được nợ, xây được nhà kiên cố 60 – 70 triệu đồng, hàng tháng có thu nhập từ nghề này 4,5 triệu.

Những điều suy nghĩ

Chúng ta thấy nghề giũ đùm ở Vĩnh Tân, đã giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động không nhỏ, làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho nhiều người và cả một vùng nghèo; cung cấp giống cho phát triển nghề nuôi tôm hùm, đặc biệt là giống vùng này rất tốt. Trong lúc các nhà khoa học chưa thành công trong việc tạo giống tôm hùm, nguồn nuôi vẫn phải khai thác từ thiên nhiên. Nhưng hiện nay Sở Thủy sản đang cấm nghề này hoạt động. Anh La Châu Trinh – Phó Giám đốc Sở Thủy sản, phụ trách về nuôi trồng cho biết “vì nghề giũ đùm cũng hoạt động với hình thức dùng lưới để khai thác hải sản non, chưa đúng kích cỡ quy định, làm ảnh hưởng đến tính ổn định và bền vững của nguồn giống. Mặt khác tàu thuyền qua lại bị vướng lưới vào chân vịt. Người dân đang đối phó bằng cách chuyển từ lưới qua san hô”. Theo chúng tôi, nhu cầu cung cấp giống từ tôm thiên nhiên cho phát triển nghề nuôi tôm hùm lồng bè là một tất yếu, không những thế mà nhu cầu ngày càng tăng. Chính vì vậy, ngành thủy sản cần xem xét lại vấn đề này một cách cụ thể. Như quy hoạch lại vùng thả đùm để không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và sự qua lại của tàu thuyền; khai thác không mang tính hủy diệt, quy định thời điểm và kích cỡ tôm được khai thác…hướng đến mục tiêu cung cấp đủ giống tốt, đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định và không ngừng cải thiện đời sống những người làm nghề khai thác tôm giống.

Đông Bình

 


Quảng Ninh: Bắt giữ hơn 5 tấn cá sấu trái phép

Nguồn tin: NLĐ, 24/1/2007
Ngày cập nhật: 26/1/2007

Đội Kiểm soát lâm sản đường bộ thuộc Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ninh ngày 23-1 đã bắt giữ xe tải mang biển kiểm soát 14L-6035 chở 321 con cá sấu nước ngọt có tổng trọng lượng 5.145 kg, do Trần Duy Mạnh (SN 1978, trú tại Minh Thành, huyện Yên Hưng - Quảng Ninh) điều khiển, đang trên đường vận chuyển không có hóa đơn hay giấy tờ hợp lệ từ Thái Bình ra cửa khẩu Bắc Phong Sinh để tiêu thụ.

Theo TTXVN, điều tra ban đầu cho biết chủ số hàng trên là Phùng Trung Dũng (SN 1976, trú tại huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình); chủ ô tô là Đàm Quang Phúc (SN 1947, trú tại xã Đại Yên TP Hạ Long - Quảng Ninh).

B.T.V

 


An Giang: Phát triển thuỷ sản phải hướng đến chất lượng

Nguồn tin: AG, 24/1/2007
Ngày cập nhật: 26/1/2007

Năm qua, tình hình nuôi trồng thuỷ sản ở An Giang không ngừng tăng trưởng cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 20%, góp phần vào tăng trưởng kinh tế xã hội chung của tỉnh. Đó là được sự quan tâm chỉ đạo của UBND tỉnh và sự phối hợp của các cơ quan ban ngành liên quan, nên sản xuất thuỷ sản dần dần phát triển theo hướng quy hoạch, tăng diện tích nuôi và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công tác khuyến ngư được đẩy mạnh, chuyển giao những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, giúp ngư dân nuôi trồng thuỷ sản đạt hiệu qủa.

