Sóc Trăng vụ nuôi tôm sú chính vụ đạt 30.307 ha
Nguồn tin: ST, 16/05/2007
Ngày cập nhật: 17/5/2007
Theo kế hoạch năm 2007, Sóc Trăng có diện tích nuôi trồng thủy sản là 60.000 ha; trong đó diện tích nuôi tôm sú là 46.000 ha và diện tích nuôi cá là 12.840 ha (cá da trơn 100 ha). Mặc dù bị ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết diễn biến phức tạp; bên cạnh đó, còn dịch bệnh như vi rút gây bệnh đốm trắng và bệnh còi ở tôm. Tuy nhiên, tình hình thả nuôi tôm hiện nay đang có dấu hiệu lạc quan. Theo tin từ Trung tâm khuyến ngư tỉnh thì độ mặn nước trên các tuyến sông thuộc các huyện Mỹ Xuyên (độ mặn 10 - 14%0), huyện Vĩnh Châu (độ mặn 16 - 18%0) và các yếu tố pH, độ kiềm ổn định rất thích hợp cho quá trình phát triển của con tôm và giá tôm giống có chất lượng tốt nhập tỉnh hiện nay bình quân 40 - 45 đồng/con.^
Diện tích thả nuôi vụ tôm sú chính vụ của tỉnh tính đến nay là 30.307 ha, với số lượng thả nuôi hơn 3.621 triệu con giống của 25.302 hộ dân. Với tình hình này, dự báo trong những ngày tới, diện tích thả nuôi tôm sú của tỉnh tiếp tục phát triển có khả năng đạt và vượt so với kế hoạch đề ra./.
Trang Hoàng Thọ
Sóc trăng: huyện Kế Sách có nhiều doanh nghiệp và nông dân đầu tư nuôi trồng thủy sản
Nguồn tin: ST, 16/05/2007
Ngày cập nhật: 17/5/2007
Với vị trí và điều kiện thuận lợi tiếp giáp Sông Hậu - Kế Sách có nhiều điều kiện để phát triển vườn cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Năm 2006 diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện đạt 2.950 ha, trong đó diện tích nuôi cá tra hầm là 50 ha. Kế hoạch năm 2007, Kế Sách tiếp tục nâng diện tích nuôi trồng thủy sản lên 3.420 ha, trong đó có 200 ha diện tích nuôi cá tra hầm.
Ngày 05 tháng 04 năm 2007 UBND tỉnh Sóc Trăng ban hành văn bản số 488/CTUBND-HC về vịêc triển khai Dự án Cụm công nghiệp Cái côn, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Cụm công nghịêp Cái Côn được quy hoạch và đầu tư nhiều nhà máy chế biến thủy sản nước ngọt; trong đó có Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta và Công ty Cổ phần Thủy sản Sóc Trăng đầu dư xây dựng nhà máy chế biến ca da trơn xuất khẩu. Đây là thông tin được nông dân và các doanh nghiệp quan tâm, tiến hành đầu tư nguyên liệu cá da trơn để phục vụ cho nhà máy và nhà máy ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm của doanh nghiệp, nông dân./.
Phát triển bền vững nghề nuôi cá tra ở Nam Bộ
Nguồn tin: ND, 16/5/2007
Ngày cập nhật: 17/5/2007
Tính đến hết năm 2006, diện tích chuyển đổi đạt gần 326 nghìn ha, nâng diện tích nuôi thủy sản của toàn vùng lên hơn 747,3 nghìn ha, trong đó có hơn 152,5 nghìn ha nuôi các loài thủy sản nước ngọt. Hầu hết diện tích chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản là đất trồng lúa kém hiệu quả và đất hoang hóa. Ở các vùng chuyển đổi, nghề nuôi phát triển mạnh ở cả ba loại hình nuôi nước mặn, nước lợ và nước ngọt với các loài: tôm sú được nuôi ở ven biển, cá tra ở nội đồng.
Việc chuyển đổi đã mang lại hiệu quả rõ ràng, giá trị thu nhập tăng từ 4 đến 10 lần trồng lúa. Năm 2006, toàn vùng đạt tổng sản lượng thủy sản gần 1,3 triệu tấn. Mặc dù tôm sú có diện tích nuôi lớn, chiếm đến 70%, nhưng sản lượng chỉ đạt hơn 291 nghìn tấn, đứng thứ hai sau cá tra. Dễ nuôi, sinh trưởng nhanh, thời gian nuôi ngắn, cho năng suất cao, lại có thị trường xuất khẩu, cho nên gần đây cá tra, cá ba sa được nông dân mở rộng diện tích nuôi. Năm 2005, sản lượng cá tra sau thu hoạch ở khu vực này chỉ đạt khoảng 373 nghìn tấn, đến năm 2006 tăng đột biến, đạt sản lượng 800 nghìn tấn; trong đó An Giang và Ðồng Tháp là hai tỉnh dẫn đầu về sản lượng cá tra nuôi, đạt gần 400 nghìn tấn.
Từ cuối năm 2006 đến nay, khi giá cá tra tăng và duy trì ở mức cao 16-17 nghìn đồng/kg, phong trào đào ao nuôi cá càng diễn ra rầm rộ. Không chỉ ở vùng chạy dọc dài theo sông Hậu giá đất tăng cao, đến cả các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng tuy mới vào nghề nuôi cá nhưng người ta đã săn lùng mua, thuê đất đào ao nuôi cá ồ ạt.
Tại xã cù lao Tân Lộc, huyện Thốt Nốt, TP Cần Thơ, đất nằm ở vị trí "đẹp" thuận nuôi cá, giá lên đến 130-150 triệu đồng/công. Trong khi đó, từ đầu năm 2007 đến nay, tại các huyện Kế Sách, Cù Lao Dung, Long Phú (Sóc Trăng) đã có gần 100 ha ao cá đào mới. Nông dân ở đây đã đăng ký với chính quyền địa phương mở rộng diện tích đào ao nuôi cá tra lên đến 3.500 ha, trong khi quy hoạch của tỉnh đến năm 2010 diện tích nuôi cá tra không vượt quá 2.000 ha. Hiện Sóc Trăng có một nhà máy chế biến cá tra công suất 20 nghìn tấn/năm và với công suất này chỉ cần 200 ha ao nuôi là đủ. Do nhiều người đổ xô đào ao nuôi cá, cho nên giá đất ở đây đã tăng vọt, lên đến 350-400 triệu đồng/ha. Từ đầu năm 2007 đến nay, diện tích ao cá đào mới tại các tỉnh trong vùng tăng lên đến gần 2.000 ha, trong đó nhiều nhất là An Giang, Ðồng Tháp.
Việc chuyển đổi đào ao nuôi cá tra, tự phát khá nhanh, trong khi cơ sở hạ tầng về kỹ thuật không theo kịp, đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập. Ðó là việc quy hoạch vùng nuôi, nhất là quy hoạch thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; chất lượng con giống chưa được kiểm soát; lạm dụng sử dụng hóa chất, thuốc chữa bệnh trong nuôi thâm canh, thức ăn chất lượng kém giá cao, thức ăn tự chế biến quá nhiều; năng lực quản lý môi trường và dịch bệnh còn yếu, chất lượng sản phẩm không ổn định, gây khó khăn trong khâu tiêu thụ... Ðây là những vấn đề đang gây bất ổn cho nghề nuôi cá tra hiện nay.
Khắc phục thực trạng này, nhiều địa phương đã đề ra các biện pháp tình thế nhằm hạn chế việc mở rộng chuyển đổi diện tích. Sở Thủy sản các tỉnh An Giang, Ðồng Tháp có những quy định, hướng dẫn người nuôi cá các biện pháp kỹ thuật cụ thể, nhất là vấn đề xử lý nước thải, chất thải để bảo vệ môi trường nuôi; đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm những hộ nuôi nào không tuân thủ quy định chung. Hiện nay, hầu như tất cả người nuôi cá tra đều xả chất thải trực tiếp ra các dòng sông, kênh rạch, gây ô nhiễm môi trường ngày càng nặng. Theo tính toán, để có được 1 kg cá tra nguyên liệu, trong quá trình nuôi phải tiêu tốn 5 kg thức ăn các loại và thải ra 4 kg chất thải của cá...
Kỹ sư Nguyễn Văn Dần, Trưởng Liên trạm thủy sản huyện Thốt Nốt-Tân Thạnh (Cần Thơ) cho biết: Ngoài 600 ha diện tích ao nuôi cá tra hiện có, thời gian tới toàn huyện sẽ quy hoạch phát triển thêm 500 ha, chủ yếu theo tuyến ven sông Hậu, ven kênh rạch và không được đào ao lấn sâu quá 300 m trong đồng vì lo ngại ô nhiễm môi trường. Ðể bảo vệ môi trường nuôi thủy sản, cán bộ khuyến ngư của trạm đến từng địa bàn hướng dẫn người nuôi các biện pháp nuôi cá tra thâm canh giảm thiểu ô nhiễm môi trường thông qua việc xử lý ao nuôi đúng quy trình kỹ thuật, nhất là việc xây dựng, xử lý hệ thống nước thải, cam kết bảo vệ môi trường... Là địa bàn trọng điểm nuôi cá tra của Cần Thơ, huyện Thốt Nốt cũng đã triển khai, mở rộng trại sản xuất con giống trên diện tích 12 ha; bước đầu cung cấp khoảng 10% con giống cho người nuôi. Dự kiến, thời gian tới khi trại giống xây dựng hoàn thành, sẽ cung cấp khoảng 5-10 triệu con cá giống sạch, đáp ứng 30% nhu cầu người nuôi tại địa phương, góp phần khắc phục tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng con giống hiện nay. Phó Chủ nhiệm HTX nuôi trồng thủy sản Thốt Nốt Nguyễn Minh Tâm, ở xã cù lao Tân Lộc lo lắng: Ðiều khiến chúng tôi lo ngại nhất hiện nay là nhiều người cứ lao vào cuộc, trong khi chẳng hiểu biết gì về nghề nuôi cá, cho nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thành lập cách đây gần 10 năm, với 11 xã viên, HTX Thốt Nốt hiện có 15 ao nuôi với diện tích 25 ha đất thuê của Nhà nước nằm ở vị trí ven sông Hậu, thuộc đất bãi bồi rất thích hợp nuôi cá tra. Nhiều năm qua, HTX này luôn ăn nên làm ra, riêng mùa vụ năm 2006 đã thu hoạch đạt sản lượng gần 8.000 tấn cá tra. Tuy nhiên, cho đến gần cuối tháng 4 vừa qua, toàn bộ số ao cá của HTX để trống, không thả cá giống cho vụ nuôi mới. Lý giải về việc này, ông Tâm cho biết thêm: Tình hình nuôi cá đang bấp bênh, người nuôi vẫn còn đơn độc. Chi phí cho vụ nuôi rất cao về con giống, thức ăn, công chăm sóc... Trong khi các doanh nghiệp kinh doanh chế biến chưa liên kết với người sản xuất; lúc cá có giá thì doanh nghiệp thường xuyên lui tới, o bế người nuôi, lúc cá mất giá thì họ biệt tăm.