Năm 2006, nuôi thuỷ sản ở An Giang đạt hiệu quả cao, chiếm gần 20% trong cơ cấu sản xuất của ngành nông nghiệp và chiếm 4,67% trong GDP toàn tỉnh. Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt xấp xỉ 2.000 ha, với nhiều mô hình nuôi trồng thuỷ sản đa dạng như nuôi ao hầm 1.066 ha tăng 3,4% so với cùng kỳ, mô hình nuôi thuỷ sản chân ruộng gần 800 ha, tăng 150% so với cùng kỳ, mô hình nuôi thuỷ sản đăng quầng và trong vèo đều tăng, riêng nuôi thuỷ sản lồng bè chỉ đạt 92%. Tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 182.000 tấn tăng 0,63% so với năm trước. Năm qua Ngành thuỷ sản tỉnh đã tổ chức trên 120 lớp tập huấn, 100 cuộc hội thảo chuyển giao khoa học kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản cho trên 7.650 lượt ngư dân. Triển khai nhiều dự án phát triển thuỷ sản như dự án đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản khu vực giữa sông Tiền sông Hậu, dự án chuyển đổi cơ cấu lúa tôm ở huyện Thoại Sơn, nâng cấp trung tâm giống thuỷ sản cấp I Bình Thạnh, dự án bảo tồn đa dạng sinh học thuỷ sản rừng tràm trà sư và Búng Bình Thiên. Đặc biệt là Ngành đã chủ động triển khai chương trình SQF 1000 CM quản lý chất lượng nuôi trồng thuỷ sản phát huy hiệu qủa, giảm chi phí hạ giá thành, nâng cao năng suất đáp ứng với yêu cầu hội nhập.

Nhiều ngư dân nuôi trồng thuỷ sản đạt hiệu qủa kinh tế cao chẳng hạn như ông Lý Văn Kỷ, ngư dân nuôi cá phường Vĩnh Mỹ thị xã Châu Đốc. Năm qua, ông ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi như thực hiện qui trình nuôi cá sạch nên cá ít bệnh và đạt chất lượng cao. Trong năm ông nuôi được 2 vụ cá thu hoạch được trên 500 tấn cá thịt, sau khi bán trừ chi phí ông còn lời gần 1,5 tỷ đồng đã tạo điều kiện để ông tiếp tục đầu tư mở rộng qui mô sản xuất của mình lên 2 ha nuôi trong năm nay.

Nuôi trồng thuỷ sản đạt kết qủa cao, nhưng vấn đề đang đặt ra là chất lượng thuỷ sản hiện nay ở An Giang đạt đến mức nào? Nhất là từ khi các doanh nghiệp Nhật Bản thông báo một số lô sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam có dư lượng thuốc kháng sinh không được phép sử dụng. Bộ Thuỷ sản có công văn chỉ đạo các tỉnh về việc đẩy mạnh kiểm soát kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản. Theo một số ngư dân nuôi cá ở tỉnh ta cho biết môi trường nước xấu sẽ làm cho cá bệnh nhiều ngư dân phải dùng thuốc để điều trị. Anh Phạm Thành Phương, ngư dân ương cá giống xã Phú An huyện Phú Tân cho biết, vài năm trước đây anh ương cá giống đạt tỷ lệ từ 45 đến 50% cá tra giống đạt cỡ 1,2 phân, bán đạt lợi nhuận khá cao. Gần đây ương giống đạt tỷ lệ thấp chỉ từ 15 đến 20%, anh Phương đã áp dụng nhiều biện pháp như vệ sinh ao ương, xử lý thức ăn thậm chí sử dụng thuốc kháng sinh nhưng tỷ lệ cá đạt vẫn không cao.

Ngoài những hộ nuôi cá đạt chất lượng cao, vẫn còn khá nhiều ngư dân nuôi trồng thuỷ sản chưa đạt. Ngành thuỷ sản tỉnh đã tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản về chương trình nuôi cá sạch cụ thể là đã cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn SQF 1000 CM cho Cty Agifish và 19 hộ nuôi thuỷ sản cung cấp nguyên liệu, đang hoàn tất thủ tục chứng nhận SQF cho Cty trách nhiệm hữu hạn Việt An và 9 hộ nuôi trồng thuỷ sản, các Cty Nam Việt, Afaco, Afiex, cũng đang tiến hành đăng ký nuôi các sạch theo tiêu chuẩn SQF 1000 CM và SQF 2000 CM. Tăng cường huấn luyện vệ sinh an toàn thực phẩm thuỷ sản được 30 lớp, trong đó có 20 lớp về tăng cường kiểm soát kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản và chuyển giao kỹ thuật về nuôi cá theo tiêu chuẩn SQF 1.000 CM cho ngư dân theo tinh thần công văn 3822 ngày 29/11/ 2.006 của UBND tỉnh. Để nuôi trồng Thuỷ sản đạt theo tiêu chuẩn SQF 1000 CM, bà con ngư dân cần phải quản lý tốt dịch bệnh nhất là đối với nghề ương cá giống, không sử dụng kháng sinh cấm sử dụng, quản lý môi trường nước sử dụng nguồn thức ăn hợp lý để cá khoẻ mạnh từ đó sẽ hạn chế sử dụng thuốc trong nuôi trồng thuỷ sản.

Anh Đỗ Văn Tấn, ngư dân nuôi cá xã Phú An huyện Phú Tân cho biết, anh có 5 hầm nuôi cá thu nhập từ nghề nuôi cá đạt khá cao. Tuy nhiên khi tham gia lớp tập huấn về nuôi trồng thuỷ sản an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn SQF 1000 CM giúp anh hiểu biết thêm về phương pháp nuôi cá sạch không sử dụng kháng sinh bừa bãi như trước đây. Những tiến bộ kỹ thuật học được sẽ là cẩm nang cho anh mạnh dạn đầu tư vào 2 hầm cá ở vụ nuôi sắp tới đạt kết qủa hơn.

Anh Nguyễn Văn Thạnh, Giám đốc Sở Thuỷ sản tỉnh cho biết, tuy phát triển thuỷ sản chiếm tỷ trọng khá cao, nhưng việc triển khai qui hoạch các huyện còn chậm, mối liên kết giữa doanh nghiệp và ngư dân chưa chặt chẻ, chưa thực hiện tốt mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất. Một bộ phận nông dân còn mang tập quán sản xuất nhỏ, tự phát, chưa tuân thủ qui trình nuôi cá theo an toàn vệ sinh thực phẩm tiêu chuẩn SQF 1000 CM, nhất là đối với những hộ ương cá giống, đã tác động không nhỏ đến tình hình phát triển thuỷ sản chung của tỉnh. Năm nay, Ngành thuỷ sản tỉnh dự kiến nâng sản lượng cá nuôi lên 220.000 tấn, đồng thời triển khai các chương trình như tổ chức lại sản xuất, mở rộng qui mô phát triển giống thủy sản, chương trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn SQF 1.000 CM nhằm hướng người nông dân sản xuất để phục vụ xuất khẩu. Giờ đây, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO, hy vọng vấn đề chất lượng sản phẩm thuỷ sản phải thực hiện một cách nghiêm ngặt mới đạt yêu cầu xuất khẩu.

Trung Liêm


An Giang: Sẽ tổ chức lại sản xuất chặt chẽ để thích nghi với thị trường trong tình hình mới

Nguồn tin: AG, 24/1/2007
Ngày cập nhật: 25/1/2007

Kỳ họp đầu tiên sau Đại hội Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản An Giang (AFA): Sẽ tổ chức lại sản xuất chặt chẽ để thích nghi với thị trường trong tình hình mới

Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản An Giang (AFA) vừa họp mặt với các Chi hội nghề cá thuộc Hiệp hội và Sở Thủy sản cùng một số doanh nghiệp chế biến cá tra, basa xuất khẩu nhằm rà soát lại sản lượng, nhu cầu sản xuất và cung ứng con giống, cá thương phẩm, đồng thời lấy ý kiến đóng góp để xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể trong thời gian tới để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường và giải quyết tốt vấn đề cung-cầu.