Không để tái diễn tình trạng nuôi tôm sú ào ạt làm phá vỡ cảnh quan, môi trường tại các tỉnh ven biển Cà Mau, Bạc Liêu... trước đây, các tỉnh trong vùng bây giờ rất thận trọng, có bước đi cụ thể, giới hạn diện tích, áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm phát triển ổn định, bền vững nghề nuôi cá tra. Vấn đề được các địa phương quan tâm là việc tăng sản lượng nuôi theo hướng tăng năng suất, hiệu quả kinh tế, tăng chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; phát triển các mô hình nuôi phù hợp các vùng sinh thái và điều kiện kinh tế-kỹ thuật, sản phẩm hàng hóa đủ lớn, đủ sức cạnh tranh. Theo đó, các giải pháp, kế hoạch về quy hoạch, bố trí vùng nuôi, đầu tư hệ thống thủy lợi, xử lý môi trường, trạm trại sản xuất con giống; hệ thống chế biến cũng được quan tâm và triển khai thực hiện. Tỉnh An Giang dự kiến từ nay đến năm 2010 sẽ đầu tư hơn 170 tỷ đồng cho hệ thống thủy lợi phục vụ nghề nuôi cá tra, nhưng trước mắt trong năm 2007 đầu tư khoảng 17 tỷ đồng làm mới và cải tạo nâng cấp một số công trình hiện có tại các vùng đang nuôi cá. Ngoài ra, với 15 cơ sở và hàng trăm hộ sản xuất, ươm cá tra giống hiện có, An Giang trở thành tỉnh cung cấp giống cá tra lớn nhất cho toàn vùng, với hơn 1,5 tỷ con.
Khắc phục tình trạng thả nổi chất lượng con giống, Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh thời gian qua đã triển khai, hướng dẫn áp dụng nhiều biện pháp về khoa học kỹ thuật cho các chủ trại kinh doanh sản xuất con giống và gắn với việc quản lý nhằm hướng tới sản xuất con giống sạch bệnh, an toàn, giảm thiệt hại rủi ro cho người nuôi. Với chi phí đầu tư thấp, việc đào ao nuôi cá tra thâm canh đã trở thành cách làm phổ biến trong toàn vùng; việc đóng mới lồng nuôi cá bè đã giảm rõ rệt. Theo thống kê của các tỉnh, năng suất bình quân nuôi ao hầm đạt 80-100 tấn/ha; nuôi ao bãi bồi đạt 150-200 tấn/ha. Cá biệt với những ao nuôi có độ sâu 3-5 m, thả cá giống lớn, mật độ dày, thay nước thường xuyên và có hệ thống quạt khí có thể đạt năng suất 300 tấn/ha và nếu rút ngắn thời gian nuôi 2 vụ/năm có thể đạt năng suất 600 tấn/năm. Trong khi nếu nuôi cá bè chỉ đạt 100-120 kg/m3 lồng, cho nên việc nuôi cá tra lồng bè không còn hấp dẫn người nuôi. Theo nhận định của Hiệp hội Thủy sản Việt Nam, với việc mở rộng diện tích tại các vùng nuôi, cũng như quy mô đầu tư nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp ngày càng nhiều như hiện nay, dự kiến năm 2007 sản lượng cá tra toàn vùng sau thu hoạch sẽ đạt không dưới một triệu tấn; tăng khoảng 200 nghìn tấn so với năm 2006.
Có thể nói, việc chuyển dịch đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản tại các tỉnh Nam Bộ trong thời gian qua đã mang lại hiệu quả thiết thực, giúp đông đảo nông dân khá lên; đồng thời khẳng định đây là hướng quan trọng thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và thực hiện CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn.
Ngọc Quân
Bình Định: Ngư dân lao đao vì cá ngừ đại dương rớt giá
Nguồn tin: LĐ, 17/05/2007
Ngày cập nhật: 17/5/2007
Giá cá ngừ đại dương tại Bình Định hiện chỉ còn dao động từ 58.000 - 60.000 đồng/kg, giảm khoảng 40.000 đồng/kg so với đầu vụ, khiến hàng trăm tàu khai thác cá ngừ đại dương lỗ nặng. Sở Thuỷ sản ngày 16.5 cho biết, hiện có 100/500 tàu khai thác cá ngừ đại dương của tỉnh phải chuyển sang câu mực.
Đ.T.K
ĐBSCL: mưa xuống, cá tra giống chết hàng loạt
Nguồn tin: TT, 17/05/2007
Ngày cập nhật: 17/5/2007
Cá tra giống của nhiều nông dân ở hạ lưu sông Hậu, sông Tiền đang bị chết với tỉ lệ 40-70%.
Theo những nông dân có kinh nghiệm, vào mùa mưa, nguồn nước ô nhiễm từ thượng nguồn đổ về cộng với thời tiết mưa nắng thất thường đã làm cá bị sốc, dễ bị dịch bệnh xuất huyết và mủ gan.
Tuy nhiên, tình trạng này chỉ xảy ra với những người nuôi chưa có nhiều kinh nghiệm. Hiện nay giá cá tra giống cũng đã giảm 30-50% so với trước, cá giống loại 1,2cm chỉ còn 300 đồng/con, loại 2cm còn 800-1.000 đồng/con.
TRẦN ĐỨC
ĐBSCL: giá tôm sú giảm mạnh
Nguồn tin: TT, 15/5/2007
Ngày cập nhật: 16/5/2007
Giá tôm sú trên thị trường đã giảm 10.000-15.000 đồng/kg so với mức giá vào đầu tháng, trong khi tôm nuôi chính vụ chỉ mới bắt đầu được thu hoạch. Giá tôm mua vào chỉ còn 115.000-120.000 đồng/kg loại 30 con/kg, giảm 15.000-20.000 đồng/kg so với mức giá cuối tháng trước; tương tự loại tôm cỡ 40 con/kg giảm xuống còn 90.000-100.000 đồng/kg, giảm 10.000-15.000 đồng/kg.
H.ĐĂNG
Nuôi cá tra công nghiệp: Không lo ngoại chỉ ngại nội
Nguồn tin: TG, 14/5/2007
Ngày cập nhật: 15/5/2007
Trên các phương tiện thông tin gần đây đưa tin giá cá tra nguyên liệu đang giảm sút và dự báo giá cá có thể ở mức rất thấp so với năm 2006. Thế nhưng, theo nhận định của các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, năm 2007 lại là năm thuận lợi nhất cho xuất khẩu; người nuôi chỉ nên lo về qui trình sản xuất.
Không lo đầu ra
Đến đầu tháng 5, kim ngạch xuất khẩu thủy sản toàn tỉnh đạt 32,7 triệu USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm 2006, tập trung chủ yếu ở cá tra xuất khẩu. Chính những thuận lợi này, hầu như các doanh nghiệp chế biến thủy sản trên địa bàn Tiền Giang đều có xu hướng chuyển sang sản xuất, chế biến xuất khẩu cá tra. Khi đặt vấn đề về thị trường tiêu thụ, hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng, hoạt động xuất khẩu vẫn diễn ra bình thường, chưa có bất kỳ dấu hiệu trở ngại lớn nào đối với hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp. Việc giá cá tra nguyên liệu giảm gần đây vẫn nằm trong biên độ giá bình thường, hiện dao động từ 14.500 - 15.000 đồng/kg. Với giá này người nuôi vẫn còn có lãi. Ông Nguyễn Văn Đạo, Giám đốc Công ty TNHH chế biến thủy sản Gò Đàng nhận định rằng: Giá cá tra nguyên liệu mà công ty thu mua ngày 12/5/2007 vẫn còn ở mức 15.000 đồng/kg. Giá cá giảm chút ít do đã vào mùa thu hoạch, sản lượng cá cả khu vực còn tương đối lớn. Vì vậy, khả năng thiếu hụt nguồn nguyên liệu là khó xảy ra. Hiện công ty đang đẩy nhanh công suất hoạt động, với khoảng 60 tấn nguyên liệu/ngày; kim ngạch xuất khẩu đến cuối tháng 4 là 10 triệu USD trên chỉ tiêu 30 triệu USD của cả năm 2007. Về mặt thị trường tiêu thụ, theo ông Đạo, là vẫn bình thường, chỉ có thị trường Nga có phần chựng lại do theo thông tin từ chính phủ Nga là tăng cường kiểm dịch hàng thủy sản nhập vào thị trường này.
Doanh nghiệp chế biến 100% cá tra xuất khẩu như Công ty Cổ phần Hùng Vương, với kim ngạch xuất khẩu đứng nhất tỉnh, việc thu hút nguồn nguyên liệu cũng ở mức rất cao và đây điều đáng để công ty lo ngại. Ông Dương Ngọc Minh, Giám đốc Công ty cho rằng hiện nay công ty đang chế biến hơn 350 tấn nguyên liệu cá tra/ngày. Như vậy, việc biến động giá nguyên liệu hay giá bán ở thị trường thế giới chút ít cũng buộc công ty phải tính toán rất kỹ. Ông Minh nói rằng, thị trường tiêu thụ cá tra đang phát triển mạnh, nhất là ở châu Âu, tăng 40% so với năm 2006. Năm nay được dự báo là thuận lợi nhất cho xuất khẩu thủy sản cá tra. Từ thực tế này, ông Minh nhận định, giá cá tra nguyên liệu từ đây đến cuối năm khó dưới mức 14.000 đồng/kg. Rõ ràng với giá này, người nuôi cá cũng khó mà lỗ được. Gần đây, giá có giảm chút ít, người nuôi bắt đầu lo. Người nuôi lo là phải, do có một thực tế là người nuôi đang phải chịu các chi phí của việc đội giá: Chi phí lãi vay ngân hàng, chi phí đội giá thức ăn, thuốc điều trị do phải mua qua trung gian hay mua trả chậm chứ tính đầy đủ các loại chi phí, loại bỏ bớt các khoản chi phí phát sinh, mỗi kg cá giá thành nuôi không quá 11.000 đồng/kg. Với giá cá dự báo của năm nay, người nuôi cầm chắc lãi 3.000 đồng/kg. Chúng tôi không lo đầu ra hay thiếu hụt nguồn nguyên liệu sản xuất mà chỉ lo tình trạng quá tải về môi trường nuôi....- ông Minh nhận định. Tính đến 10/5/2007, Công ty Cổ phần Hùng Vương đã xuất khẩu 25 triệu USD, khả năng đạt 90-100 triệu USD xuất khẩu cả năm 2007.
Thay đổi qui trình nuôi
Với những gì mà con cá tra mang lại từ cuối năm 2006 đến nay, mô hình nuôi cá tra công nghiệp đang được nhân rộng trong toàn khu vực ĐBSCL. Tiền Giang cũng không ngoại lệ. Theo thống kê của ngành thủy sản, đến đầu tháng 5/2007, toàn tỉnh có 67 ha nuôi cá tra công nghiệp, tăng gần gấp đôi so với cuối năm 2006, sản lượng thu hoạch khoảng 2.500 tấn cá. Thật ra, với sản lượng cá tra của Tiền Giang hiện nay, theo đánh giá của doanh nghiệp, là không đủ cho một doanh nghiệp sản xuất trong vòng 1 tuần. Tuy mô hình nuôi cá tra công nghiệp của tỉnh có tăng về diện tích nuôi và sản lượng, nhưng mức độ tăng trưởng vẫn còn thấp so với các tỉnh trong khu vực. Địa phương có mức tăng trưởng cao vẫn là Cái Bè, Cai Lậy, do có đủ điều kiện về môi trường nuôi và có truyền thống nuôi cá nước ngọt. Theo ông Lê Văn Tín, Phó Phòng Nông nghiệp huyện Cái Bè, toàn huyện Cái Bè hiện có 43 ha nuôi cá (mỗi ao từ 0,2- 1 ha), tập trung ở xã Hòa Hưng và khu vực gần thị trấn Cái Bè. Với giá cá khá cao thời gian vừa qua, nhiều hộ dân đã thắng lớn. Điển hình như ông Nguyễn Văn Tâm, vụ vừa rồi ông thả 380.000 con cá tra giống, sau 6 tháng thu hoạch được 350 tấn cá, sau khi trừ chi phí ông lãi trên 1,3 tỷ đồng. Vụ nuôi năm 2007, ông Tâm tiếp tục thả 450.000 con cá tra giống. Tuy nhiên, theo ông Tín, nếu rà soát lại tất cả các hộ nuôi, chỉ có khoảng 70% hộ nuôi là có lãi cao, cho dù giá cá cao ngất ngưỡng thời gian qua. Còn theo ông Trần Văn Mười, ấp Khu phố, xã Hòa Hưng, người nhiều năm nuôi cá tra, cho rằng nhà nước nên hỗ trợ để nuôi cá mang tính bền vững hơn; các hộ nuôi nên liên kết thành chi hội để tạo được tính cộng đồng mang lại hiệu quả cao hơn.
Câu hỏi đang được đặt ra là vì sao khi giá cá sụt giảm chút ít, người nuôi lại lo ngại. Theo một số hộ nuôi cho rằng, các loại chi phí nuôi: Thức ăn, con giống, thuốc điều trị hiện nay đang tăng cao đẩy giá thành nuôi tăng theo. Vì vậy, giá cá ở mức 14.000 đồng/kg là người mới đảm bảo hòa vốn. Tuy nhiên, theo phân tích của một doanh nghiệp gần đây, sở dĩ người nuôi với giá thành quá cao tập trung vào hai nguyên nhân: Những hộ nuôi nhỏ lẻ chưa có kinh nghiệm nuôi và do người nuôi thiếu vốn phải chấp nhận các khoản chi phí như đã nói trên. Khác với hầu hết các mô hình nuôi, mới đây mô hình nuôi của ông Trần Quốc Hào, xã Hòa Hưng cho thấy, với mức giá 14.000 đồng/kg, người nuôi hoàn toàn có lãi cao. Ông Hào thực hiện mô hình nuôi liên kết với một công ty chế biến xuất khẩu. Ông chỉ có ao và nhân công còn tất cả các khoản khác: Con giống, thuốc, thức ăn đều do công ty cung ứng kể cả hướng dẫn qui trình nuôi. Hết vụ, công ty thu mua nguyên liệu lại, đảm bảo người nuôi lãi không dưới 1.000 đồng/kg. Vụ hợp tác đầu tiên, ông Hào thu hoạch 245,506 tấn cá tra, với giá thành mà ông tính toán chính xác chỉ 10.615 đồng/kg; công ty thu mua lại 12.500 đồng/kg. Sau 6 tháng nuôi, không phải bỏ vốn ra, ông Hào thu lãi gần 300 triệu đồng. Đây là mô hình mà một số công ty đang áp dụng để nhân rộng thay vì các hợp đồng bao tiêu sản phẩm như trước đây. Điều này cho thấy, khi người nuôi kiểm soát được qui trình nuôi, tiết giảm được giá thành thì giảm bớt áp lực do giá cá nguyên liệu giảm.
THÁI THIỆN
Cua, ếch được giá
Nguồn tin: TG, 14/5/2007
Ngày cập nhật: 15/5/2007
Các cơn mưa lớn đầu mùa đã giúp cho nhiều người dân ở huyện Chợ Gạo, Gò Công Tây, Gò Công Đông… đi soi được nhiều cua đồng, ếch đồng và bán được giá. Trung bình một người đi soi mỗi đêm được từ 2-5 kg ếch, có người soi bắt được 7-8 kg ếch. Tại chợ Thạnh Nhựt (Gò Công Tây), Bình Phục Nhứt (Chợ Gạo) vào sáng ngày 13-05, ếch loại I (5-7 con/kg) được bán với giá 25.000 đồng/kg, loại II (8-12 con/kg) từ 20-22.000 đồng/kg, cua đồng từ 7.000-10.000 đồng/kg. Mùa soi ếch, cua đồng được bắt đầu vào mùa mưa và kéo dài khoảng vài chục ngày đến khi mưa rộ thì hết.
P.L (Nguồn: Báo Ấp Bắc)
Bước đầu xác định được nguyên nhân gây ra bệnh trên con ốc gão Phú Đa
Nguồn tin: BTreTV, 15/5/2007
Ngày cập nhật: 15/5/2007
Ốc gạo Phú Đa là niềm tự hào của người dân Chợ Lách nói riêng và Bến Tre nói chung bởi hiếm có nơi nào ở Việt Nam thiên nhiên hiền hòa, môi trường trong lành đã sản sinh ra con ốc gạo – thủy đặc sản độc nhất vô nhị ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, như chúng tôi đã thông tin trong các chương trình thời sự trước đây, con ốc gạo Phú Đa đang đứng truớc nguy cơ mai một do bị một nhuyễn thể hai mảnh vỏ lạ tấn công, gây hại.
Nhuyễn thể hai mảnh vỏ tấn công, gây hại trên con ốc gạo Phú Đa do HTX Thủy sản Vĩnh Tiến, xã Vĩnh Bình, huyện Chợ Lách đang quản lý và khai thác – kết quả xét nghiệm bước đầu của các cơ quan chuyên môn cho biết - đó chính là con hàu sông, vốn sinh sống phổ biến ở các vùng nước lợ, khu vực gần các cửa sông lớn, những nơi có độ mặn trung bình. Vật thể đeo bám của con hàu sông thường là các cây gỗ mục và các loài thực vật thủy sinh ở các huyện vùng biển và một phần các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm – nơi tiếp giáp giữa vùng nước ngọt và lợ. Năm nay, sở dĩ con hàu sông phát triển mạnh ở khu bảo tồn ốc gạo Phú Đa được nhận định có thể là do ranh mặn lấn sâu vào nội đồng. Con hàu sông trong quá trình di chuyển tìm nơi ở mới đã gặp ốc gạo và đeo bám. Nhiều nông dân cao niên ở đây còn cho biết thêm, nơi nào có nhiều con hàu sông sinh sống, chứng tỏ môi trường sống ở đó trong lành, có nhiều sinh vật phù du làm nguồn thức ăn. Qua khảo sát của HTX Thủy sản Vĩnh Tiến mới đây cho thấy, so với cách nay một tháng, tỷ lệ ốc gạo bị con hàu sông đeo bám hiện chỉ còn khoảng 70% trên tổng số mẫu khai thác. Nghĩa là, số lượng nhuyễn thể gây hại trên con ốc gạo đã giảm so với trước. Nguyên nhân có thể là do thời tiết đã có mưa, ranh mặn đang lùi dần về phía các cửa sông chính. Hợp tác xã Thủy sản Vĩnh Tiến đang quản lý 150 ha mặt nước sông Cổ Chiên. Đây là khu vực bảo tồn nguồn lợi con ốc gạo – thủy đặc sản độc nhất vô nhị ở Đồng bằng sông Cửu Long. Con ốc gạo Phú Đa đã có thương hiệu vang xa do chất lượng cao và hương vị đặc trưng mà chưa có nơi nào sánh được. Vào dịp lễ hội trái cây truyền thống hàng năm của tỉnh được tổ chức tại huyện Chợ Lách, sự góp mặt của con ốc gạo Phú Đa đã góp phần làm đa dạng thêm sản vật địa phương, thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quam, mua sắm. Với những thông tin mới từ Ban chủ nhiệm HTX Thủy sản Vĩnh Tiến, hy vọng con ốc gạo Phú Đa sẽ có mặt trong Ngày hội trái cây truyền thống năm nay của tỉnh Bến Tre, góp phần giới thiệu với du khách sản vật có một không hai ở Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước nói chung của xứ dừa Bến Tre.
Tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long chết hàng loạt
Nguồn tin: ND, 13/5/2007
Ngày cập nhật: 14/5/2007
Hiện nay, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long xảy ra hiện tượng tôm bị chết do dịch bệnh.
Tại tỉnh Bến Tre, qua kiểm tra một số vùng nuôi tập trung ở huyện Bình Ðại đã xuất hiện bệnh đốm trắng, với diện tích khoảng 16 ha. Tại tỉnh Long An, có gần 2.000 ha tôm sú bị thiệt hại vì bị bệnh thân đỏ và đốm trắng.
Tại Tiền Giang, hơn 76 ha tôm nuôi bị thiệt hại, với tổng lượng tôm giống là 13,3 triệu con, chủ yếu bệnh đốm trắng trên tôm nuôi 30-60 ngày tuổi.
Còn tại các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau... tình trạng tôm chết rất đáng lo ngại. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tôm nuôi chết nhiều là do con giống kém chất lượng, thời tiết diễn biến bất lợi cho sản xuất.
PV
Quảng Nam: Tôm nuôi chết hàng loạt; TT-Huế: 450ha diện tích nuôi tôm sú bị nhiễm bệnh do virus đốm trắng
Nguồn tin: LĐ, 14/05/2007
Ngày cập nhật: 14/5/2007
Quảng Nam: Tôm nuôi chết hàng loạt
Tính đến ngày 13.5, đã có hơn 150ha tôm nuôi bị chết hàng loạt, tập trung tại 2 vùng trọng điểm nuôi tôm của tỉnh là Núi Thành (hơn 100ha) và Hội An (gần 50ha).
Nguyên nhân, do tôm bị nhiễm virus đốm trắng, nấm độc Fusarium, vi khuẩn Vibrio, MBV với cường độ cảm nhiễm rất cao.
T.T.Thư
TT-Huế: 450ha diện tích nuôi tôm sú bị nhiễm bệnh do virus đốm trắng
Tin từ Sở Thuỷ sản Thừa Thiên - Huế cho biết, từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh có gần 450ha diện tích nuôi tôm sú bị nhiễm bệnh do virus đốm trắng, chiếm khoảng 15% tổng diện tích nuôi. Đặc biệt, từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5, dịch bùng phát nhanh trên diện rộng với 315ha tôm trên toàn tỉnh bị nhiễm bệnh. Cho đến nay, virus đốm trắng gây bệnh trên tôm sú chưa có thuốc đặc trị.
H.V.M - Ngọc Đình
Giá tôm sú nguyên liệu sẽ còn giảm?
Nguồn tin: CT, 14/5/2007
Ngày cập nhật: 14/5/2007
An Giang: 15 tháng tù giam cho kẻ khủng bố nông dân nuôi cá tra
Nguồn tin: CT, 14/5/2007
Ngày cập nhật: 14/5/2007
Hôm qua (13-5), Tòa án nhân dân huyện Châu Phú đưa ra xét xử lưu động vụ án khủng bố, tống tiền người nuôi cá tra. Bị cáo Lê Minh Chánh (SN 1986, ngụ ấp Vĩnh An, xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú) bị phạt 15 tháng tù giam về tội cưỡng đoạt tài sản công dân.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú, ngày 12-2-2007, Chánh viết thư tay đem đến để tại lò nấu thức ăn gần ao nuôi cá tra của ông Trần Phước Minh (ấp Mỹ An, xã Mỹ Phú, huyện Châu Phú), đe dọa ông Minh phải đưa cho Chánh 5 triệu đồng, mang đến điểm hẹn trước cổng Trường THCS Vĩnh Thạnh Trung 2 lúc 22 giờ cùng ngày, nếu ông Minh không làm theo yêu cầu thì Chánh sẽ quăng thuốc trừ sâu xuống ao nuôi cá tra. Ông Minh bàng hoàng chưa biết tính cách nào thì ngày 14-2-2007, Chánh viết tiếp lá thư thứ hai, bảo gia đình ông Minh chuẩn bị lưới kéo cá chết lên ăn tết, nếu như không đáp ứng theo yêu cầu của Chánh. Vì sợ ao cá bị đánh thuốc trừ sâu, 22 giờ đêm 16-2-2007, ông Minh đem 5 triệu đồng treo trước cổng trường, đến 23 giờ 45 phút, Chánh đi tới lấy tiền bỏ vào túi áo khoác thì bị người nhà ông Minh bắt giữ giao cho Công an xã Vĩnh Thạnh Trung.
Trong thời gian qua, tại huyện Châu Phú đã xảy ra nhiều vụ kẻ xấu viết thư, gọi điện đòi khủng bố để tống tiền người nuôi cá tra. Và nhiều nông dân đã bị kẻ khủng bố quăng thuốc trừ sâu làm chết nhiều ao cá, thiệt hại mỗi ao cá từ vài trăm triệu đồng đến cả tỉ đồng.
VŨ HÀ
Đảo Phú Quý (Bình Thuận): Cá nuôi trong lồng bè trên biển chết hàng loạt
Nguồn tin: Nhân dân, 11/5/2007
Ngày cập nhật: 13/5/2007
Ngày 8/5, cá nuôi trong các lồng bè ở khu vực Lạch Dù, thuộc xã Tam Thanh (Phú Quý) bị chết hàng loạt. Do mưa kéo dài, biển lặng, khu vực nuôi cá xuất hiện rong biển dày đặc, nhiều khả năng cá chết là do thiếu dưỡng khí.
Trạm Khuyến ngư Phú Quý khuyến cáo các hộ nuôi cá dùng máy bơm sục khí, tăng thêm dưỡng khí cho cá và tạm thời di chuyển lồng bè đi nơi khác. Chiều 10/5, trạm cũng đã lấy mẫu nước gửi vào đất liền xét nghiệm để xác định rõ nguyên nhân gây chết cá.
Hội An - Quảng Nam: Trên 43 ha tôm nuôi bị chết
Nguồn tin: NLĐ, 11/5/2007
Ngày cập nhật: 13/5/2007
Ngày 10-5, Phòng Kinh tế thị xã Hội An cho biết: Từ giữa tháng 4 đến nay đã có trên 43 ha tôm nuôi vụ 1 bị chết.
Tập trung nhiều nhất ở xã Cẩm Thanh với trên 22 ha, phường Cẩm Châu: 16 ha, Cửa Đại: 5 ha. Kết quả xét nghiệm của Trung tâm Khuyến ngư Quảng Nam cho thấy tôm nuôi ở phường Cửa Đại bị nhiễm virus đốm trắng, các mẫu tôm chết còn lại ở Cẩm Châu, Cẩm Thanh chủ yếu do nhiễm bệnh nấm độc Fusarium, vi khuẩn Vibrio và MBV với cường độ cảm nhiễm khá cao. Tuy nhiên, hiện nay thời tiết diễn biến phức tạp, nước sông bị nhiễm khuẩn nên dịch bệnh trên tôm có khả năng lây lan sang các hồ nuôi khác.
K.Sơn
Bạc Liêu: Tôm giống kém chất lượng bán tràn lan
Nguồn tin: NLĐ, 11/5/2007
Ngày cập nhật: 13/5/2007
Theo Trung tâm Giống thủy sản tỉnh Bạc Liêu, hiện nay, tình trạng lưu thông, mua bán tôm giống kém chất lượng tại thị trường trong tỉnh diễn ra tràn lan, ngoài vòng kiểm soát của cơ quan chức năng.
Qua kết quả lấy mẫu xét nghiệm ngẫu nhiên của trung tâm Khuyến ngư tỉnh, có 8%-10% mẫu tôm bị nhiễm virus đốm trắng, 45%-55% mẫu tôm bị nhiễm virus MBV (bệnh còi), 40%-49% mẫu tôm bị nhiễm bệnh đầu vàng...
Hiện nay, tỉnh đang vào vụ nuôi tôm chính vụ, đặc biệt là diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp trong tỉnh đang tập trung thả nuôi tôm, nên cần một lượng tôm giống khá lớn.
Hàng năm, tỉnh Bạc Liêu cần khoảng trên dưới 10 tỉ con tôm giống, trong khi đó con giống sản xuất tại chỗ chỉ đáp ứng khoảng 40% so với nhu cầu thị trường; phần còn lại phải nhập từ các tỉnh miền Trung; nhưng… khâu kiểm tra, kiểm soát thiếu đồng bộ, lực lượng chức năng mỏng nên khó quản lý được nguồn tôm giống trên thị trường.
Theo TTXVN, trong 4 tháng đầu năm 2007, toàn tỉnh có đến hơn 1.800 ha tôm nuôi bị chết. Nguyên nhân, là do môi trường nước, con tôm giống kém chất lượng..., do vậy hàng trăm hộ dân mua phải con giống kém chất lượng, nên sản xuất thua lỗ và lâm vào cảnh khó khăn, nợ nầng chồng chất.
B.T.L
Quảng Nam: Gần 150 ha tôm nuôi vụ 1 chết
Nguồn tin: NLĐ, 11/5/2007
Ngày cập nhật: 13/5/2007
Ngày 11-5, theo tin từ Phòng Kinh tế thị xã Hội An và huyện Núi Thành cho biết, từ giữa thàng 4 đến nay, tại 2 địa phương trên đã có gần 150 ha tôm nuôi vụ 1 bị chết. Trong đó, thị xã Hội An có 44 ha, tập trung nhiều nhất ở xã Cẩm Thanh với trên 22 ha; huyện Núi Thành trên 100 ha. Ở các xã Tam Hòa, Tam Giang, Tam Xuân 1, Tam Hiệp.
Theo kết quả xét nghiệm mẫu của Trung tâm khuyến ngư Quảng Nam, hầu hết tôm bị nhiễm virus đốm trắng, các mẫu tôm chết ở Cẩm Châu , Cẩm Thanh (Hội An) chủ yếu do nhiễm nấm độc Fusarium, vi khuẩn Vibrio và MBV với cường độ cảm nhiễm khá cao. Điều đáng lo là hiện nay thời tiết diễn biến phức tạp, nước sông bị nhiễm khuẩn nên dịch bệnh trên tôm có khả năng lây lan sang các hồ nuôi khác.
Kim Sơn
Đồng bằng sông Cửu Long: Tôm nuôi chết nhiều
Nguồn tin: SGGP, 12/05/2007
Ngày cập nhật: 12/5/2007
ĐBSCL đang bước vào vụ tôm sú 2007 với không ít rủi ro. Tại Bến Tre, qua kiểm tra một số vùng nuôi tập trung ở huyện Bình Đại đã xuất hiện bệnh đốm trắng, với diện tích khoảng 16ha, tập trung ở các xã Thạnh Trị, Bình Thới và Định Trung. Tại Long An, đã có gần 2.000ha tôm sú bị thiệt hại vì bị bệnh thân đỏ và đốm trắng. Tại Tiền Giang, đã có 76,2ha của 78 hộ nuôi tôm trong tỉnh bị thiệt hại với tổng lượng tôm giống 13,3 triệu con, chủ yếu bệnh đốm trắng trên tôm nuôi từ 30 đến 60 ngày tuổi. Tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… tình trạng tôm chết rất đáng lo ngại.
Theo các nhà chuyên môn, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tôm nuôi chết nhiều là do con giống kém chất lượng, thời tiết diễn biến bất lợi cho sản xuất…
Theo ông Tiền Hải Lý, Giám đốc Trung tâm Giống thủy sản tỉnh Bạc Liêu, từ đầu năm đến nay, nguồn tôm giống sản xuất tại địa phương và nhập từ các tỉnh miền Trung lưu thông trên thị trường tỉnh, tỷ lệ tôm giống kém chất lượng chiếm khá cao.
T.M.T. – K.Q.
Nhiều thương hiệu thức ăn cho tôm không đạt chất lượng
Nguồn tin: SGGP, 12/05/2007
Ngày cập nhật: 12/5/2007
Chi cục Quản lý thị trường Bến Tre vừa xử phạt 3 doanh nghiệp sản xuất thức ăn cho tôm bán tại địa bàn huyện Bình Đại (Bến Tre), mỗi DN 4 triệu đồng vì vi phạm tiêu chuẩn chất lượng đã ghi trên bao bì. Cụ thể, đại lý Nguyễn Minh Hải (xã Bình Thới, Bình Đại), thức ăn cho tôm hiệu CP 9001, sản xuất ngày 4-3-2007, độ đạm (protein) chỉ đạt 40,5% so với 42% ghi trên bao bì.
Tại đại lý Phong Vân (xã Bình Thới), thức ăn cho tôm DR – Nupak – N0 100 của Công ty TNHH Dinh dưỡng Á châu VN, sản xuất ngày 8-2-2007, độ đạm chỉ đạt 40,3%/42%. Tại đại lý Hoàng Vũ (Bình Thới), thức ăn cho tôm UP S204 của Công ty TNHH UNI – President VN – Tiền Giang, độ đạm chỉ đạt 38,3%/39% và tại chi nhánh Ngọc Thanh, thức ăn cho tôm LaOne L.100 (của Cty UNI – President VN – Tiền Giang), sản xuất ngày 24-2-2007, độ đạm chỉ đạt 43,1%/44%.
P.L.H.H.
Bến Tre: Huyện Bình Ðại hướng tới nuôi trồng thủy sản bền vững
Nguồn tin: ND, 12/5/2007
Ngày cập nhật: 12/5/2007
Trong những ngày này, rất khó gặp được lãnh đạo huyện. Bởi một lẽ duy nhất là quyết tâm "gỡ" lại phần tôm chết của vụ năm rồi và giúp bà con "lấy lại sức" sau bão số 9 vừa qua. Cho nên, không hội họp, thì tất cả lãnh đạo xuống cơ sở, giúp bà con ăn chắc vụ này.
Anh Hữu Khoa, một cán bộ UBND huyện giải thích việc huyện điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với điều kiện đang đòi hỏi. Theo anh: Bình Ðại hiện có hai quy hoạch, cả tổng thể và chuyên ngành. Quy hoạch tổng thể của huyện được hình thành khi có cống đập Ba Lai. Tất nhiên còn điều chỉnh, vì dự án ngọt hóa bắc Bến Tre chưa hoàn thành. Khó khăn là vậy, nhưng huyện không chờ, mà từ thiết kế dự án, huyện hình thành quy hoạch chuyên ngành. Cống đập Ba Lai là giai đoạn 1 của dự án ngọt hóa bắc Bến Tre. Vì chưa hoàn thiện, muốn phát triển nhanh hơn, thì Bình Ðại phải sắp xếp lại cho phù hợp hiện tại. Với hai công việc: nuôi công nghiệp không thể ào ạt, mà giữ một tỷ lệ vừa phải, tăng diện tích nuôi xen rừng và quảng canh; đồng thời là kiện toàn lại Ban chỉ đạo nuôi thủy sản huyện. Ðể trên cơ sở đó mà lãnh đạo và quản lý vùng nuôi đúng theo quy hoạch, giúp các xã phát huy ý thức cộng đồng trong dân. Có như vậy mới hạn chế chất thải làm ô nhiễm môi trường. Trước đây, cống đập Ba Lai chưa có, nên vùng phía ngoài cống đập độ mặn thấp, bây giờ là rất cao. Muốn nuôi được, phải có dự án dẫn nước ngọt từ phía trong cống đập Ba Lai.
Trên lĩnh vực thủy sản, giữ vững đoàn tàu đánh bắt và không ngừng nâng cao chất lượng khai thác. Diện tích nuôi vẫn là 16.000 ha, không tăng lên, nhưng tỷ lệ nuôi từng loại hình có thay đổi. Phấn đấu tăng hình thức quảng canh xen rừng đạt tỷ lệ phân nửa diện tích nuôi trong toàn huyện, kết hợp nuôi là trồng đước, vẹt,... để tạo môi trường sinh thái. Phần còn lại, kéo giảm diện tích nuôi công nghiệp còn khoảng 4.000 ha, quảng canh trong ruộng lúa là 1.000 ha, nuôi nghêu tăng thêm 500 ha, để đạt khoảng 2.500 ha. Chủ động về con giống, đã hình thành vùng sản xuất tôm giống Cadex, nay có thêm Thới Thuận và sắp tới tiếp tục phát triển sang xã Thừa Ðức, cộng với các cơ sở ở ngoài tỉnh, cố gắng cung cấp giống đúng chuẩn đạt số lượng theo nhu cầu từ 80% trở lên, phấn đấu đến vụ 2008, hoàn toàn chủ động về nguồn giống. Ðiểm mới về nuôi công nghiệp của Bình Ðại hiện nay là các xã chung quanh Ðịnh Trung. Mấy năm trước, việc nuôi tôm không tới đây, vì cho rằng tôm chỉ phát triển tốt ở những vùng nước mặn. Nhưng năm rồi, cũng từ thực tế, người dân đã chỉ ra: nuôi tôm sú trong vùng nước lợ vẫn trúng. Nếu như hai năm về trước, không cho dân làm, thì năm nay, tại vùng này, trên cơ sở hiện có, phát triển thêm 100 ha nữa. Vùng Thạnh Trị cũng vậy, phía dưới cống đập Ba Lai vẫn giữ nguyên diện tích nuôi tôm sú như năm rồi, nhưng phải làm thủy lợi dẫn nước ngọt từ trên cống đập về, để giảm bớt độ mặn, hạn chế tôm chết như những năm trước. Còn phần đất nằm phía trên cống, thì phát triển nuôi thủy sản nước ngọt, trồng mía và cây ăn trái.
Ðối với con cá da trơn thì nuôi trong ao, không cho nuôi lồng bè trên sông. Vài năm gần đây, xuất hiện nhiều mô hình có hiệu quả cao, như Việt Tiến ở xã Châu Hưng, chị Vân nuôi cá sấu ở Thạnh Trị, Công ty Trung Thành đầu tư nhà máy nước cũng tham gia nuôi cá da trơn, cho nên từ năm 2007, huyện chủ trương phát triển thêm 100 ha nuôi loại cá này. Hai phương án giải quyết nước thoát để tránh ô nhiễm dòng nước cung cấp từ sông Ba Lai, đó là nuôi có giới hạn và hướng dẫn người nuôi có ao xử lý nước thải đúng kỹ thuật theo hướng dẫn. Mới nhất đối với con cá da trơn vùng này là liên kết được "4 nhà" - chăn nuôi, khoa học, chế biến và xuất khẩu để bảo đảm chất lượng và giá cả.
Cây lúa Bình Ðại chủ trương cắt vụ cho đất nghỉ và rất coi trọng về giống. Không làm ba vụ, mà chỉ hai vụ lúa, hoặc một lúa một màu, tuy có cực hơn, nhưng hiệu quả của màu luôn cao hơn lúa. Từ mô hình trồng màu phủ bạt (dưa hấu và rau) ở xã Thừa Ðức, đem lại hiệu quả rất cao ở vụ vừa rồi, đã chỉ ra hướng giải quyết đầu ra của cây màu, vẫn phải là liên kết "4 nhà" để tạo thế bền vững. Ðó cũng là đồng thời cách "chữa cháy" sau bão số 9 vừa qua ở cả huyện Bình Ðại.
Vụ tôm năm rồi, chết khoảng 1.000 ha, gần 25% diện tích nuôi, nhưng nhờ được giá, nên người dân vẫn còn có lãi. Năm nay, ngành chuyên môn đặc biệt chú ý việc quan trắc môi trường. Trên cơ sở đó khuyến cáo từng lúc, giúp người nuôi thả tôm đúng thời vụ; kiểm soát chặt chẽ con giống, hạn chế thấp nhất dịch bệnh xảy ra. Vào thời điểm này, các khâu chuẩn bị cho nuôi vụ tới đã xong. Chủ trương cho thả tôm nuôi theo hình thức quảng canh đã hơn một tháng, nay chưa thấy có dịch bệnh. Hứa hẹn một mùa bội thu.
Lê Quang Nhung
Nghề nhân giống tôm, cá ở Ðồng Tháp
Nguồn tin: ND, 12/5/2007
Ngày cập nhật: 12/5/2007
Thiên nhiên thật ưu đãi cho vùng quê Ðồng Tháp Mười những sản vật dồi dào, với cánh đồng cò bay mỏi cánh. Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn!...
Tỉnh Ðồng Tháp nằm trong vùng Ðồng Tháp Mười mênh mông và là một tỉnh nằm ở đầu nguồn sông Cửu Long có dòng Tiền Giang và Hậu Giang quanh năm nước ngọt và phù sa bồi đắp, cây trái tốt lành. Bên cạnh thế mạnh về cây lúa, hoa màu và các vườn hoa kiểng, cây ăn trái đặc sản nổi tiếng gắn liền với địa danh từng vùng như: làng hoa kiểng Tân Quy Ðông - Sa Ðéc, Mận Hòa An, Xoài Cao Lãnh, Nhãn Châu Thành, Quýt Hồng Lai Vung... Ðồng Tháp còn có thế mạnh với nghề nuôi trồng thủy sản! Ngoài nghề nuôi cá bè nổi tiếng cả nước, nông dân Ðồng Tháp còn có sáng kiến mở rộng mô hình nuôi cá da trơn trên vùng đất bãi bồi, nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa mùa nước nổi, nuôi cá lóc thâm canh trong ao hầm - lồng bè, nuôi cá rô đồng, cá chình và nuôi ghép các loại thủy sản khác trong cùng một diện tích mặt nước ao - bè... Các mô hình trên vừa mang lại nguồn lợi nhuận đáng kể cho gia đình, vừa tiết giảm được chi phí đầu tư và thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn của tỉnh phát triển...
Thạc sĩ Nguyễn Phú Hiện, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ðồng Tháp cho biết: "Thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng vùng sinh thái, nhiều nông dân trong tỉnh Ðồng Tháp đã chuyển nhanh diện tích trồng lúa hiệu quả kinh tế thấp sang nuôi tôm càng xanh, nuôi thủy sản các loại mang lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình. Từ đó, nhu cầu về con giống rất lớn nên đã có nhiều cơ sở nhân giống bán cá giống, tôm giống hình thành và phát triển để đáp ứng nhu cầu của người nuôi...". Hằng năm, Ðồng Tháp có hàng trăm cơ sở nhân giống và cung cấp hàng trăm triệu con tôm, cá giống các loại cho người nuôi. Anh Nguyễn Ngọc Hướng ở xã Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò sau khi học xong khóa Khuyến ngư do Bộ Thủy sản tổ chức, năm 2001, anh quyết định đầu tư hàng chục triệu đồng xây bể xi-măng, mua máy phát điện và các dụng cụ cần thiết khác để thực hiện mô hình nhân giống tôm càng xanh giống nhân tạo. Anh Hướng khẳng định: Nhân giống tôm càng xanh giống nhân tạo không khó, nhưng yêu cầu người nhân giống phải ứng dụng tốt các quy trình kỹ thuật và cần mẫn chăm sóc. Trước tiên là khâu tuyển chọn con tôm giống bố mẹ khỏe, không mắc bệnh, tôm cái đang ôm trứng... Sau đó, đem tôm giống về nuôi vỗ béo và cho thụ tinh, đến thời điểm thích hợp thì đưa vào bể ấp có nồng độ nước biển trên dưới 15%. Vài ngày sau, trứng tôm nở thành ấu trùng và gần một tháng sau ấu trùng chuyển thành tôm Post. Khoảng một tháng đến một tháng rưỡi sau nữa, tôm Post lớn thành tôm càng xanh giống với chiều dài từ 3 đến 5 cm... Giai đoạn vất vả nhất đòi hỏi người nhân giống tôm phải áp dụng đúng quy trình kỹ thuật là lúc ấp trứng tôm nở thành ấu trùng chuyển thành tôm Post. Còn giai đoạn từ tôm Post chuyển thành tôm giống đỡ vất vả hơn. Bởi, lúc này người nhân giống có thể nuôi trong ao, vèo, hồ xi-măng với mật độ khoảng 200 con/m2 ở nhiệt độ không quá 32oC và nước không cần máy sục khí. Bình quân một ngày cho tôm Post ăn hai lần (sáng, chiều). Nguồn thức ăn cho tôm có chứa từ 35 đến 40% chất đạm. Mỗi tuần thay nước một lần để kích thích tôm mau lột xác. Tính từ năm 2002 đến nay, anh Hướng đã nhân giống bán hàng triệu con tôm càng xanh giống, thu nhập được cả trăm triệu đồng, cải thiện được cuộc sống gia đình, vươn lên khá giàu... góp phần cung cấp nguồn tôm càng xanh giống cho người nuôi, trong khi nguồn tôm giống ngoài tự nhiên ngày càng cạn kiệt và khan hiếm...
Xuống dốc cầu Ðốc Vàng Hạ nhìn về phía bên trái, cặp tuyến quốc lộ 30 có một cái ao nước xanh rì. Trong ao có nhiều cây trụ căng lưới cước thành từng ô hình chữ nhật... để nhân giống các loại cá giống. Ðó là cơ sở sản xuất cá giống các loại của anh Hùng. Vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, anh Võ Văn Hùng đã tận dụng một cái ao hơn 1.000 m2 trước nhà, mua 70 kg cá giống bảy ngày tuổi đem về thả vào ao để nhân giống. Khi cá được 25 - 30 ngày tuổi, anh gom lại thả vào mùng lưới cước được căng ngay tại ao bởi những cột trụ vững chắc, với mật độ từ 5 đến 10 kg cá trê lai trong một m3 nước, còn đối với các loại cá trắng khác thì thả 1 kg/m3 nước. Lúc này, anh bắt đầu bán cá giống cho những hộ có nhu cầu nuôi cá thịt. Sau hơn một tháng chăm sóc, đàn cá giống các loại như: cá trê lai, mè vinh, trắm cỏ, cá hường, rô phi, sặc rằn, điêu hồng, cá chép, cá trôi... của anh đã tăng trọng được 170 kg; bán lần lượt trong vòng ba tháng với giá bình quân 350.000 đồng/kg cá giống, anh thu hơn sáu triệu đồng. Trừ tất cả chi phí đầu tư và công chăm sóc, anh còn lãi gần bốn triệu đồng.
Tiếp tục ngược lên huyện biên giới Hồng Ngự, chiếc nôi của nghề nuôi cá tra, cá basa trong ao, bè... Ghé thăm cơ sở nhân giống cá của anh Nguyễn Văn Nắm ở xã An Bình A, người đã vang tiếng một thời với quy trình cho cá tra sinh sản nhân tạo và đã có thâm niên trong nghề này với thu nhập mỗi năm hàng tỷ đồng! Gần 10 năm trước, anh đầu tư công sức, tiền của rất lớn cho nghề sinh sản cá tra nhân tạo và ương, bán cá tra giống. Quy trình cho cá tra sinh sản nhân tạo đã được anh thực hiện khá bài bản như một kỹ sư thực thụ. Từ khâu nuôi cá tra bố mẹ với thức ăn có thành phần đạm cao và thêm một vài chất kích thích về sinh dục... đến khâu kiểm tra xác định cá đực, cá cái; kiểm tra vùng bụng, thăm trứng cá tra cái và dùng tay vuốt nhẹ vùng bụng cá đực để xác định tinh dịch... Sau đó, chích thuốc kích dục tố, cách thức cho trứng thụ tinh rồi đưa trứng vào một bình ấp và trộn với dòng nước xoáy đều... Sau một ngày đêm cá bắt đầu nở, vớt cá vào một bồn i-nốc có chứa nước sạch để nhân giống cá tra bột. Ðể 24 giờ sau, cá bột bơi lội vững vàng, rồi đưa cá xuống ao nuôi, cá có thể bơi bắt mồi kiếm sống... Anh Hai Nắm cho biết: "Mười ngày đầu, tôi cho cá tra bột ăn thức ăn gồm: bột đậu nành 100 gram trộn chung 100 gram sữa bột và 10 lòng đỏ trứng vịt đã luộc chín, pha với 2 lít nước trải đều trên mặt nước ao. Mỗi ngày cho cá ăn 12 lần, cách 2 giờ cho cá ăn một lần. Năm ngày sau, tôi đánh lòng đỏ trứng vịt hòa với nước cá để cho cá tra bột ăn. Khi cá tra bột được 20 ngày trở lên thì tôi chỉ cho cá tra ăn bằng cá, tép các loại xay nhuyễn trộn với bột gòn để trên vỉ tre được treo xăm xắp trên mặt nước ao, nhằm dễ dàng theo dõi lượng mồi thừa, thiếu... Sau hơn 45 ngày chăm sóc, gia đình tôi bán cho thương lái từ 600 đến 800 đồng/con, thu lợi gấp 10 lần so với bán cá tra bột". Công trình nghiên cứu, sáng tạo cho cá tra sinh sản nhân tạo và nhân giống của anh Hai Nắm đã được phổ biến đại trà, nên đã chủ động khâu cung cấp cá tra giống cho thị trường. Hiện nay không ít nông dân Ðồng Tháp đã thực hiện thành công việc sinh sản nhân tạo các loại cá giống như: cá rô đồng, điêu hồng, thác lác, cá sặc rằn... cung cấp đủ nhu cầu cho người nuôi trong và ngoài tỉnh, thu lợi đáng kể cho gia đình...
Nghề nhân giống, bán tôm, cá giống các loại đã và đang giúp nhiều nông hộ trong tỉnh Ðồng Tháp nhanh chóng thoát nghèo, vươn lên khá, giàu, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động nhàn rỗi và đưa nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn Ðồng Tháp phát triển khởi sắc...
TRẦN TRỌNG TRUNG
Bến Tre: Xuất hiện bệnh đốm trắng ở tôm nuôi
Nguồn tin: Nhân dân, 10/5/2007
Ngày cập nhật: 11/5/2007
Cho đến nay, các vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp đang tiến hành thả giống với diện tích hơn 40%, riêng nuôi theo phương thức quảng canh đạt khoảng 25.500 ha, hiện tôm đang phát triển bình thường, hầu hết từ một đến hai tháng tuổi.
Tuy nhiên, qua kiểm tra một số vùng nuôi tập trung ở huyện Bình Đại đã có xuất hiện bệnh đốm trắng, với diện tích khoảng 16 ha, tập trung ở các xã Thạnh Trị, Bình Thới và Định Trung.
Ngành chức năng đang tiến hành phối hợp với các ngành liên quan tăng cường công tác quan trắc, theo dõi diễn biến môi trường vùng nuôi tôm, kiểm tra chất lượng tôm giống, kinh doanh thức ăn, hóa chất… giúp người nuôi nắm chặt diễn biến môi trường, dịch bệnh để chủ động phòng ngừa và kịp thời đối phó khi dịch bệnh xảy ra.
Lê Quang Nhung
Tôm nuôi đầu vụ bất lợi do thời tiết
Nguồn tin: TG, 11/5/2007
Ngày cập nhật: 11/5/2007
Vụ tôm nuôi năm nay, nông dân vùng ven biển tỉnh Tiền Giang đã phải gánh chịu thiệt hại bởi tôm chết do bệnh, chủ yếu bệnh đốm trắng trên tôm nuôi độ tuổi từ 30 đến 60 ngày. Theo thống kê sơ bộ của ngành Thủy sản thì đã có 76,2 ha của 78 hộ nuôi tôm trong tỉnh bị thiệt hại với tổng lượng tôm giống 13,3 triệu con.
Theo nhận định của ngành chức năng, có hai nguyên nhân chính đưa đến tình trạng tôm chết trong vụ nuôi 2007. Đó là chất lượng con giống kém và thời tiết không ổn định làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của tôm nuôi, làm suy giảm sức đề kháng tạo điều kiện cho virus tấn công mạnh đưa đến hiện tượng tôm chết hàng loạt. Được biết, trong thời gian qua, có lúc nhiệt độ ban ngày quá cao, ban đêm giảm thấp với biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm khoảng 10 độ C. Thời tiết bất lợi đã có ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình sản xuất đời sống nói chung trong đó có nuôi trồng thủy hải sản.
Thống kê của Sở Thủy sản tỉnh Tiền Giang cho biết đến nay có 2.187 hộ dân đã thả được 419 triệu con giống trên diện tích trên 2.676 ha, đạt gần 41% kế hoạch 2007 trong đó nuôi thâm canh và bán thâm canh gần 593 ha, nuôi quảng canh cải tiến trên 1.714 ha. Do tình hình thời tiết thủy văn bất lợi nên tỉnh khuyến cáo nông dân thả đúng lịch thời vụ cho phép, tuyển chọn con giống tốt đã qua kiểm dịch, chú trọng các biện pháp chăm sóc để tôm tăng trọng nhanh, loại trừ được những tác nhân gây bệnh. Hiện nay, bà con đang tích cực cải tạo ao đầm, tiến hành lấy nước chuẩn bị thả tiếp giống tôm sú khi có điều kiện. Dự kiến trong tháng 5/2007, tỉnh sẽ tập trung thả dứt điểm toàn bộ diện tích tôm nuôi còn lại.
MINH TRÍ
Ninh Phước (Ninh Thuận): Phát triển 175 ha diện tích thả nuôi tôm thẻ chân trắng
Nguồn tin: Ninh Thuận, 05/05/2007
Ngày cập nhật: 11/5/2007
Theo số liệu thống kê, hiện diện tích tôm thịt đang thả nuôi trên đại bàn huyện là 220 ha, trong đó tôm thẻ chân trắng 175 ha và tôm sú 45 ha. Đến nay, đã thu hoạch được 100 ha, sản lượng đạt trên 797 tấn (trong đó tôm thẻ 672 tấn và tôm sú 125 tấn), đạt gần 40% kế hoạch năm và tăng gấp 7 lần so với cùng kỳ năm 2006. Ngoài ra nhằm đáp ứng nhu cầu con giống tại chỗ, toàn huyện đã phát triển được 375 trại tôm giống thả nuôi, tăng 6,5% so với cùng kỳ, xuất bán 420 triệu con tôm post 15, tăng gấp 1,8 lần so với cùng kỳ năm 2006.
Đức Thắng - Báo Ninh Thuận
Ninh Thuận: Chủ tịch UBND tỉnh kiểm tra tiến độ thi công các công trình thủy sản
Nguồn tin: Ninh Thuận, 10/05/2007
Ngày cập nhật: 11/5/2007
Mô hình sản xuất cá giống, cá thịt da trơn ở huyện Ba Tri
Nguồn tin: BTreTV, 11/5/2007
Ngày cập nhật: 11/5/2007
Anh Ngô Văn Đăng, xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm luôn năng nổ, sáng tạo trong làm ăn kinh tế và sản xuất kinh doanh. Những năm qua, khi phong trào nuôi tôm sú có dấu hiệu chựng lại, việc nuôi cá đồng ở xã Tân Xuân và Tân Mỹ, của huyện Ba Tri hiệu quả không cao, anh Đăng đã mạnh dạn đầu tư hằng trăm triệu đồng thuê lại khoảng 21 ha mặt nước để nuôi và sản xuất kinh doanh giống cá da trơn .
Đây là mô hình sản xuất kinh doanh khép kín, ngoài sản xuất cá giống cung ứng cho thị trường anh còn nuôi cá thịt. Do có lực lượng kỹ sư lành nghề nên con giống luôn đạt chuẩn về kích cỡ và chất lượng, từ đó tạo được sự tín nhiệm của đông đảo khách hàng trong và ngoài tỉnh. Hằng năm cơ sở của anh Ngô Văn Đăng cung ứng ra thị trường khoảng 55 triệu con cá giống và 2.000 tấn cá thịt. Mới đây cơ sở của anh đã ký hợp đồng cung ứng cho Công ty lâm thuỷ sản Bến Tre 300 ngàn con cá giống với tổng số tiền 312 triệu đồng. Ngoài sản xuất kinh doanh cơ sở của anh Ngô Văn Đăng còn làm tốt công tác từ thiện xã hội, và giải quyết việc làm cho gần 100 lao động có thu nhập ổn định .
Nuôi tôm... ôm nợ!
Nguồn tin: BCT, 10/5/2007
Ngày cập nhật: 11/5/2007
Phong trào nuôi tôm với mong muốn trở thành tỉ phú, đã khiến người dân Bạc Liêu ùn ùn mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi thế chấp ở các ngân hàng để vay vốn. Tuy nhiên, có nhiều điển hình thành công vươn lên hàng tỉ phú, nhưng rồi qua những vụ nuôi tôm thất bại, nhiều hộ đã lâm vào cảnh trắng tay, nợ nần chồng chất.
Đến huyện Hòa Bình trong những ngày này, sẽ thấy những tấm băng-rôn với hàng chữ “điểm thu hồi nợ xấu”. Ngồi trong căn nhà lá trống trước, hở sau, ông Dương Thanh Hải ở xã Vĩnh Mỹ A, huyện Hòa Bình, rầu rĩ nói: “Từ khi tôi chuyển sang nuôi tôm thì cả trăm công đất cũng lần lượt “đội nón ra đi”. Tiền sang đất được gần một tỉ đồng tôi đã đổ vào đầu tư nuôi tôm, bây giờ thì trắng tay”. Mấy công đất nuôi tôm còn sót lại ông Hải kêu bán cũng chẳng ai dám mua,vì sổ đỏ còn nằm trong ngân hàng và tiền vay nóng cả trăm triệu đồng bên ngoài số lãi cứ tăng lên từng ngày.
Ở huyện Hòa Bình còn rất nhiều điển hình tỉ phú tôm trước đây nay trở thành “điểm nóng” nợ nần. Theo lãnh đạo xã Vĩnh Hậu A, đa số hộ nuôi tôm đều đem sổ đỏ đi thế chấp ở ngân hàng, có cả cán bộ xã, ấp. Hiện tổng dư nợ của xã Vĩnh Hậu A lên đến trên 50 tỉ đồng, trong đó có ấp nợ trên 13 tỉ đồng.
Không chỉ có người nuôi tôm, ngành ngân hàng tỉnh này cũng lao đao vì tổng số nợ quá hạn lên đến 1.200 tỉ đồng, tập trung nhiều nhất ở lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Theo nguyên tắc, nếu nông dân không trả nợ, ngân hàng sẽ nhờ đến cơ quan pháp luật tiến hành kê biên tài sản thế chấp để xử lý, phát mãi tài sản trừ nợ. Tuy nhiên, hiện nay đất nuôi tôm bán không ai mua và ngân hàng không thể lấy đất để trừ nợ.
Ông Trần Văn Cường, Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh huyện Hòa Bình, cho biết: Ngân hàng đã tính đến phương án chuyển hồ sơ cho cơ quan pháp luật xử lý những hộ có tiền nhưng cố tình không trả nợ. Những hộ tuy thất mùa tôm nhưng còn khả năng trả nợ, sẽ cho giãn nợ đến cuối vụ tôm năm nay. Riêng những hộ thất mùa liên tục, không còn khả năng chi trả thì ngân hàng tạo điều kiện cho họ trả dần theo thu nhập thực tế. Đối với những cán bộ có vay vốn nuôi tôm cố tình không trả nợ ngân hàng, UBND tỉnh Bạc Liêu đã chỉ đạo kiểm điểm, trừ lương hàng tháng để cố gắng thu hồi cho được nợ xấu.
Ông Trần Thanh Tâm, Phó chủ tịch UBND huyện Hòa Bình, cho biết: “Hiện nay, huyện đang lập đề án phát triển sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững. Theo đó, huyện sẽ phát động mô hình nuôi trồng thủy sản theo hướng đa canh, đa con và giảm dần diện tích nuôi tôm công nghiệp. Trước mắt, ở xã Vĩnh Hậu đã tiến hành thử nghiệm mô hình nuôi thủy sản kết hợp như: cua, cá kèo, cá đối, cá chẽm… bước đầu đã mang lại kết quả rất khả quan”. Ngoài ra, để khắc phục tình trạng nông dân “treo đất” vì không còn khả năng tái sản xuất, tỉnh Bạc Liêu đã hỗ trợ tôm giống cho nông dân ở 3 xã Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A và Vĩnh Thịnh thả nuôi vụ tôm mới.
SONG NGUYỄN
An Giang: Phát huy ưu thế thủy sản nước ngọt.
Nguồn tin: BCT, 10/5/2007
Ngày cập nhật: 11/5/2007
Nuôi trồng thủy sản là một lợi thế trong phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh An Giang. Nhiều năm qua, ngành thủy sản An Giang có nhiều bước tiến quan trọng, từ việc nuôi cá ba sa, cá tra lồng bè với số lượng hạn chế, thì nay đã có nhiều chủng loại thủy sản đa dạng đạt hiệu quả kinh tế cao, giúp ngư dân làm giàu. Hiện nay, nuôi trồng thủy sản đang trở thành xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp quan trọng. Đây sẽ là lĩnh vực góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP của An Giang trong tương lai.
Từ lâu, nhiều người biết đến nghề nuôi trồng thủy sản của An Giang qua hình ảnh làng bè Châu Đốc. Con cá ba sa và cá tra sản phẩm chiến lược phục vụ chế biến xuất khẩu, gợi mở cho tỉnh về hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sản xuất nông nghiệp. Từ rất sớm tỉnh đã xây dựng đề án phát triển thủy sản giai đoạn 2000 – 2005 và định hướng quy hoạch đến năm 2010. Tỉnh đã ban hành nhiều chính sách về vốn, con giống, mở rộng thị trường xuất khẩu với các sản phẩm chế biến đa dạng và được khách hàng nhiều nước ưa chuộng. Bên cạnh đó tỉnh đã giới thiệu và khuyến khích nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản như nuôi cá, tôm đăng quầng, nuôi cá ao hầm, nuôi cá lóc trong vèo, nuôi lươn, nuôi ếch trong bồn, mô hình luân canh 1 vụ lúa một vụ tôm mùa nước nổi đạt hiệu quả cao.
Từ chỗ có vài trăm hộ nuôi thủy sản, đến nay tỉnh có trên 13.500 hộ nuôi thủy sản với diện tích đạt xấp xỉ 2.000 ha, đạt sản lượng 200.000 tấn trong năm 2006, tăng gấp 5 lần so với năm 2000. Tổng sản lượng sản phẩm chế biến xuất khẩu là 80.000 tấn, trị giá trên 205 triệu đô-la, tăng gấp 6 lần so với năm 2000 và tăng 62% về lượng và 92% về giá trị so với năm 2005. Hiện nay, sản phẩm thủy sản chế biến của An Giang đã có mặt ở 65 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.
Diện tích nuôi trồng thủy sản đều tăng hàng năm là điều đáng mừng. Tuy nhiên, tư tưởng sản xuất nhỏ lẻ còn ăn sâu trong tập quán canh tác của nông dân là điều đáng lo. Nông dân đầu tư phát triển thủy sản vẫn còn mang tính tự phát, địa phương không quản lý được vùng nuôi, doanh nghiệp chế biến thủy sản không biết được sản lượng thủy sản đã dẫn đến hệ quả là cung cầu không cân đối, giá cả không ổn định, ảnh hưởng không ít đến tốc độ phát triển thủy sản của địa phương. Đặc biệt là thời gian gần đây khi giá cá nguyên liệu tăng cao, người dân đổ xô đầu tư đào ao nuôi cá. Việc nuôi cá tự phát này đã vượt ngoài tầm kiểm soát của ngành chuyên môn và thiếu sự gắn kết giữa người nuôi với nhà doanh nghiệp. E rằng bài học về cung cầu không ổn định sẽ tái diễn và ảnh hưởng đến phát triển của ngành thủy sản.
Tổ chức lại sản xuất, quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản là một trong những giải pháp phát triển thủy sản bền vững. Thời gian qua, tỉnh đã phân công các đoàn xuống các địa phương để điều chỉnh quy hoạch thủy sản, vận động ngư dân đầu tư nuôi trồng thủy sản tập trung và cam kết thực hiện nuôi cá theo chất lượng SQF 1000. Bước đầu, các địa phương đã triển khai khá tốt, hạn chế tình trạng ồ ạt đào ao nuôi cá ngoài tầm kiểm soát ở địa phương. Ở huyện Châu Phú hiện đã quy hoạch 2 xã Khánh Hòa và Bình Thủy hình thành vùng nuôi trồng thủy sản cặp sông Hậu với diện tích trên 300 ha. Các xã như Mỹ Đức, Mỹ Phú, Vĩnh Thạnh Trung và Bình Mỹ giữ ổn định diện tích hiện có, đồng thời tăng cường huấn luyện kỹ thuật hướng dẫn ngư dân thực hiện nuôi cá sạch theo quy trình SQF 1000, giúp người nuôi nâng cao chất lượng cá phục vụ chế biến xuất khẩu đạt hiệu quả hơn.
Ngoài việc đẩy mạnh chương trình quản lý chất lượng, ngành thủy sản còn đẩy mạnh chương trình giống như nâng cấp trại giống thủy sản Bình Thạnh, huyện Châu Thành thành trung tâm giống thủy sản cấp 1. Nơi đây cùng với Trung tâm giống thủy sản của tỉnh sẽ cung ứng khoảng 10 triệu con giống chất lượng cao. Tỉnh sẽ đầu tư dự án 1.000 kg tôm giống bố mẹ sạch bệnh, chất lượng cao bổ sung cho các cơ sở sản xuất giống để tạo nguồn giống tốt cho chương trình phát triển thủy sản của địa phương. Chị Nguyễn Thị Ngọc Trinh, Giám đốc Trung Tâm giống thủy sản tỉnh An Giang, cho biết: Trong năm nay trung tâm sẽ xây dựng thêm 30 trại giống vệ tinh ở các vùng nuôi tôm trong tỉnh. Tổ chức huấn luyện kỹ thuật sản xuất giống trong cộng đồng, nhằm tăng năng lực sản xuất giống của Trung tâm lên trên 100 triệu con mỗi năm.
Để thủy sản của An Giang phát triển ổn định và bền vững, khai thác đúng thế mạnh của vùng sông nước Mê Công, tỉnh đã tiến hành quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản, phấn đấu đến năm 2.010 có diện tích tăng từ 7.000 ha đến 10.000 ha với một số loài thủy sản có thế mạnh như cá tra, tôm càng xanh, cá rô, cá lóc, cá rô phi, lươn, ếch... Đồng thời, tỉnh cũng triển khai các dự án như thủy sản khu vực giữa sông Tiền, sông Hậu, 1.500 ha cho vùng nuôi tôm càng xanh huyện Thoại Sơn với vốn đầu tư trên 100 tỉ đồng; quan tâm đẩy mạnh chương trình giống thủy sản phấn đấu nâng năng lực sản xuất giống của tỉnh lên từ 350 đến 500 triệu con năm. Ngành thủy sản sẽ tiến hành đào tạo cho trên 60.000 hộ ngư dân thực hiện chương trình chất lượng theo tiêu chuẩn SQF 1000, SQF 2000, về phòng dịch bệnh và bảo vệ môi trường nhằm nâng cao chất lượng cá nuôi, đảm bảo sản xuất ra nguyên liệu sạch khong sử dụng kháng sinh thuộc danh mục cấm. Đẩy mạnh việc mở rộng thị trường tiêu thụ, đầu tư công nghệ chế biến hiện đại để nâng cao giá trị và uy tín hàng thủy sản trong quá trình hội nhập.
Hiện nay, ngành thủy sản An Giang đang đẩy mạnh việc vận đông ngư dân vào các chi hội nghề cá, HTX thủy sản để tạo vùng sản xuất chất lượng phục vụ chế biến xuất khẩu. Tuy chặng đường phát triển thủy sản của tỉnh An Giang chưa phải là dài, nhưng chỉ vài năm trở lại đây lĩnh vực thủy sản có bước tiến nhanh và vượt hơn so với sản xuất lương thực. Điều này cho thấy phát triển thủy sản đang là hướng đi đúng đắn của tỉnh, nhằm khai thác thế mạnh của vùng sông nước Cửu Long. Tin rằng, rồi đây An Giang không chỉ mệnh danh là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, mà còn trở thành vùng nuôi trồng thủy sản nước ngọt lớn với nhiều chủng loài phong phú, nhằm đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp của địa phương.
Trung Liêm
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.