Tại buổi họp, ông Nguyễn Hữu Khánh, Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam - nguyên Chủ tịch AFA đã nhấn mạnh vai trò, vị thế của nghề nuôi cá nước ngọt An Giang và ĐBSCL. Về sản lượng, năm qua toàn vùng đã sản xuất trên 800 ngàn tấn cá nguyên liệu cung ứng cho nhu cầu xuất khẩu. Trong đó, An Giang sản xuất khoảng 150 ngàn tấn. Hiện nay, với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO, nghề nuôi các sẽ càng có thêm thuận lợi do thị trường được mở rộng. Về năng lực chế biến, nếu tính trên toàn vùng ĐBSCL và một số tỉnh thành lân cận, có khoảng 60 nhà máy chế biến đang hoạt động và gần đây đã ra đời thêm một số nhà máy mới, nâng công suất toàn vùng lên khoảng 1 triệu tấn/năm.

Trên cơ sở đó, ông Phan Văn Danh, Chủ tịch Hiệp hội AFA đã kêu gọi các chi hội thành viên cần liên kết hoạt động trong sản xuất và gắn với các nhà máy chế biến để đảm bảo nguồn tiêu thụ. Trong đó, vấn đề quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng chứ không đơn thuần chạy theo số lượng để đảm bảo sản phẩm làm ra bán được giá và không bị ứ đọng gây thiệt hại cho người nuôi. Sở Thủy sản An Giang cho biết, thông qua hiệp hội, sẽ hỗ trợ ngư dân trên nhiều lĩnh vực như tập huấn về nuôi cá sạch theo tiêu chuẩn SQF, hỗ trợ chuyển giao công nghệ sản xuất cá giống cho nông-ngư dân…

T.N

 


Tiền Giang phấn đấu đạt mục tiêu 120 triệu USD xuất khẩu thủy sản

Nguồn tin: Tiền Giang, 24/1/2007
Ngày cập nhật: 25/1/2007

 


Nuôi tôm hùm cần có giải pháp bền vững

Nguồn tin: Phú Yên, 23/1/2007
Ngày cập nhật: 25/1/2007

Vụ sản xuất tôm hùm năm 2007, ngành thuỷ sản Phú Yên có kế hoạch ổn định lồng nuôi ở mức trên dưới 20 ngàn lồng, trong đó, có hơn 4000 lồng tôm giống. Tuy nhiên do nguồn lợi từ nghề nuôi tôm hùm trong vài năm nay rất cao đã khiến người dân đầu tư lớn để thả tôm vụ mới 2007.

Tình trạng phát triển quá nhanh số lồng nuôi tôm hùm tại các vùng biển kín gió đã làm cho môi trường vùng nuôi đang có dấu hiệu suy giảm. Nhiều nơi ở đầm Cù Mông, chất thải vùng đáy đã lên đến 4-5 tấc. Rải rác một số nơi đã có hiện tượng tôm hùm bị bệnh đen mang và cụt râu..Hiện nay huyện nuôi tôm hùm trọng điểm Sông Cầu đang triển khai thực hiện các biện pháp quản lý môi trường nuôi tôm hùm như nuôi xen canh rong sụn và vẹm xanh tại các vùng nuôi tôm hùm, thí điểm giao 150 ha diện tích mặt nước tại Xuân Thịnh cho người dân quản lý và phân ngư trường khai thác tôm hùm giống tại Từ Nham…

Trong chuyến công tác vừa qua tại Phú Yên, Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản Tạ Quang Ngọc đã khuyến cáo ngành thuỷ sản và các địa phương trọng điểm nuôi tôm hùm Phú Yên cần có giải pháp bền vững cho nghề nuôi tôm hùm nói riêng, nghề nuôi biển nói chung, tránh những hậu quả về sau do tình trạng ô nhiễm môi trường và biến động giá tôm hùm thương phẩm trong những năm đến.

 


Thủy sản Sóc Trăng tiềm năng và triển vọng

Nguồn tin: Sóc Trăng, 23/01/2007
Ngày cập nhật: 25/1/2007

Sóc Trăng có 72 km bờ biển và hệ thống sông rạch chằng chịt, hệ sinh thái rất thích hợp để phát triển ngành thủy sản.. Mặt khác, tỉnh còn có một đội ngũ đông đảo lao động nghề thủy sản cần cù, chịu khó học hỏi, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật trong hoạt động ngư nghiệp, nhậy bén trong tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Xuất phát từ những thuận lợi cơ bản trên, nghề nuôi trồng và khai thác thủy hải sản có bước chuyển biến đi lên rõ rệt.

Năm 2005 toàn tỉnh có 4.774 phương tiện đánh bắt hải sản; trong đó, có 959 thuyền cơ giới với công suất 54.317 CV, có 15 loại nghề khai thuỷ thảy sản khác nhau đang được ngư dân Sóc Trăng sử dụng, số thuyền có khả năng hoạt động xa bờ chiếm trên 70%, tổng sản lượng hải sản khai thác biển hàng năm đạt 24.435 tấn; trong đó, tôm 2.132 tấn, hải sản khác 22.303 tấn. Ngư trường hoạt động của các tàu thuyền trong tỉnh là vùng biển tỉnh nhà và các tỉnh bạn như Bà Rịa Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang. Một số loại nghề khai thác xa bờ có năng suất cao hơn như lưới vây kết hợp, .... Đang được đầu tư phát triển.

Về nuôi thủy sản, xác định là mũi nhọn chiến lược trong sản xuất nguyên liệu, diện tích nuôi thủy sản năm 2006 là 66.348 ha; trong đó nuôi tôm là 51.727 ha và thủy sản khác 14.621 ha. Tổng sản lượng thủy sản khai thác và nuôi trồng nội địa là 113.950 tấn, chế biến được 34.270 tấn tôm đông. Đối tượng nuôi là các loài tôm sú, tôm càng xanh, cá nước ngọt, nhiễm thể (nghêu, cua, sò huyết,…) là những mặt hàng rất hấp dẫn người tiêu dùng. Gần đây nghề nuôi trồng thủy hải sản thật sự là một nghề hấp dẫn người nông dân vì đem lại lợi nhuận rất cao. Đặc biệt là con tôm sú và tôm càng xanh có giá trị kinh tế cao đang được khuyến khích đầu tư phát triển toàn diện cả về hệ thống sản xuất giống, diện tích và kỹ thuật nuôi, nhằm nâng cao năng suất nuôi và hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi.

Về chế biến thuỷ sản: Sóc Trăng hiện có 07 nhà máy chế biến thủy sản, tổng công suất 100.000 tấn/năm. Chuyên chế biến sản phẩm thủy sản đông lạnh xuất khẩu, hiện nay các công ty tập trung xây dựng nhà xưởng và đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thị trường ngày càng cao và trong 07 công ty chế biến thủy sản của tỉnh đều có đủ tiêu chuẩn để xuất hàng hoá thuỷ sản sang thị trường các nước Nhật, EU, Mỹ,…Tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2006 đạt 327,39 triệu USD.

Trên cơ sở hiện trạng và tiềm năng hiện có, Sóc Trăng định hướng phát triển kinh tế ngành ngư nghiệp của tỉnh từ nay đến năm 2010 là: ổn định diện tích nuôi thủy sản ở mức 80.000 ha; trong đó, diện tích nuôi tôm 50.000 ha, quan tâm phát triển nuôi thủy sản vùng ngọt, gắn chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, xây dựng vùng nuôi trồng thủy sản “sạch”, trồng rừng, thủy lợi và bảo vệ môi trường. Đảm bảo sản lượng nuôi và khai thác thủy hải sản đến năm 2010 đạt 275.000 tấn, chế biến thủy sản đạt 95.000 tấn, trong đó tôm đông 80.000 tấn; kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 680 triệu USD.

Có thể nói thiên nhiên đã ưu ái dành riêng cho Sóc Trăng một vùng đất có vị trí thuận lợi để phát triển ngành ngư nghiệp. Nó vừa là tiền đề và là nguồn lực kinh tế để góp phần đưa Sóc Trăng tiến nhanh lên công nghiệp hóa – hiện đại hóa sánh cùng với các tỉnh bạn và quốc tế.

Trang Hoàng Thọ

 


Hải Phòng: Đẩy mạnh công tác tổ chức lại sản xuất thuỷ sản

Nguồn tin: HP, 24/1/2007
Ngày cập nhật: 25/1/2007


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang