• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Tôm hùm ở Vũng Rô chết hàng loạt: Người nuôi tôm hoang mang

Nguồn tin: PY, 30/5/2007
Ngày cập nhật: 3/6/2007

Cả tuần nay, người nuôi tôm hùm ở Vũng Rô (xã Hoà Xuân Nam, huyện Đông Hòa) liên tục kêu cứu do tôm hùm nuôi bị chết hàng loạt, nằm phơi trắng bụng dưới đáy lồng. Người dân hoang mang, không biết thuốc để chữa trị, đổ lỗi cho các bè nuôi cá mú đã gây ra tình trạng này. Nhiều người bức xúc đã ngăn chặn không cho các doanh nghiệp phát triển thêm bè cá mú, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự. Thế nhưng, các ngành chức năng và chính quyền địa phương vẫn chưa vào cuộc để can thiệp, tìm ra nguyên nhân để giúp dân “cứu” tôm!

070530-be-ca1.jpg

Bè cá mú của Công ty Vĩnh Tín ở Vũng Rô - Ảnh: NGUYÊN LƯU

TÔM HÙM “RỤNG” TỪNG NGÀY

Lái thuyền ra vùng nuôi để kéo lồng, chăm sóc, vệ sinh, cho tôm hùm ăn… là công việc nặng nhọc thường dành cho cánh đàn ông, vậy mà mấy hôm nay, bà Cao Thị Lan, tuổi đã ngoài năm mươi, quá sốt ruột nên phải ra tay làm để mong “cứu” đàn tôm của mình đang “rụng” từng ngày. Bà Lan than thở: “Tôm hùm nuôi gần một năm rưỡi đạt trọng lượng từ 0,7 - 0,8kg/con, gần đến kỳ thu hoạch rồi. Vậy mà không hiểu sao cứ bơi lờ đờ rồi lũ lượt lăn đùng ra chết. Vụ này, cũng giống như hàng chục hộ khác ở Vũng Rô, gia đình tôi dốc hết vốn gần 350 triệu đồng đầu tư nâng cấp lồng bè, thả nuôi 1.200 con tôm hùm thương phẩm. Thế nhưng, bây giờ tôm chết chỉ còn lại khoảng 550 con. Nếu tính bình quân mỗi con tôm được 0,7kg, bán theo giá thị trường 700.000 đồng/kg loại một, thì tôi mất đứt hơn 310 triệu đồng rồi.

Hàng chục người dân ở thôn Vũng Rô đang mất ăn mất ngủ, vì tôm hùm nuôi liên tục “rụng” với số lượng lớn, có nguy cơ trắng tay. Ở cuối Bãi Ngà, thôn Vũng Rô, chúng tôi gặp ông Văn Sáu mới đi thăm lồng tôm trở về với gương mặt phờ phạc, nhễ nhại mồ hôi, ngồi ngay góc nhà rũ rượi cả tay chân. Ông Sáu giơ đôi bàn tay chai sạn nói: “Để thả nuôi được 800 con tôm hùm thương phẩm, tui phải vay, mượn thêm gần 50 triệu đồng của ngân hàng và người thân trong gia đình. Nuôi tôm hùm với giá trị kinh tế cao, vốn đầu tư rất lớn, nên mức độ hao hụt cho phép phải tính bằng con số từng con ở mỗi lồng bè. Nguồn thu nhập của gia đình hoàn toàn dựa vào con tôm hùm, vậy mà bây giờ lỗ vốn nặng, không biết làm gì để trả nợ ngân hàng và lo cho cuộc sống hàng ngày…!”.

070530-tom-hum-vung-ro.jpg

Người dân Vũng Rô đang kiểm tra tôm nuôi bị bệnh trong lồng bè - Ảnh: NGUYÊN LƯU

Cả tuần nay, người dân Vũng Rô liên tục kêu cứu, chạy nháo nhào mua đủ các loại thuốc phòng trị bệnh tôm sú để trị bệnh cho tôm hùm, nhưng không đạt kết quả. Ông Nguyễn Hứa, Trưởng thôn Vũng Rô cho biết, biểu hiện chủ yếu của tôm chết là đỏ thân, đen mang và cháy đuôi. Hiện tỉ lệ tôm hùm chết khá cao, từ 20 - 40% trong tổng số lượng hơn 1.000 lồng tôm hùm nuôi ở Vũng Rô, thiệt hại kinh tế cho người nuôi lên đến hàng tỉ đồng.

CÓ PHẢI TÔM CHẾT DO… CÁC BÈ CÁ MÚ?

Ông Lìu Say Hoan – người Việt gốc Hoa, phụ trách quản lý cơ sở nuôi cá mú của Công ty Vĩnh Tín: “Chính quyền địa phương chấp nhận cho công ty thuê mặt nước thì công ty có quyền nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, công ty chỉ mới nuôi cá mú được 1/3 diện tích mặt nước được thuê. Còn việc tắm cá chỉ sử dụng nước ngọt, chứ hoàn toàn không dùng hóa chất độc hại. Chỉ thỉnh thoảng sử dụng hóa chất khi cá mú bị bệnh nặng, nên khó có thể ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm hùm! Chúng tôi cũng phải bảo vệ môi trường trong sạch để nuôi cho cá mú phát triển chứ!”

Trước thực trạng tôm “rụng” từng ngày, người nuôi tôm ở Vũng Rô hoang mang, lo lắng và đổ lỗi cho các bè nuôi cá mú đã sử dụng hóa chất để tắm cá, rồi vệ sinh lồng, xả thải ra mặt nước, gây “stress” cho tôm hùm chết hàng loạt. Nhiều người dân ở đây đã trực tiếp ngăn chặn một xe tải chở gỗ để lắp đặt thêm lồng bè để phát triển nuôi cá mú của doanh nghiệp tư nhân Mỹ Ngọc; đồng thời dùng ghe thuyền kéo nhau ra biển ngăn chặn không cho doanh nghiệp này đưa một dàn bè cá mú từ Cam Ranh (Khánh Hòa) vào nuôi ở Vũng Rô. Bà Trần Thị Ngọc bức xúc: “Nước ở Vũng Rô ít lưu thông ra biển, trong khi đó nhiều bè nuôi cá mú chiếm dụng mặt nước rất lớn, rồi đổ hóa chất, đổ thức ăn thừa và cá bệnh chết trôi dạt ra làm cho môi trường bị ô nhiễm nặng, thì làm sao con tôm hùm sống được!”. Cuối tháng 4/2004, tôm hùm nuôi ở Vũng Rô cũng bị chết hàng loạt, theo phản ánh của người dân, nguyên nhân chính là do ô nhiễm hóa chất từ bè nuôi cá mú của DNTN Mỹ Ngọc. Sau đó, ngành thủy sản, chính quyền địa phương can thiệp buộc doanh nghiệp này không sử dụng hóa chất, giảm số lượng cá mú nuôi; đồng thời hướng dẫn cho bà con các biện pháp phòng ngừa bệnh tôm. Nhờ đó, trong hai năm 2005 - 2006, tôm hùm nuôi ở Vũng Rô phát triển ổn định, mang lại lợi nhuận cao cho dân. Thế nhưng, từ cuối năm 2006 đến nay, DNTN Mỹ Ngọc sử dụng mặt nước được thuê hằng năm trên 30.000m2 để hợp tác hay sang nhượng cho các doanh nghiệp khác mở rộng quy mô nuôi cá mú lên gấp nhiều lần. Thêm vào đó, Công ty Vĩnh Tiến cũng thuê được mặt nước 12.000m2 đầu tư một dàn bè 100 lồng, chuyển 100.000 con cá mú từ Vũng Tàu về nuôi tại Vũng Rô. Đến tháng 5/2007, khi lồng bè nuôi cá mú phát triển mạnh cũng là lúc tôm hùm liên tục “đổ bệnh”, điều này làm cho người dân càng “tin” nguyên nhân tôm bệnh chết nhiều là do bè cá mú gây ra!

Theo ông Nguyễn Hứa, Trưởng thôn Vũng Rô, đến nay các ngành chức năng vẫn chưa lấy mẫu tôm bệnh để phân tích nguyên nhân tôm bệnh, chưa kiểm tra và xác định chính xác các bè cá đã sử dụng loại hoá chất gì và có làm ảnh hưởng đến môi trường sống tôm hùm hay không, để thông báo công khai cho bà con yên tâm. Một thực trạng dễ nhận thấy là phong trào nuôi trồng thủy sản ở Vũng Rô thiếu quy hoạch, riêng nghề nuôi tôm hùm tự phát ồ ạt, chất thải từ thức ăn rất lớn, làm cho môi trường quá tải, nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Thêm vào đó, UBND xã Hòa Xuân Nam không đủ chức năng, thẩm quyền cho thuê tài nguyên mặt nước, nhưng vẫn ký giấy cho các doanh nghiệp thuê (mỗi doanh nghiệp nuôi cá mú đóng phí mặt nước cho xã chỉ khoảng 3 triệu đồng/năm - PV) mặt nước ở Vũng Rô. Trong khi đó, các ngành chức năng cũng... làm ngơ, không kiểm tra các điều kiện sản xuất thủy sản đúng pháp luật, không kiểm tra an toàn vệ sinh thú y thủy sản đối với các cơ sở nuôi cá mú, gây mất lòng tin trong nhân dân!...

Mỗi ngày đi qua, tôm hùm “rụng” từ vài chục đến vài trăm con. Người dân Vũng Rô đang thật sự chao đảo và rất trông chờ các ngành chức năng và chính quyền địa phương giúp họ giải quyết những vướng mắc và sớm tìm ra giải pháp để “cứu” tôm hùm.

NGUYÊN LƯU


Quản lý tốt môi trường để hạn chế dịch bệnh tôm nuôi

Nguồn tin: BĐ, 1/6/2007
Ngày cập nhật: 2/6/2007

Những năm gần đây, ngành Thủy sản tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm hạn chế tình hình dịch bệnh tôm nuôi. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, ở nhiều vùng nuôi tôm trên địa bàn tỉnh dịch bệnh tôm vẫn còn xảy ra. PV Báo Bình Định trao đổi với bà Mai Kim Thi - Chi cục phó Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản - xung quanh vấn đề này.

Kỹ thuật viên Chi cục BVNL Thủy sản kiểm tra mẫu nước ở các vùng nuôi tôm. Ảnh: N.T

* Xin bà cho biết về tình hình dịch bệnh tôm trên địa bàn tỉnh Bình Định ở vụ nuôi tôm này?

- Vụ nuôi tôm 2007 này, toàn tỉnh thả nuôi 2.116 ha. Trong đó, có 450 ha nuôi theo hình thức thâm canh - bán thâm canh (TC-BTC), 235 ha nuôi quảng canh cải tiến và số còn lại là nuôi tôm thân thiện với môi trường (NTTTMT) (nuôi tôm xen với các đối tượng thủy sản khác). Nhờ hình thức NTTTMT phát triển mạnh, nên tình hình dịch bệnh tôm năm nay giảm đi đáng kể so với trước. Năm 2005, toàn tỉnh có đến trên 1.000 ha tôm nuôi bị dịch bệnh, năm 2006 giảm xuống còn 370 ha và từ đầu năm đến nay là 350 ha. Phần lớn diện tích tôm nuôi bị dịch bệnh tập trung ở những vùng nuôi quanh đầm Thị Nại, đầm Đề Gi và trên diện tích nuôi TC-BTC.

Đặc thù của những vùng nuôi tôm quanh đầm Thị Nại, đầm Đề Gi là sự trao đổi nước kém, lại thiếu hệ thống thủy lợi, hệ thống xử lý chất thải, nên nước trong đầm bị tù đọng, làm cho hàm lượng ô xy hòa tan thấp, lượng mùn bã hữu cơ, vi khuẩn gây bệnh tăng cao… Đã vậy, trên những diện tích nuôi TC-BTC, người nuôi phải dùng các hóa chất sát khuẩn để xử lý nước trong ao nuôi, cho tôm ăn một lượng thức ăn khá lớn, làm cho môi trường nuôi càng bị suy thoái thêm. Chính các yếu tố này đã cho dịch bệnh tôm xảy ra.

* Để khắc phục tình trạng này, thời gian qua ngành Thủy sản tỉnh đã thực hiện những giải pháp gì, thưa bà ?

- Trong thời gian qua, ngành Thủy sản tỉnh đã thực hiện nhiều biện pháp để hỗ trợ cho người nuôi tôm, như xây dựng các trạm kiểm nghiệm, kiểm dịch thú y thủy sản tại một số địa phương để giúp bà con trong việc kiểm tra môi trường nuôi, bệnh tôm… Việc quan trắc môi trường nước cũng được thực hiện ở 8 khu vực nuôi tôm trọng điểm trong tỉnh, nhằm theo dõi diễn biến một số yếu tố môi trường nước có ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm nuôi, như độ pH, độ mặn, thủy sinh, hàm lượng vi khuẩn, nhiệt độ, độ trong, độ kiềm...

Bên cạnh đó, để giảm lượng chất thải ra môi trường xung quanh, ngành Thủy sản tỉnh cũng đã khuyến cáo người nuôi nên thực hiện nuôi 1 vụ ăn chắc và nuôi luân canh, xen canh với các đối tượng nuôi khác, nhất là các đối tượng ăn mùn bã hữu cơ như: cá chua, cá rô phi đơn tính, cua và một số động vật thân mềm… Từ năm 2006 đến nay, phong trào nuôi tôm luân canh, xen canh ở tỉnh ta phát triển rất mạnh. Điều này đã góp phần cải tạo môi trường nuôi và hạn chế tình trạng dịch bệnh tôm xảy ra trên diện rộng như những năm trước đó.

* Theo bà, cần làm gì để nghề nuôi tôm ở tỉnh Bình Định phát triển ổn định và bền vững ?

- Mặc dù trong thời gian qua các giải pháp hỗ trợ cho người nuôi tôm đã được ngành thực hiện tương đối tốt, nhưng do cơ sở hạ tầng ở các vùng nuôi chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, môi trường nuôi vẫn bị ô nhiễm nặng nên không thể khắc phục triệt để được tình trạng dịch bệnh tôm nuôi.

Trong điều kiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động nuôi tôm ở Bình Định như hiện nay còn nhiều hạn chế, để hạn chế tình hình dịch bệnh tôm thì phải phát triển mạnh mô hình nuôi tôm bền vững. Qua kết quả của việc chuyển đổi trong năm 2006 cho thấy, môi trường nước ở những vùng chuyển đổi đã được cải thiện và hiệu quả kinh tế đem lại khá cao. Theo tính toán của người nuôi tôm, để đầu tư nuôi 1 ha tôm TC-BTC phải mất khoảng 80 triệu đồng/vụ, nếu trúng thì thu lãi cũng chừng ấy.

Còn nếu nuôi tôm xen với các đối tượng thủy sản khác, không phải tốn chi phí thức ăn, thuốc... cho các đối tượng này, bởi nó sẽ ăn các loại côn trùng, rong, bã thực vật mà con tôm thải ra, nên chi phí thấp. Trung bình 1 ha tôm nuôi xen với các đối tượng thủy sản khác chỉ đầu tư hơn 30 triệu đồng/vụ và thu lãi tương đương vốn đầu tư.

Ngoài mô hình NTTTMT, ở vụ nuôi tôm 2007 này, Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản cũng đã xây dựng mô hình thí điểm áp dụng quy trình công nghệ nuôi tôm sạch (gọi tắt là GAP) trên diện tích khoảng 80 ha tại các vùng nuôi TC-BTC: Công Lương (xã Hoài Mỹ - Hoài Nhơn), Phước Thắng (Tuy Phước), Mỹ Thắng (Phù Mỹ). Những ao nuôi tôm áp dụng quy trình GAP phải tuân thủ nghiêm ngặt các yếu tố như: xử lý ao nuôi với độ pH chuẩn, con giống phải qua kiểm dịch, hạn chế sử dụng đến mức thấp nhất các loại hóa chất và thuốc thú y thủy sản… Trong những năm đến, mô hình này sẽ được nhân rộng ở những vùng nuôi tôm TC-BTC trên địa bàn tỉnh.

* Xin cảm ơn bà !

Ngọc Thái (thực hiện)


ĐBSCL: Nuôi cá tra: Đăng quầng lên ngôi - nuôi bè thoái vị

Nguồn tin: VNN, 01/06/2007
Ngày cập nhật: 2/6/2007

Những thành phố nổi trên sông Tiền sông Hậu thoáng bỗng tiêu điều. Hai bên bờ, giá đất bãi bồi tăng chóng mặt. Cây ăn trái bị đốn bỏ hàng loạt để nhường chỗ cho hầm nuôi cá.

Chỉ cách nay một thập niên thôi, ai đến thăm vùng sông nước đầu nguồn của các tỉnh An Giang, Đồng Tháp đều có cảm giác choáng ngợp trước hàng nghìn bè cá tra nối đuôi nhau xếp hàng dài trên sông. Không ai biết từ bao giờ, người ta mệnh danh các làng bè này là “thành phố nổi trên sông”. Mà quả thật, quang cảnh về đêm của làng bè tráng lệ không thua gì phố xá trên bộ, mỗi "biệt thự nổi" trị giá từ vài chục đến trên 100 cây vàng, trên đó đèn điện sáng choang, cũng tivi, karaoke rất xôm tụ.

Từ basa cho đến cá tra

Không ai biết nghề nuôi cá bè được bắt đầu từ khi nào, người ta chỉ đoán rằng, khoảng vài chục năm trước, vào mùa nước nổi, lượng cá từ Biển Hồ đổ về các tỉnh đầu nguồn nhiều vô số kể. Ngư dân đánh bắt cá ăn không hết mà bán cũng không kịp, vậy là người ta bắt đầu làm những chiếc lồng tre treo trên sông, quay cá lại rồi cho ăn, chỉ có vậy mà đàn cá lớn nhanh. Nuôi được cá trong lồng, bà con ngư dân học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, rồi đua nhau nới rộng lồng cá, riết rồi thành làng bè hồi nào không hay.

Ông Hai Nắm, một ngư dân gắn bó với nghề nuôi cá bè từ mấy chục năm nay ở huyện Hồng Ngự - Đồng Tháp cho hay, những năm 90 của thế kỷ trước là thời kỳ vàng son của dân làng bè. Nói đoạn, ông chỉ tay về phía chiếc ôtô hiệu Toyota đời đầu: “Con ôtô này tui đổi bằng nửa bè cá ba sa đó”. Ông bảo thời đó cá ba sa có giá nên người nuôi bỏ ra một vốn lấy bốn năm lời, dân làng bè ai cũng phất lên như diều gặp gió. Ngặt nỗi nguồn giống khan hiếm quá, phải thu gom từng con giống ngoài tự nhiên cực khổ vô cùng, lắm lúc phải sang tận Campuchia mua con giống người ta vớt trên Biển Hồ đem bán.

Sau phong trào nuôi cá basa, dân làng bè chuyển sang nuôi cá tra. Lúc đó làng bè càng mở rộng hơn vì giống cá tra dễ đánh bắt hơn. Một vụ nuôi bốn đến sáu tháng mỗi bè cá có thể nuôi được từ vài chục đến cả trăm tấn cá. Lúc đó có người sở hữu vài chục chiếc bè. Phong trào nuôi cá bè phát triển cực độ khi mà người dân cho cá tra sinh sản nhân tạo thành công. Chủ động được nguồn giống, người ta mở rộng làng bè, rồi ồ ạt phá vườn cây, ruộng lúa đào ao thả cá. Nhưng rồi giá cả khi trồi, khi sụt, người nuôi một năm huề vốn, một năm lời thì hai năm lỗ lã. Quy luật trồi sụt kéo dài, nhiều người nuôi cá đã không bám trụ được với “ngôi biệt thự nổi” của mình.

Cá nuôi bè kết thúc sứ mệnh lịch sử?

Ông Hai Bé, một chủ bè ở Phú Thuận B (Hồng Ngự, Đồng Tháp) cho biết, bây giờ giá cá tra có đạt đến 20 ngàn đồng một ký dân làng bè cũng không còn tha thiết gì đến chuyện nuôi nữa. Bởi so với cá nuôi trong ao hầm và cá bãi bồi, thì chi phí nuôi cá bè cao hơn một đến hai ngàn đồng/ký, mà tỷ lệ cá hao hụt, rủi ro lại cao hơn. Trong khi một cái bè 100 tấn cá, chi phí ít nhất cũng 300 triệu đồng, mà chỉ nuôi được trong vòng 10 năm. Trong khi cũng với số tiền đó người ta có thể mua cả héc ta đất đào hầm nuôi một lần dăm ba trăm tấn.

Ông Nguyễn Văn Chên ở xã Phú Bình (huyện Phú Tân, An Giang) dẫn giải: “Kỹ thuật nuôi cá ao hầm rất dễ. Trước khi thả cá, chỉ cần làm vệ sinh hầm bằng cách rắc vôi bột, ao nuôi phải có đường dẫn nước với hệ thống điều khiển chủ động theo ý muốn. Có thể ngăn chặn trong những ngày nguồn nước bên ngoài bị ô nhiễm. Hàng ngày bơm nước vào để làm mới nguồn nước. Thức ăn cho cá cũng rất quan trọng đến việc ổn định nguồn nước. Đảm bảo thức ăn cho cá có tỉ lệ đạm từ 15% trở lên và bổ sung một số acid amin thiết yếu để cân đối dinh dưỡng, đồng thời giúp cá ăn ngon miệng và tiêu hoá thức ăn tốt hơn”.

Còn nuôi cá bè, mỗi lần xử lý nước phải dùng nylon bọc toàn bộ bè cá, rồi mới cho thuốc vào. Cá bè thuộc vào hàng “nắng không ưa, mưa không chịu” nước đầu nguồn có chút thay đổi là cá bỏ ăn, trái gió trở trời là “rộ bè” cá chết hàng loạt mà không có cách nào ngăn chặn. Về phía nhà chế biến cá phi lê xuất khẩu, thì bao giờ cá nuôi đăng quầng và cá ao hầm cũng là chọn lựa số một của doanh nghiệp.

Trao đổi với chúng tôi, ông Trần Văn Quang, Giám đốc Công ty Công nghiệp Thuỷ sản miền Nam (Cần Thơ) phân tích: "Trước đây khi ngư dân chưa có kỹ thuật nuôi được cá thịt trắng trong đăng quầng thì cá bè là số một cả về ưu tiên lẫn giá cả. Còn bây giờ, cá ao hầm đã có được thịt trắng, mà lại dè dặt; trong khi đó, cá bè lại nhiều mỡ, phải mất hơn 3kg nguyên liệu mới chế biến được 1kg phi lê, trong khi đó tỉ lệ này đối với cá đăng quầng bình quân là 2,7kg, vì vậy có sự chênh lệch giá mua là điều tất nhiên".

Và khi cá bè không còn được ưa chuộng, nhiều chủ bè cá đã bỏ không mặc cho bè chìm xuống đáy sông. Có người kêu bán xác bè cho dân lấy gỗ. Nhiều hộ nuôi đã lâm vào cảnh nợ nần phá sản. Nhiều người vì nhớ nghề đã thả nuôi cá tạp để “chờ thời” nhưng thời cơ đâu hông thấy, chỉ thấy nhà nhà nuôi cá điêu hồng, người người nuôi cá he đỏ, bán tại chổ không hết. Một lần nữa người nuôi dẫm lên chân nhau “kéo làng bè cùng chết chìm”. Qua rồi cái thời vàng son, từ hai ba năm nay, làng bè đang chết trong cảnh “không kèn không trống”

Nhiều người nuôi cá cho rằng, nghề nuôi cá bè đã kết thúc sứ mệnh lịch sử sau gần nửa thế kỷ tồn tại. Theo quy luật kinh tế, mô hình nào cho số lượng nhiều hơn, giá thành hạ hơn, và ít rủi ro hơn thì sẽ được chọn lựa. Bởi vậy, nghề nuôi cá bè buộc phải “nhường ngôi” cho nghề nuôi cá ao hầm và nuôi cá đăng quầng ven theo các bãi bồi ven sông Tiền và sông Hậu.

Đua nhau đào ao, đăng quầng nuôi cá

Ông T, nguyên là cán bộ ngành nông nghiệp ở Đồng Tháp, có một héc ta vườn sầu riêng đang cho trái ở ven sông Hậu. Ông cho biết mỗi năm vườn sầu riêng này mang về cho gia đình ông không dưới trăm triệu. Nhưng theo ông, thu nhập như vậy là lượm bạc cắc so với nuôi cá tra. Bởi một ha đất ven sông, nuôi một vụ cá ít gì cũng lãi ròng không dưới 500 triệu. Và ông đã cho phá vườn cây đang cho trái đào ao thả cá.

Dọc theo các cù lao ven sông Tiền, sông Hậu như Cồn Bình Thạnh, Cồn Đông Giang, khu vực bãi bồi xã Bình Thành – Thanh Bình – Đồng Tháp người ta đua nhau mua đất, đào ao, đăng quầng thả cá. Chưa lúc nào cơn sốt đất bãi bồi lại tăng cao như hiện nay.

Trong vai một người đi tìm mua đất bãi bồi, chúng tôi tìm đến vùng cù lao An Hiệp (huyện Châu Thành, Đồng Tháp). Một không khí đào xới diễn ra rất khẩn trương ở đây, những vườn nhãn đang cho trái oằn sai bị đốn học, móc gốc nhường chỗ cho những ao cá mới hình thành. Khi chúng tôi hỏi tìm mua đất. Ông Muôn, một nông dân địa phương cho hay. Bây giờ đất bãi bồi ở đây không còn đâu, người nuôi cá từ Tiền Giang, Vĩnh Long sang lùng mua tối ngày. Cách đây vài tháng, một công đất bãi bồi cao lắm chỉ khoảng 30 triệu, giờ người ta kêu giá gấp đôi nhưng cũng không còn để bán.

Tại Đồng Tháp, cơn sốt đất nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ chưa từng có từ trước đến nay. Người dân trong và ngoài tỉnh đổ xô tìm mua đất bãi bồi ven sông Tiền, sông Hậu đất ruộng lúa dọc theo kênh rạch làm cho giá đất tăng gần gấp đôi so với bình thường. Theo giá thị trường, đất có vị trí đẹp, gần nguồn nước sạch được bán với giá không dưới 40 - 60 triệu đồng một công. Theo báo cáo của thanh tra Sở Tài nguyên Môi trường Đồng Tháp, trong 3 tháng đầu năm 2007, trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đã có trên 300 ha đất nông nghiệp được chuyển đổi trái phép thành ao nuôi cá. Phong trào phá vườn cây, đào ruộng lúa để nuôi cá vẫn diễn ra ồ ạt tại nhiều huyện thị. Điều này làm đau đầu các nhà quản lý vì theo dự đoán nguồn cá nguyên liệu ở Đồng Tháp sẽ vượt cầu khoảng 50.000 tấn vào cuối năm nay.

H.Nguyễn


An Giang: Cần điều chỉnh hợp lý vùng nuôi và chất lượng để con cá bơi xa

Nguồn tin: AG, 1/6/2007
Ngày cập nhật: 2/6/2007

Vài năm trở lại đây, giá cá tra, ba sa cứ liên tục tăng lên và kéo theo đó lượng người nuôi, quan tâm tới nó cũng tăng lên theo tỷ lệ thuận. Đây là điều đáng mừng nhưng theo các nhà hoạch định nó sẽ tạo ra điều kiện bất lợi cho những người trong cuộc nhất là trong thời điểm bước đầu nước ta gia nhập nền kinh tế toàn cầu. Điều đó có nghĩa nếu không có chính sách phát triển phù hợp, trong đó vừa bảo đảm nhu cầu cung ứng thị trường đa dạng vừa đáp ứng nhu cầu tiêu chuẩn về chất lượng là một trong những đòi hỏi hàng đầu mang tính cạnh tranh khốc liệt thì nguy cơ thua thiệt, thậm chí là thất bại ngay trên sân nhà với mặt hàng nước ta đang có lợi thế là điều khó tránh khỏi.

Năm 2007 dự kiến tỉnh ta sẽ có khoảng 2.800 ha nuôi các loại thủy sản, trong đó có khoảng 1.300 ha nuôi cá tra. Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản tỉnh An Giang cho biết, năm 2004 An Giang cung cấp khoảng 50-60% nguyên liệu về con cá tra toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng nay số này giảm xuống chỉ còn từ 20-25%. Hiện hàng năm An Giang cung cấp vào khoảng 180.000-200.000 tấn nguyên liệu cá tra cho các nhà máy, chủ yếu là trong tỉnh. Đó là chưa kể một số bà con ở một số tỉnh lân cận cũng đem cá sang bán nên gây ra tình trạng thừa nguyên liệu cục bộ. Đầu năm 2007 giá con cá tra tụt giảm và hiện nay đang dao động ở mức 14.200-15.000 đồng/kg. Theo những người trong cuộc, với giá cá như trên người sản xuất vẫn có lãi ở mức chấp nhận được. Trong đó, với những người chăn nuôi có kỹ thuật cao, có kinh nghiệm trong sản xuất và hoạt động thương trường thì đây là mức giá vẫn còn lý tưởng cho người sản xuất. Thế là từ thắng lợi về giá cá năm 2006 và giá cá dao động ở mức chấp nhận được ở đầu năm 2007 số người đào ao nuôi cá có kế hoạch và tự phát cứ mọc lên ồ ạt bất chấp thị trường tiêu thụ cũng như những đòi hỏi nghiêm ngặt về tiêu chuẩn, chất lượng.

Trước tình hình trên, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 894 cấm đào ao nuôi cá không nằm trong vùng quy hoạch, thế nhưng tình hình vẫn không được thực hiện nghiêm túc. Cụ thể, đến tháng 3-2007 số diện tích đào ao nuôi cá phát sinh nằm ngoài vùng quy hoạch gần 153 ha, nhiều nhất là Thoại Sơn, Phú Tân, Châu Phú. Sở dĩ có tình trạng này, theo nhận định của Sở Thủy sản An Giang, do một số cán bộ Tài nguyên và Môi trường cấp xã còn để xảy ra tình trạng cho chuyển mục đích sử dụng đất sang đào ao nuôi cá ngay cả khi đất đó nằm ngoài vùng quy hoạch phát triển thủy sản của địa phương, nếu không kịp thời chấn chỉnh sẽ xảy ra những hệ lụy đến mức phải xử lý theo quy định. Thêm vào đó hiện nay đa phần các hộ nuôi cá chưa thực hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường, như xử lý nước và chất thải theo quy định, không bảo đảm điều kiện vệ sinh thú y trong nuôi trồng thủy sản, chưa thực hiện việc đăng ký kinh doanh theo luật định…

Hiện nay, theo Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản thì 12 nhà máy chế biến thủy sản trong tỉnh mỗi ngày tiêu thụ đến trên dưới 1.000 tấn nguyên liệu, đó là chưa kể một số nhà máy vì một số lý do vẫn chưa sử dụng hết công suất vốn có. Điều đó cho thấy nguyên liệu phục vụ cho chế biến vẫn chưa dư thừa nhưng không vì thế mà người sản xuất không tập trung chú ý đến nhu cầu tiêu thụ, đặc biệt là tiêu chuẩn về chất lượng, vệ sinh môi trường… để bảo đảm đầu ra của sản phẩm. Hiện nay, đa số các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản đã hoàn tất hợp đồng đã ký trước đó nên áp lực mua đang giảm dần. Mặt khác, thị trường tiêu thụ thủy sản đang gặp khó khăn khi Nga ngừng nhập khẩu cá ở Việt Nam (quý 1-2007 xuất sang Nga gần 1.000 tấn) do vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm. Điều này cũng có nghĩa nếu người sản xuất và các nhà máy chế biến không có sự điều chỉnh hợp lý thì nguyên liệu sản xuất ra sẽ bị dư thừa và giá sẽ bị rớt tới mức lao đao cho người sản xuất.

Do đó trong khi chờ Nhà nước hoàn chỉnh mọi mặt về quy hoạch phát triển ngành Thủy sản theo hướng khoa học và chiến lược thì ngoài việc tuân thủ những quy định đã được ban hành, người sản xuất với người chế biến sản phẩm phải có những quy định và có sự điều chỉnh phù hợp để bảo vệ quyền lợi chính mình.

N.R


Kiên Giang: Cá lồng bè trên biển chết hàng loạt

Nguồn tin: BCT, 31/5/2007
Ngày cập nhật: 1/6/2007

Thông tin từ UBND xã đảo Hòn Nghệ (huyện Kiên Lương, Kiên Giang) chiều 30-5 cho biết: Hiện tượng cá nuôi lồng bè trên biển chết hàng loạt ở xã đảo này đang gây nhiều lo ngại cho người nuôi. Những loại cá có giá trị kinh tế cao từ 70.000-240.000 đồng/kg như cá bốp, mú đen và mú sao bị chết nhiều nhất. Theo thống kê sơ bộ, đã có 4.300 con cá bốp, 1.860 con cá mú đen, 1.400 con cá mú sao chết, ước tính thiệt hại khoảng trên nửa tỉ đồng. Đa số cá chết ở giai đoạn 3-4 tháng tuổi đến thu hoạch. Hộ bị thiệt hại nhiều nhất khoảng 40 triệu đồng, ít nhất là 5 triệu đồng. Theo những hộ nuôi cá nhận định ban đầu, có khả năng do người nuôi thu mua con giống trôi nổi, không đảm bảo chất lượng hoặc do một dịch bệnh nào đó...

THÀNH NGUYỄN


Tiền Giang: Khuyến khích phát triển hợp tác xã thủy sản

Nguồn tin: BCT, 31/5/2007
Ngày cập nhật: 1/6/2007

UBND tỉnh Tiền Giang vừa ban hành Quyết định số 21/2007/QĐ-UBND qui định “Về chính sách khuyến khích phát triển HTX thủy sản trên địa bàn tỉnh Tiền Giang”. Theo quyết định này, tỉnh sẽ có các chính sách ưu đãi các HTX hoạt động trong ngành thủy sản như: khai thác, nuôi trồng thủy sản, sản xuất giống, dịch vụ hậu cần nghề cá. Đó là: được giảm miễn tiền sử dụng đất, thuê đất và được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất để HTX xây dựng trụ sở, nhà kho, cơ sở dịch vụ. HTX thủy sản được hưởng thuế suất ưu đãi từ 10-20% trong thời gian 10-15 năm kể từ khi dự án đầu tư thực hiện và kể từ khi có thu nhập chịu thuế sẽ được miễn 2-4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp từ 6-9 năm tiếp theo; được hỗ trợ 50% kinh phí xúc tiến thương mại; được vay vốn trung, dài hạn của Quỹ phát triển khoa học công nghệ của tỉnh để đầu tư cho các dự án ứng dụng công nghệ mới, nâng cao trình độ công nghệ. HTX thành viên của Liên minh HTX tỉnh Tiền Giang được vay vốn hỗ trợ phát triển HTX...

Liên minh HTX tỉnh Tiền Giang là cơ quan đầu mối tiếp nhận, giải quyết hồ sơ đề nghị hỗ trợ, ưu đãi khuyến khích phát triển HTX thủy sản.

HẢI ĐĂNG


Trà Vinh: Sản xuất thành công giống cá tra nhân tạo

Nguồn tin: BCT, 31/5/2007
Ngày cập nhật: 1/6/2007

Trung tâm Giống Thủy sản (Sở Thủy sản tỉnh Trà Vinh) vừa sản xuất thành công giống cá tra nhân tạo. Qui trình sản xuất được thực hiện là: tuyển chọn mua cá bố mẹ có trọng lượng từ 2,5-6 kg/con có nguồn gốc từ giống cá tại địa phương và các tỉnh Đồng Tháp, An Giang... về nuôi vỗ thành thục; sử dụng kích dục tố Human Chonionic Gonodopropin (HCG) tiêm cho cá đực và cá cái để kích thích sinh sản. Sau thời gian tiêm từ 46-48 giờ, tiến hành vuốt trứng cá cái, cùng lúc sử dụng tinh dịch của cá đực để thụ tinh nhân tạo; tỷ lệ nở khá cao từ 70-80%. Sau đó, cá bột được chăm sóc đến giai đoạn cá hương (cỡ 3-5 cm), tỷ lệ cá sống đạt từ 15-20%.

Trung tâm Giống Thủy sản đã sản xuất thành công 3 đợt cá giống, với trên 3,7 triệu con cá tra để cung cấp giống cho người nuôi trong tỉnh. Hiện trung tâm đã nhập về trên 1.000 kg cá tra bố mẹ để nuôi vỗ phục vụ sản xuất giống.

Q.D


Trà Vinh: Quy hoạch 4.073 ha mặt nước chuyên nuôi cá da trơn

Nguồn tin: Vasep, 10/6/2007
Ngày cập nhật: 12/6/2007

Tỉnh Trà Vinh đã quy hoạch diện tích 4.073 ha mặt nước tại huyện Càng Long chuyên nuôi cá da trơn trong kế hoạch đầu tư từ nay đến năm 2010. Trong đó, 545 ha mặt nước được đầu tư để nuôi theo hình thức tập trung, quy mô công nghiệp. Gần 1.700 ha mặt nước tự nhiên được giao cho hộ gia đình, có sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật, để phát triển loại cá da trơn đủ tiêu chuẩn chế biến xuất khẩu.


Bến Tre: Diện tích nuôi thủy sản đạt 3900 ha

Nguồn tin: Bến Tre, 08/6/2007
Ngày cập nhật: 12/6/2007

Tổng diện tích nuôi tôm sú thâm canh và bán thâm canh của Bến Tre đến thời điểm hiện nay là 3.900 ha, đạt 71% kế hoạch.

Trong tháng 5, lượng tôm sú giống nhập qua kiểm dịch đạt 150 triệu post, lượng giống tôm sú sản xuất trong tỉnh đạt 30 triệu post, tăng 8% so với cùng kỳ, cơ bản đáp ứng nhu cầu về giống cho người nuôi. Mầm bệnh đốm trằng ngoài môi trường giảm đáng kể. Tuy nhiên, qua khảo sát đã thấy xuất hiện bệnh đốm trắng tại những vùng nuôi tôm sú tập trung trên địa bàn huyện Bình Đại với tổng diện tích thiệt hại là 43 hecta. Hoạt động khai thác thủy sản trong tháng 5 tương đối ổn định, sản lượng khai thác đạt 6.800 tấn, tàu đánh bắt xa bờ hiện có 900 chiếc. Hiện tượng nghêu chết có xu hướng giảm nhưng ngành Thủy Sản vẫn tiếp tục phối hợp cùng các ngành liên quan tăng cường công tác quan trắc, theo dõi diễn biến môi trường, dịch bệnh để có biện pháp xử lý thích hợp.


Bến Tre: Giá nghêu tăng trở lại sau sự cố dầu tràn

Nguồn tin: Bến Tre, 08/6/2007
Ngày cập nhật: 12/6/2007

Ông Nguyễn Quốc Dũng, chủ nhiệm Hợp tác xã thủy sản Rạng Đông (xã Thới Thuận, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre) cho biết, sau đợt dầu loang, dầu vón cục gây thiệt hại nghêm trọng về sản lượng lẫn giá cả, tình hình nghêu hiện nay đã khả quan hơn và giá nghêu cũng đã tăng trở lại. Nghêu được HTX thu hoạch đấu giá bán cho các công ty vào con nước ngày 28 và 29-5-2007 vừa qua đã tăng lên 11.000 – 12.000 đồng/kg, tăng gấp đôi so với thời điểm tháng 4-2007 (5.000đ-6.000đ/kg). Giá nghêu tăng trở lại là do bãi nghêu của HTX Rạng Đông hiện nay không còn ảnh hưởng của dầu loang, dầu vón cục, nghêu thu hoạch theo con nước chứ không thu hoạch bán ào ạt như thời điểm bị ảnh hưởng dầu tràn, không còn bị ép giá. Theo dự báo, tới đây giá nghêu sẽ tiếp tục tăng vì sản lượng nghêu của HTX Rạng Đông hiện nay chưa hồi phục kịp sau khi trên 2.000 tấn nghêu của HTX bị chết vì ảnh hưởng đợt dầu tràn vừa qua.


Giá cá tra ở ĐBSCL đang sụt thê thảm

Nguồn tin: SGGP, 12/06/2007
Ngày cập nhật: 12/6/2007

Chiều 11-6, ông Phan Văn Danh, Chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang thông tin nhanh với phóng viên Báo SGGP: giá cá tra ở ĐBSCL đang sụt thê thảm. Hiện tại, cá loại 1 chỉ còn 13.000-13.500đ/kg; cá loại 2 từ 12.000-12.500đ/kg… bình quân giảm 3.000-4.500đ/kg so với 3 tháng trước.

Theo các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, nguyên nhân cá giảm mạnh là do ảnh hưởng thị trường xuất khẩu ở Nga, Ba Lan, Canada… gặp khó khăn. Điều đáng lo ngại là gần đây nhiều lô hàng cá philê xuất sang châu Âu bị “trả lại” vì “độn nước” quá nhiều, có lô chiếm đến 30%-50% nước (!?).

Ngoài ra, có một số doanh nghiệp tự ý chào bán giá thấp chỉ 2,7-3USD/kg phi lê, thấp hơn giá thành sản xuất. Không loại trừ đây là những doanh nghiệp xuất hàng kém chất lượng ảnh hưởng uy tín cá tra của Việt Nam.

H.P.L


Nuôi và xuất khẩu cá tra, ba sa: Chưa bền vững

Nguồn tin: SGGP, 12/06/2007
Ngày cập nhật: 12/6/2007

Ngày 11-6, tại Hội nghị toàn thể Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP), tổ chức ở TPHCM. Nhiều vấn đề nóng đặt ra tại đây, trong đó, việc nuôi, chế biến, xuất khẩu cá tra, ba sa được đặc biệt quan tâm.

Thứ 3 thế giới về nuôi trồng thủy sản nước ngọt

Ông Ngô Phước Hậu, Phó Chủ tịch VASEP cho biết, Việt Nam trở thành nước thứ 3 thế giới về sản lượng nuôi cá nước ngọt, sau cá hồi và cá rô phi (đánh giá của hội nghị về nuôi trồng thủy sản toàn cầu). Điều này làm nhiều nước khâm phục.

Cá tra trở thành hiện tượng thế giới khi tốc độ phát triển những năm qua của loại cá này lên đến 2 con số. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu cá tra, ba sa tăng đều ở các thị trường và đã hiện diện ở 65 nước (năm 2002 chỉ 17 nước).

Với tốc độ phát triển nhanh như hiện nay, sản lượng nuôi của cá tra và ba sa sẽ đạt 1 triệu tấn vào cuối năm 2007 (năm 2006 là 750.000 tấn) và kim ngạch xuất khẩu riêng mặt này sẽ đạt khoảng 1 tỷ USD (năm 2006 là 661 triệu USD, năm 2005 là 328 triệu USD).

Thị trường cũng đã có sự chuyển dịch đáng kể: năm 2006, EU vượt lên chiếm thị phần lớn nhất với 46% (tăng 136% về lượng và 158% về giá trị so với năm 2005), Nga chiếm 11,2% (thị trường bùng nổ nhất trong năm khi tăng 15 lần về lượng và 16 lần về giá trị), ASEAN 8,7% (tăng 30,7% về lượng và 54% về giá trị), Mỹ chỉ còn 9,8% (trước vụ kiện là thị trường lớn nhất của cá tra, ba sa VN), nhưng cũng tăng 57,6% về lượng và gần 100% về giá trị.

Bình quân năm 2005, mỗi tháng, lượng cá tra, ba sa xuất khẩu trị giá chưa tới 30 triệu USD, năm 2006 lên 60 triệu USD. Nhưng sự tăng trưởng này đang đối mặt một loạt vấn đề.

Báo động chất lượng phi lê cá tra xuất khẩu

Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký VASEP, cho rằng, nếu sản lượng tăng nhanh quá so với độ mở thị trường hay ngược lại thì đó không phải là phát triển bền vững. Năm 2006 thể hiện rõ sự không bền vững của sản xuất, chế biến cá tra, ba sa khi xảy ra khủng hoảng thừa, rồi lại thiếu và lập lại. Đồng thời, cần xem lại tác động của sự phát triển quá nhanh này đối với môi trường.

Trước đó, Bộ trưởng Bộ Thủy sản (TS) Tạ Quang Ngọc nhấn mạnh, ngành TS đối mặt trước các thách thức mới lớn hơn. Vấn đề an toàn vệ sinh, dư lượng kháng sinh, tồn dư hóa chất và các loại nhiễm khuẩn khác. Thách thức thứ hai là sức ép vấn đề an toàn môi trường, khi mở rộng diện tích nuôi trồng và khai thác ở những khu vực nhạy cảm về sinh thái.

Nhiều lần, vấn đề chất lượng phi lê cá đã được báo động: lượng protein trong cá giảm, trong khi hàm lượng nước tăng lên do kiểu làm ăn gian dối của một số nhà sản xuất, chế biến. VASEP kiến nghị Nhà nước nhanh chóng có quy định, doanh nghiệp thành lập nhà máy mới phải xây dựng vùng cung ứng nguyên liệu. Ban hành quy chế và kiểm soát nghiêm việc thực hiện các tiêu chuẩn về môi trường vùng nuôi và xử phạt nặng các nhà máy gây ô nhiễm nguồn nước. Mở rộng chương trình giống quốc gia, phát triển giống chất lượng cao, giám sát chất lượng nguồn nước, kiểm soát và cảnh báo ô nhiễm, dịch bệnh, công bố vùng thủy vực đủ điều kiện an toàn môi trường…

CÔNG PHIÊN


ĐBSCL: Giá cá tra giảm mạnh.

Nguồn tin: KTVN, 11/06/2007
Ngày cập nhật: 11/6/2007

Theo Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thuỷ sản tỉnh An Giang (AFA), trong suốt 2 tuần qua giá cá tra, ba sa nguyên liệu ở khu vực ĐBSCL giảm từ 100 - 200 đồng/kg.

Giá thu mua cá tra nguyên liệu do các nhà máy chế biến báo về AFA, cá tra thịt vàng được các nhà máy chế biến mua vào với giá 13.400 đồng/kg, trong khi đó cá tra thịt trắng loại I dao động từ 14.300 - 14.500 đồng/kg.

Năm 2006, sản lượng cá tra nguyên liệu của tỉnh An Giang đạt khoảng 200 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu 250 triệu USD. Theo kế hoạch trong năm 2007, sản lượng cá tra sẽ tăng lên 250 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu 300 triệu USD. Đến 2010, theo kế hoạch tỉnh An Giang sẽ tăng sản lượng cá tra lên 300 ngàn tấn và kim ngạch xuất khẩu là 350 triệu USD.

Tuy nhiên, sự tăng trưởng quá nóng của nghề nuôi cá da trơn ở ĐBSCL trong thời gian qua diễn ra khá tự phát, kèm theo nhiều rủi ro, ngày càng bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu tăng trưởng nhanh về kinh tế của các địa phương, nguyện vọng làm giàu chính đáng của ngư dân và một bên là nguy cơ suy thoái môi trường.

Cách đây vài tháng khi mà giá cá tra nguyên liệu thịt trắng loại I đạt điểm đỉnh: 17.000 - 17.500đồng/kg, phong trào đào ao nuôi cá tra phát triển như nấm mùa mưa, nhiều hộ chăn nuôi củ mở rộng diện tích và kích thích người nuôi mới nhập cuộc, các vạt đất ở dọc hai bên dòng sông Tiền, sông Hậu và các vùng đất lan bồi trở thành những địa chỉ săn lùng của các đại gia khắp nơi đổ về tìm mua đất để đào ao nuôi cá tra, làm cho giá đất ở một số nơi thuộc các huyện đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu tăng "nóng" lên, vượt quá giá thật từ 3 - 4 lần, tình trạng tăng nóng diện tích nuôi cá làm cho môi trường nước vốn đã ô nhiễm nay lại càng thêm ô nhiễm, vì sức chứa của dòng Cửu Long là có giới hạn. Có lẽ từ trước tới nay chưa có ngành nghề nào lại làm giàu nhanh chóng mà cũng trở nên nghèo mau như nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL.

Ông Nguyễn Văn Thạnh - Giám đốc Sở Thuỷ sản -tỉnh An Giang nói: "Theo tôi, thị trường có luật cung, cầu, giá cả cũng phải có dao động lên xuống, mức giá lên xuống bao nhiêu thì do thị trường quyết định. Nhưng riêng cá tra thì giá này có thể giữ cho đến hết quý I có kéo dài chăng là hết quý II rồi giá cá cũng phải ổn định lại".Nếu giá cá tra nguyên liệu trên thị trường vẫn cứ giảm theo cái đà này thì viễn cảnh một mùa cá thua lỗ lại hiện ra trước mắt ngư dân ĐBSCL.

Giá cá tra nguyên liệu sụt giảm thì những ngư dân nuôi cá với quy mô nhỏ lẻ, vốn yếu sẽ gặp khó khăn trước nhất, bởi những hộ nuôi này không có điều kiện bơm nước thay hàng ngày, nhất là trong điều kiện nắng nóng như hiện nay để cho cá có chất lượng thịt trắng đẹp theo yêu cầu của nhà máy chế biến. Và do không có tài sản thế chấp ngân hàng họ sẵn sàng vay nóng bên ngoài. Chính vấn đề này đã gây hậu quả lớn: giá cá sụt giảm như thời gian qua đã khiến người cho vay hạn chế đầu tư, thậm chí đang manh nha thu hồi vốn. Cá đang sức ăn sức lớn, nếu ngưng cho ăn cá sẽ ốm đói. Chuyện thua lỗ của người nuôi là tất yếu!

Do giá cá tra thương phẩm giảm đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, ương nuôi và giá cá tra giống. Tại các vùng nuôi trong tỉnh An Giang kể từ ngày 1/6/2007 tới nay giá cá giống đã giảm cụ thể như sau: cá giống loại 1 cm giá 160 - 180đồng/con; loại 1,2 cm giá 220 - 230 đồng/con; loại 1,5 cm giá 3230 - 330 đồng/con; loại 2,5 cm giá 900 - 950 đồng/con và loại cá 3 cm giá 1.500 - 1.600 đồng/con.

Với mức giá trên cộng với chi phí thức ăn và các chi phí khác tăng cao hơn 10% so với hồi đầu năm nên đa số hộ nuôi ương cá tra giống hầu như không có lãi, cộng với tác động giá cá thương phẩm trên thị trường hiện đang giảm liên tục trong thời gian gần đây. Nếu như tình hình giá cá trên thị trường vẫn tiếp tục sụt giảm, thì trong thời gian tới 30% hộ làm nghề nuôi cá tra xuất khẩu tham gia ương cá giống trong tỉnh An Giang sẽ thu hẹp sản xuất.

Đã có nhiều chủ bè vì muốn tiếp tục theo đuổi nghề nuôi cá phải vay mượn vốn thuê mướn đất với giá đắt đỏ để đào ao nuôi cá. Nhưng giờ đây đa số chủ bè lại một lần nữa đứng trước bờ vực một mùa cá thua lỗ.

Từ nhiều năm nay, nhiều tỉnh ở khu vực ĐBSCL luôn kiên trì hướng đến sản xuất thuỷ sản sạch để ổn định thị trường xuất khẩu, tạo nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho nông dân, nhưng do cơn sốt giá cá tra nguyên liệu trước đây đã có nhiều người sẵn sàng phá vỡ quy hoạch chung của tỉnh cũng như cảnh báo của các ngành chức năng, mà đổ xô đào ao nuôi cá.

Và dự báo một mùa cá cung vượt cầu đang hiện ra trước mắt. Xem ra ý tưởng tốt đẹp này khó lòng thực hiện do giá cá tra nguyên liệu trên thị trường ngày càng sụt giảm...

Khôi Nguyên


Đến 2010: ĐBSCL sẽ sản xuất 35 tỷ tôm sú giống

Nguồn tin: SGGP, 10/06/2007
Ngày cập nhật: 11/6/2007

Tin từ Bộ Thủy sản, theo quy hoạch hệ thống sản xuất giống thủy sản, đến 2010, ĐBSCL sẽ sản xuất khoảng 35 tỷ con tôm sú giống; 3,5 tỷ con tôm càng xanh giống; hơn 2,7 tỷ con giống cá tra, basa và gần 500 triệu con giống cá rô phi đơn tính đực.

Để thực hiện mục tiêu trên, ngành đã xây dựng Trung tâm Giống thủy sản nước ngọt miền Nam tại tỉnh Tiền Giang; 3 Trung tâm Giống thủy sản cấp I tại Cà Mau, Kiên Giang và Bạc Liêu; 3 Trung tâm giống thủy sản nước ngọt cấp I tại Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp…

Ngoài ra, bộ cũng tiến hành nâng cấp, xây dựng Trung tâm giống thủy sản các tỉnh, bảo đảm đến năm 2010 sẽ tiếp nhận, nuôi dưỡng giống mới và chuyển giao công nghệ cho các cơ sở sản xuất giống thủy sản hàng hóa.

V.H.


Nông dân Mang Thít (Vĩnh Long) liên kết nuôi thủy sản

Nguồn tin: ND, 9/6/2007
Ngày cập nhật: 10/6/2007

Với vị trí địa lý nằm cặp bên dòng sông Cổ Chiên nước ngọt quanh năm, huyện Mang Thít (Vĩnh Long) có điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển nuôi thủy sản, nhất là các loại cá, tôm xuất khẩu. Trong những năm qua, người dân Mang Thít đang khai thác thế mạnh đó để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất hiện nay so với các loại cây trồng, vật nuôi khác.

Tiềm năng và hiệu quả

Tổng diện tích mặt nước đang khai thác trong toàn huyện là 2.950 ha; trong đó diện tích khai thác tự nhiên khoảng 2.620 ha, còn lại là hơn 329 ha diện tích ao, hồ, ruộng lúa. Với diện tích mặt nước đó, trong những năm qua, bà con nông dân huyện Mang Thít đã tận dụng nuôi cá tôm bán thâm canh, nuôi trong mương vườn, ruộng lúa nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình.

Ông Trương Tấn Ðược, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mang Thít cho biết, ba năm trở lại đây, phong trào đào ao nuôi cá tra xuất khẩu theo phương pháp thâm canh công nghiệp phát triển khá mạnh mẽ. Toàn huyện hiện có hơn 120 hộ nuôi với diện tích hơn 400 ha, trong đó chỉ riêng các tháng đầu năm 2007 đã tăng thêm 133 ha và dự kiến sẽ còn phát triển, mở rộng thêm gần 200 ha nữa trong năm 2007. Tổng sản lượng thủy sản khai thác được trong năm 2006 là 10.682 tấn, trong đó chỉ riêng phần cá nuôi chuyên canh trong ao đã lên đến 9.200 tấn.

Mặc dù ngành thủy sản mới phát triển, diện tích sản xuất không nhiều so với diện tích sản xuất các loại cây, con khác nhưng tổng giá trị sản xuất trong năm 2006 đã đạt hơn 76 tỷ đồng, tăng 17,2% so với năm 2005. Riêng quý I năm 2007, giá trị sản xuất thủy sản đã đạt 35 tỷ đồng, chiếm gần 20% so với tổng giá trị sản xuất chung của ngành nông nghiệp toàn huyện.

Với giá cá tra xuất khẩu luôn đứng ở mức cao trong thời gian gần đây thì lợi nhuận thu được từ nuôi thủy sản không có loại cây con nào so sánh được. Do đó, nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư đào ao, mở rộng diện tích với quy mô lớn để nuôi cá tra xuất khẩu. Diện tích mặt nước nuôi tập trung nhiều ở các xã ven sông Cổ Chiên, sông Mang Thít như Mỹ An, Mỹ Phước, An Phước, Chánh An, Tân Long, Tân An Hội, Tân Long Hội,...

Trong đó, xã Chánh An có diện tích nuôi nhiều nhất với hơn 160 ha. Ði dọc theo dòng Cổ Chiên mới thấy những thửa đất trước đây sản xuất lúa, trồng cây ăn trái không hiệu quả, ao hồ khai thác đất sét phục vụ ngành gốm, đất bãi bồi ven sông đã được đưa vào khai thác đem lại doanh thu và lợi nhuận cao hơn, biến Mang Thít thành một trong những vùng nuôi cá tra xuất khẩu nổi tiếng ở tỉnh Vĩnh Long.

Liên kết để làm ăn lớn

Ðiểm nổi bật trong phong trào nuôi thủy sản ở huyện Mang Thít là có sự liên kết rất cao. Tháng 4-2006, huyện Mang Thít đã tiến hành đại hội bầu ra ban chấp hành và đề ra điều lệ, chương trình, kế hoạch hoạt động, chính thức ra đời Hội Nghề cá huyện Mang Thít.

Ðây là hội nghề cá đầu tiên và duy nhất ở tỉnh Vĩnh Long tính đến thời điểm hiện nay. Ông Phạm Minh Tiến, Chủ tịch Hội Nghề cá huyện Mang Thít cho biết tất cả 124 hộ nuôi cá tra trên địa bàn huyện đều tham gia. Trong số đó, hơn 60% hộ có quá trình nuôi cá lâu dài đã trở nên khá giả, giàu có. Ngoài việc trao đổi, giúp đỡ nhau về mặt kỹ thuật, kinh nghiệm, Hội Nghề cá huyện Mang Thít đang thương lượng với các công ty chế biến, xuất khẩu thủy sản trong khu vực thực hiện việc đầu tư vốn, thức ăn nuôi cá và bao tiêu sản phẩm cho các hội viên. Hội Nghề cá cũng sẽ đề xuất, giúp hội viên trong việc tìm nguồn vay vốn để hội viên phát triển sản xuất.

Ðồng thời, hướng dẫn, tạo điều kiện để hội viên tiếp cận khoa học, kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm cũng như thực hiện đúng theo quy hoạch vùng nuôi, bảo đảm môi trường nuôi theo quy định của Nhà nước và đương nhiên là đầu mối để thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết với các doanh nghiệp. Như vậy, mối liên kết 4 nhà theo Quyết định 80 của Chính phủ, thông qua Hội Nghề cá sẽ được thực hiện tốt hơn. Mặt khác, Hội Nghề cá Mang Thít cũng đang tìm cách gây quỹ nhằm hỗ trợ hội viên khi gặp rủi ro, giúp họ vượt qua khó khăn để tiếp tục khôi phục, phát triển sản xuất.

Nhờ nuôi cá tra xuất khẩu mà nhiều hộ nông dân ở Mang Thít đã trở nên khá giả, giàu có. Ðường về các ấp Mỹ Long, Vàm Lịch, Tân An,... của xã Chánh An; Thuận Thới, Thanh Thủy, Phú Hòa,... của xã An Phước từng bước đã được bê-tông hóa, điện lưới quốc gia kéo giăng giăng. Nhiều người như ông Phạm Văn Tiến, ông Bảy Lý, Tám Tuôi,... đã trở thành tỷ phú nhờ trúng liền mấy vụ nuôi cá tra xuất khẩu.

Với lợi thế vùng nước cặp sông Cổ Chiên rất thuận lợi, đất đai, ao hồ, bãi bồi ven sông còn nhiều, cùng với thị trường tiêu thụ cá tra xuất khẩu, những năm gần đây ngày càng rộng mở thì diện tích khai thác để nuôi cá chắc chắn sẽ tăng hơn. Cho nên, huyện Mang Thít đang tiếp tục quy hoạch, tạo điều kiện, hỗ trợ tốt nhất để ngành nuôi trồng thủy sản nói chung, nghề nuôi cá xuất khẩu phát triển mạnh hơn nữa nhằm tăng nhanh giá trị sản xuất nông nghiệp, góp phần thực hiện thắng lợi định hướng chuyển dịch kinh tế, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân.

Cần phát triển bền vững

Tuy nhiên, cũng như nhiều nơi khác, nghề nuôi cá ở huyện Mang Thít đã xuất hiện tình trạng mở rộng diện tích, phát triển mới ao nuôi cá tra xuất khẩu, có nguy cơ phá vỡ quy hoạch. Nhiều nơi, bà con nông dân đã tự phát đào ao nuôi cá trong khi điều kiện nguồn nước, hệ thống thủy lợi chưa bảo đảm. Tình trạng đó dễ dẫn đến nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, tác động xấu đến môi trường sinh họat, sản xuất của nhiều người khác và ảnh hưởng trực tiếp đến ao nuôi, dễ xảy ra dịch bệnh cho cá, gây thiệt hại khó lường. Do đó, các ngành chức năng ở huyện Mang Thít nói riêng, các địa phương có nghề nuôi cá tra xuất khẩu cần hướng dẫn, tuyên truyền để nhân dân thực hiện đúng theo quy hoạch, tránh phát triển tràn lan, khó kiểm soát. Ðồng thời nghiên cứu kỹ thị trường, liên kết chặt chẽ với nhà khoa học, chuyển giao nhanh các tiến bộ khoa học, kỹ thuật nhằm bảo đảm chất lượng, quy định an toàn vệ sinh thực phẩm đối với cá tra xuất khẩu, liên hệ với các doanh nghiệp nhằm ổn định khâu tiêu thụ, bảo đảm cho nghề nuôi cá phát triển bền vững.

Nguyễn San


Săn tôm hùm giữa biển đêm

Nguồn tin: NLĐ, 8/6/2007
Ngày cập nhật: 9/6/2007

Nửa đêm, tôi theo 8 người con trai của ông Mười, gia đình có nhiều người làm nghề bắt tôm hùm nhất ở thôn Dư Khánh, thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, ra biển. Thằng cu Tí, nhà kế bên, mới hơn 10 tuổi cũng lò dò đi theo phụ ghe. Biển Ninh Chữ trong đêm như mênh mông hơn, ánh đèn của những chiếc ghe ngoài khơi lập lòe như đom đóm. Tháng 5, dù đã qua mùa bắt tôm hùm giống nhưng nhiều ngư dân ở đây vẫn còn lặn biển “mót” tôm kiếm sống.

Chỉ thở bằng miệng

Đám con trai của ông Mười lên hai chiếc ghe, nhằm hướng biển Đông thẳng tiến. Chừng hơn 1 giờ, ghe chúng tôi dừng lại ở một khu vực có nhiều ghềnh đá. Tuân, con trai cả của ông Mười, nhanh chóng mặc đồ lặn. Mọi người giúp anh nịt chiếc thắt lưng bằng chì bề ngang rộng cả gang tay, ước chừng nặng đến 30 kg vào bụng. “Không có chiếc thắt lưng này lặn một lúc sẽ bị nổi lên ngay”- Tuân giải thích. Nói rồi, Tuân đeo mặt nạ, ngậm ống thở, dắt chiếc túi lưới để đựng cá vào hông, cầm đèn pin đu mình theo dây thừng bên mạn ghe xuống nước. Ánh sáng của chiếc đèn pin mờ dần và cùng Tuân biến mất trong biển đêm. Tôi rùng mình khi nghe những con sóng vỗ vào ghềnh đá ầm ào. Thoáng một cái, cuộn dây tiếp khí ôxy dài vài trăm mét cho Tuân thở chỉ còn lại một đoạn ngắn. “Anh ấy đã lặn cách xa ghe rồi...”. Tú, em kế Tuân - nói rồi hỏi tôi: “Khu vực này chỉ sâu 3-4 m thôi, anh có muốn lặn theo em không?”. Tôi gật đầu dù trống ngực đã đập thình thịch. Khi tôi mặc đồ lặn xong, Tú đưa cho tôi mặt nạ và chiếc ống thở ôxy bảo ngậm vào miệng và dặn, khi xuống nước chỉ được thở bằng miệng, nếu thở bằng mũi nước sẽ chui vào mặt nạ ngay. Lúc này trông tôi cũng giống như một người thợ lặn thực thụ, chỉ khác không được đeo dây nịt bằng chì. Tú bảo, do tôi chưa quen lặn biển, đeo dây nịt nặng lúc trồi lên mặt nước sẽ rất khó.

Ánh sáng của chiếc đèn pin mờ dần rồi biến mất cùng Tuân trong biển đêm. Tôi rùng mình khi nghe những con sóng vỗ vào ghềnh đá ầm ào...

Lần đầu tiên lặn biển đêm, tôi thấy vừa phập phồng vừa thích thú khi Tú cầm tay tôi kéo xuống nước. Song cảm giác thích thú khi nhìn thấy mấy con cá nhỏ bơi trong làn nước trong rạn san hô như tan biến ngay khi tôi nhận ra mặt kính của chiếc mặt nạ đang mờ dần khiến nhìn không rõ. Giật mình, thì ra nãy giờ tôi thở bằng miệng lẫn bằng mũi nên hơi nước đã đọng đầy mặt kính. Phát hoảng, tôi trồi ngay lên mặt nước, vừa lột mặt nạ ra đã bị nước biển ộc vào miệng mặn chát. Tú lập tức đẩy tôi về phía mạn ghe. Cởi bộ đồ lặn ra khỏi người, tôi run cầm cập do nước biển thấm vào người lẫn cảm giác sợ hãi khi vừa thoát khỏi biển đêm.

“Dân ở đây nghèo lắm, bọn con trai chỉ học hết cấp một là ở nhà đi biển hết ráo. Thằng Út của tôi cũng đi biển nhưng tôi chưa cho lặn vì nghề này nguy hiểm lắm, phải từ 18 tuổi trở lên mới chịu nổi”- ông Mười nói.

Con tôm bé xíu giá 200.000 đồng

Gần hai giờ trôi qua, chẳng thấy Tuân và Tú ngoi lên mặt nước, tôi hỏi ông Mười liệu họ có bị gì không. Ông bình thản đáp: Tụi nó sắp lên rồi, không sao đâu. Ông Mười dứt lời, mặt nước phía trước ghe nổi lên đám sáng và di chuyển về phía ghe. Chúng tôi kéo Tuân lên. Cu Tí đổ chiếc túi lưới ra một mớ tôm cá lẫn lộn và nhặt ra từng thứ riêng. Ngồi nghỉ mệt, rít một hơi thuốc thật sâu, Tuân thở ra: “Trước đây, mỗi đêm lặn biển bắt được mấy chục con tôm hùm giống, mỗi con bán được 100.000 đồng, tính ra cũng được vài triệu đồng. Giờ nhiều đêm chẳng kiếm được con tôm hùm nào, chỉ bắt được tôm thường, ghẹ và cá mú bán hết chỉ đủ tiền chi phí đi biển”. Một lúc sau, Tú cũng ngoi lên mặt nước nhưng anh cũng chẳng bắt được con tôm hùm nào ngoài một mớ cua, cá.

Đợt lặn thứ hai của Tuân và Tú cũng kéo dài khoảng hai giờ. Khi trời tờ mờ sáng, họ mới trồi lên mặt nước. Lúc gần đến ghe, Tú cầm chiếc chai nhỏ giơ lên nói lớn: “Được một con tôm hùm xanh”. Tôi cầm chiếc chai chỉ thấy một con tôm tí xíu như chiếc tăm dài cỡ đốt tay đang bơi bên trong, trông chẳng khác gì com tôm giống thường. “Con tôm hùm nhìn kỹ mới biết, râu nó dài hơn tôm thường, đôi mắt nó to hơn... Thường ban ngày nó nằm trong kẽ đá, thò chiếc râu ra ngoài, ban đêm bơi đi kiếm ăn, phải thật tinh mắt mới phát hiện được. Khi bắt nó phải cho vào chiếc chai để khỏi bị chết...”- ông Mười cho biết, giờ do trái mùa nên con tôm hùm giống này bán được khoảng 200.000 đồng.

Cả nhà “cưỡi” lưng tôm

Đêm sau, tôi quay lại thôn Dư Khánh để đi lặn biển với gia đình anh Quang Ngọc. Nghe tôi gõ cửa, anh thức dậy bật đèn, mở cửa bước ra giọng buồn rười rượi. “Hôm qua đi biển không có tôm nên thằng Dinh con trai đầu của tui buồn đi uống rượu, trên đường về bị xe tông nên hôm nay không đủ người đi ghe ra biển”. Con trai anh Ngọc chỉ mới học lớp 5 đã bỏ học đi bắt tôm hùm.

Tuân và Tú trở về sau một đêm lặn biển

Mấy ngày nay, Cu Đen, con anh Võ Văn Thành nhà ở xóm Chợ Chiều, phường Đông Hải, TP Phan Rang-Tháp Chàm, không đi lặn biển đêm săn tôm hùm. “Cả tuần qua nó chẳng bắt được con tôm nào nên nản chí định bỏ vào Sài Gòn tìm việc làm”- chị Trần Thị Tha, mẹ của Cu Đen, buồn rầu. Nhà có 7 anh em, mới đến lớp 6, Cu Đen đã bỏ học đi bắt tôm hùm. Nhìn dáng người thấp bé của cậu trai, ít ai ngờ năm nay Cu Đen đã 23 tuổi. “Mấy năm trước, nghề bắt tôm hùm ở đây hái ra tiền, nó đi làm nuôi cả nhà. Giờ tôm ít dần, thu nhập gia đình sút giảm. Thằng Cu Đỏ, em của Cu Đen, mới học đến lớp 4, cũng phải bỏ học ở nhà phụ giúp gia đình mấy năm nay, chỉ còn đứa con gái út đang học lớp 7...” - anh Võ Văn Thành bỏ lửng câu nói.

Từ phường Đông Hải chạy về hướng khu du lịch Hoàn Cầu (huyện Ninh Hải), nhìn hai bên đường thấy các khu du lịch cao cấp đã mọc lên với những chiếc xe hơi sang trọng ra vào, tôi không khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến những người dân nghèo nơi xứ biển này đang lao đao vì con tôm hùm giống ngày càng ít đi.

Ở phường Đông Hải, TP Phan Rang-Tháp Chàm (Ninh Thuận), nhiều gia đình nghèo quá nên con trai mới mười ba, mười bốn tuổi đã phải đi lặn biển bắt tôm hùm giống. Có mấy đứa ham tôm lặn quá sâu nên đi biển vài năm bị điếc tai, bại liệt phải nằm một chỗ, tội lắm!

Trung Thanh


Cá nóc được bày bán tại các chợ ở Nghệ An

Nguồn tin: NLĐ, 8/6/2007
Ngày cập nhật: 9/6/2007

Gần đây, một số chợ trên địa bàn tỉnh Nghệ An xuất hiện nhiều hộ bày bán cá nóc dù rằng đây là loại cá cực độc, đã được ngành chức năng cảnh báo nhiều lần có thể gây tử vong cho người khi sử dụng làm thức ăn.

Theo TTXVN, từ năm 2003, UBND tỉnh đã có Chỉ thị về phòng chống ngộ độc cá nóc, nhưng cơ chế phối hợp giữa ngành Y tế, Quản lý thị trường, Thuỷ sản và chính quyền cơ sở trong việc thực hiện Chỉ thị còn bất cập, cá nóc vẫn xuất hiện tại nhiều chợ.

Nguy hiểm hơn là gần đây, một số người tiêu dùng ở các huyện miền núi trong tỉnh còn phát hiện trong cá khô bày bán tại các chợ có cả cá nóc.

B.T.L


Long Phú: Thiệt hại 158 ha diện tích nuôi tôm sú

Nguồn tin: Sóc Trăng, 08/06/2007
Ngày cập nhật: 9/6/2007

Đến nay, huyện Long Phú đã thả nuôi được 3.017 ha tôm sú, với 1.219 hộ; đạt 87,4% kế hoạch – tăng 20,65% so với cùng kỳ. Trong đó, nuôi công nghiệp 2.373 ha, với 744 hộ; nuôi quảng canh cải tiến 644 ha, với 457 hộ.

Tuy nhiên, do một số nông dân không tuân thủ theo khuyến cáo đã thả nuôi sơm, cộng với thời tiết nắng hạn kéo dài, rồi mưa lớn bất thường làm môi trường nuôi bị biến động; dẫn đến tôm sú dưới 30 ngày tuổi không thích ứng được nên chết hàng loạt. Tổng diện tích thiệt hại là 158 ha, chủ yếu là diện tích nuôi công nghiệp ( 123 ha, 67 hộ).

Hiện nay, bà con đã khắc phục xuống giống tôm sú lại được 8 ha. Ngành chức năng và chính quyền địa phương đang tập trung chỉ đạo nông dân chăm sóc tốt diện tích tôm sú đang nuôi, đồng thời tranh thủ khắc phục sớm diện tích thiệt hại cho kịp thời vụ nuôi tôm năm nay.


Khi nhà nông ngắm nghía sàn chứng khoán

Nguồn tin: TT, 09/06/2007
Ngày cập nhật: 9/6/2007


Áp dụng công nghệ vi sinh cho việc nuôi thủy sản: Tự cứu mình!

Nguồn tin: KTSG, 7/6/2007
Ngày cập nhật: 8/6/2007

Theo các nhà khoa học, một khi môi trường bị ô nhiễm thì nó sẽ tác động ngược trở lại đối với tôm, cá nuôi, với nhiều loại dịch bệnh khác nhau. Theo tập quán, khi thủy sản nuôi mắc bệnh, nông dân thường sử dụng thuốc kháng sinh điều trị, dẫn đến sản phẩm bị nhiễm dư lượng kháng sinh mà nhiều nước nhập khẩu đang tẩy chay! Và chính vì áp lực của các thị trường nhập khẩu, theo ông Chu Văn An, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Thủy hải sản Minh Phú, thời gian qua một số doanh nghiệp chế biến đã phải đầu tư nuôi cá “sạch” để vừa bảo vệ môi trường vừa giữ uy tín của chính mình.

Chẳng hạn, từ năm 2006 Công ty Minh Phú đã bắt đầu nuôi 250 héc ta tôm sạch tại Kiên Giang. “Thực tế cho thấy, qua càng nhiều vụ nuôi thì năng suất thu hoạch của chúng tôi càng cao. Vụ mới đây nhất đạt 9 tấn/héc ta”, ông An cho biết. Minh Phú đã áp dụng mô hình nuôi tôm theo công nghệ vi sinh. Trước tiên, một loại men vi sinh tổng hợp sẽ được cấy vào phân bùn và bã mía nhằm tạo ra vi khuẩn, sau đó thả xuống vuông tôm. Đây cũng là môi trường để tảo phát triển. Vi khuẩn sẽ xử lý thức ăn thừa, chất thải của tôm, còn tảo sẽ “xử lý” xác vi khuẩn. Chu trình khép kín được tạo ra khi chính một loại động vật thủy sinh sẽ lấy tảo làm thức ăn, và con tôm sẽ dùng chính loại động vật thủy sinh ấy làm mồi. Như vậy, môi trường sẽ được bảo đảm trong suốt quá trình nuôi và cũng không ảnh hưởng đến tôm nuôi trong nhiều vụ liền kề... Và môi trường nuôi sạch thì tôm khó mắc bệnh nên cũng không có “cơ hội” tiếp cận thuốc kháng sinh.

Ở Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thủy sản An Giang (Agifish), từ tháng 9-2005 cũng cho ra đời Liên hợp sản xuất cá sạch Agifish (APPU) với các thành viên gồm người nuôi cá, đơn vị cung cấp giống, thức ăn, thuốc và nhà chế biến. Theo kỹ sư Phan Công Bằng, Trưởng ban Công nghệ (Agifish), các hộ thành viên APPU phải có chứng nhận đạt tiêu chuẩn SQF 1000 và quá trình nuôi phải tuân thủ các nguyên tắc để không gây tổn hại môi trường, sản lượng đạt ít nhất 500 tấn/vụ và địa điểm nuôi phù hợp quy hoạch của địa phương. Đối với các đơn vị cung cấp thức ăn, thuốc chăn nuôi thủy sản và nhà chế biến thì những giấy chứng nhận đại loại như ISO, SQF 2000... là chuyện buộc phải đạt khi gia nhập APPU. Thời gian qua, mô hình nuôi cá sạch của APPU đã chứng minh nhiều ưu điểm như không gây ảnh hưởng nhiều đến môi trường, tỷ lệ cá nhiễm dư lượng kháng sinh giảm từ 20% xuống còn 5-6%...

Tuy nhiên, cả ông An và ông Bằng đều thừa nhận rằng muốn nhân rộng mô hình này không phải dễ bởi nó đòi hỏi người nuôi phải có nhiều vốn, được trang bị kỹ thuật đầy đủ và nuôi với quy mô lớn. Ở Minh Phú, để đầu tư 1 héc ta nuôi tôm theo công nghệ vi sinh cần tới 250-270 triệu đồng đầu tư hạ tầng và 250 triệu đồng vốn lưu động. “Tốt nhất là các hộ nuôi nên liên kết để tạo vùng nuôi quy mô lớn và dễ vay vốn ngân hàng, còn doanh nghiệp chế biến thì hỗ trợ về công nghệ, kỹ thuật và đầu ra”, ông An nói.

“Từ thành công bước đầu của Minh Phú, chúng tôi đề nghị các nhà khoa học nên nghiên cứu để áp dụng công nghệ vi sinh cho việc nuôi cá. Quan trọng nhất là giải quyết bùn dưới đáy ao. Làm sao để bùn không còn gây nguy hại đến tôm nuôi trong ao thì khi thải ra môi trường cũng chẳng gây ảnh hưởng gì. Khi đó, người nuôi cá không cần phải thay nước hàng ngày như hiện nay. Tôm làm được thì cá sẽ làm được, chỉ cần nghiên cứu cách giải quyết chất thải dưới đáy ao bằng mật độ vi sinh thế nào cho phù hợp mà thôi!”, ông An nói.

Hồ Hùng


Nuôi trồng thủy sản và tác hại đối với môi trường: Đừng bàng quan nữa!

Nguồn tin: KTSG, 7/6/2007
Ngày cập nhật: 8/6/2007

Môi trường đang bị ô nhiễm nặng do phát triển diện tích nuôi trồng thủy sản ồ ạt ở nhiều địa phương đồng bằng sông Cửu Long. Tại cuộc bàn tròn “Thủy sản và Môi trường” do TBKTSG phối hợp với Đài Phát thanh Truyền hình Cần Thơ tổ chức tuần qua ở Cần Thơ, các đại biểu tham dự đã khẩn thiết yêu cầu Bộ Thủy sản và các cơ quan chức năng nhanh chóng vào cuộc...

"Đừng bàng quan nữa!” là ý kiến của các nhà khoa học chuyên về môi trường ở ĐBSCL đã nơm nớp theo dõi sự biến đổi của môi trường sinh thái khi những vuông tôm, ao nuôi cá mọc lên ngày càng nhiều, lấn dần đất lúa, đất rừng... Điều khá bất ngờ là đại diện một số doanh nghiệp chế biến thủy sản dù rất phấn khởi khi kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng nhưng cũng phải thốt ra những lời cảnh báo như thế! Chính ông Nguyễn Ngọc Hải, nông dân nuôi cá ở phường Thới An, quận Ô Môn (Cần Thơ), cũng lên tiếng: “Ô nhiễm do nuôi thủy sản là không thể chối cãi. Chính tôi đôi khi cũng phải bỏ tiền túi hỗ trợ cư dân xung quanh khoan giếng nước để sử dụng nhằm giảm bớt lời phàn nàn về ao nuôi của mình”.

Cơ quan chức năng ở đâu?

Ông Bùi Hữu Trí, Chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản Cần Thơ, kể rằng một số vị đại diện cho ngành thủy sản ở Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp từng trực tiếp đề nghị với Bộ Thủy sản nên lưu ý đến hậu quả do nghề nuôi thủy sản tại ĐBSCL tăng trưởng quá nóng. “Phải cẩn thận. Con cá da trơn chính là loại thủy sản tranh chấp trực tiếp việc sử dụng nguồn nước với con người. Và liệu có công bằng không, khi số người nuôi cá ít nhưng có thể được thu nhập cao, trong khi phần lớn cư dân ở ĐBSCL không được lợi một đồng nào từ chuyện nuôi cá nhưng có khi phải mất tiền để mua thuốc chữa bệnh vì sử dụng nước bị ô nhiễm do nuôi thủy sản”, ông Trí đặt vấn đề. Ông cũng cho rằng, chính người nuôi cá cũng nhận thức được vấn đề ô nhiễm nhưng nếu làm đúng “bài bản” như đào 3 héc ta ao phải dành thêm 2 héc ta cho việc xử lý nước... thì lợi nhuận sẽ giảm. “Họ chỉ thấy cái lợi trước mắt, còn ảnh hưởng đến xã hội ra sao thì chẳng quan tâm. Một phần cũng do nông dân không có khả năng đánh giá mức độ thiệt hại cho môi trường”, ông Trí nói.

Trong khi đó, hoạt động của các cơ quan chức năng chỉ mới dừng ở chuyện khuyến cáo, còn kiểm tra, xử lý thì không được bao nhiêu. “Một số cán bộ nhà nước tham gia nuôi cá cũng chẳng làm gương thì khuyến cáo ai nghe! Nên nhớ rằng người dân luôn có thói quen không hay là họ sợ cơ quan xử lý hơn là sợ... pháp luật”, ông Trí bức xúc.

Đồng tình với ông Trí, nhưng ông Chu Văn An, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Thủy hải sản Minh Phú (Cà Mau), tỏ vẻ thông cảm hơn với người nuôi thủy sản. “ĐBSCL là vựa cá, tôm nên việc phát triển nuôi ào ạt là tất yếu bởi lợi nhuận hấp dẫn, đồng thời đảm bảo được nguồn nguyên liệu cung ứng cho các nhà máy chế biến đang không ngừng mọc lên, đưa kim ngạch xuất khẩu của ĐBSCL tăng dần. Nhưng để nuôi thủy sản mà không ảnh hưởng đến môi trường thì nông dân có thể tự làm được không? Không! Họ muốn làm tốt cũng không được vì mỗi hộ chỉ có vài héc ta nuôi, muốn thải nước đúng cách cũng chẳng biết thải ở đâu”, ông An nói.

Ông An thẳng thắn đề cập đến vai trò của Bộ Thủy sản: “Tôi đã dự nhiều cuộc họp về quy hoạch thủy sản và nhận thấy một điều là nói rất nhiều, nhưng quy hoạch chỉ trên giấy! Quy hoạch của Bộ Thủy sản rất chung chung, chỉ đề ra chỉ tiêu phát triển mà không thấy đề cập đến trách nhiệm xử lý nước thải thuộc về ai”.

Một điều dễ thấy là, trong những năm qua ngành thủy sản luôn chăm bẳm đến các chỉ tiêu phát triển quy mô, sản lượng nuôi nhưng lại ít quan tâm đến nhiều thứ khác. Theo ông Phạm Đình Đôn, Chi cục phó Chi cục Bảo vệ môi trường Tây Nam bộ: “Quy hoạch chỉ đưa ra con số chung chung như đến năm 2010, diện tích nuôi thủy sản vùng nước mặn- nước lợ là khoảng 650.000 héc ta, vùng ngọt - lợ là trên 350.000 héc ta... Chỉ tiêu là vậy, còn cụ thể thực hiện thế nào thì không thấy nói đến, bởi nuôi thủy sản có nhiều mô hình như quảng canh, thâm canh, bán thâm canh... Nhiều mô hình nuôi gây ô nhiễm môi trường rất lớn nên không thể không đề cập đến chuyện cung cấp nước, thoát nước như thế nào”.

Trong khi đó, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Chiếm, Trưởng bộ môn Tài nguyên và Môi trường (Đại học Cần Thơ), cảnh báo: “Bộ Thủy sản và các cơ quan Trung ương, chính quyền địa phương phải vào cuộc, nếu không thì ba năm nữa, với tốc độ phát triển như hiện nay, vùng ĐBSCL sẽ nguy khốn vì ô nhiễm”.Cả nuôi và chế biến đều gây ô nhiễm

Ông Chiếm đưa ra số liệu chứng minh: “Để có 100 tấn cá phi lê thì cần 300 tấn cá nguyên liệu, tức phải cần 480 tấn thức ăn thủy sản (tính theo hệ số chuyển hóa thức ăn bình quân 1,6). Như vậy, nếu vùng ĐBSCL đạt chỉ tiêu 1 triệu tấn cá phi lê xuất khẩu thì phải đưa vào nguồn nước 4,8 triệu tấn thức ăn - tức cùng lúc phải làm sao có đến 26 triệu héc ta mặt nước để tự xử lý ô nhiễm do 2,1 triệu tấn chất thải hữu cơ phát sinh!”. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có 17% trọng lượng khô của thức ăn cung cấp cho ao nuôi được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra môi trường dưới dạng phân và chất hữu cơ dư thừa thối rữa. Đối với các ao nuôi công nghiệp, chất thải trong ao có thể chứa đến 45% Nitrogen và 22% là các chất hữu cơ khác... Nguồn chất thải này ngoài việc gây ra ô nhiễm còn khiến dịch bệnh thủy sản phát sinh mà thực tế đã khiến nhiều vùng nuôi tôm ở Cà Mau, Bạc Liêu... phải bỏ hoang. “Tại Thái Lan, cứ sau ba năm nuôi thâm canh, sử dụng rất nhiều hóa chất, kháng sinh... thì người ta phải di dời đi nơi khác”, ông Chiếm dẫn chứng.

Hiện tại theo ông Đôn, mỗi năm đã có tới 450 triệu mét khối chất thải và bùn thải đổ ra môi trường. Đồng thời, sự ra đời của hàng loạt nhà máy chế biến đã khiến lượng nước thải đưa ra sông, rạch lên tới 47 triệu mét khối/năm, phần lớn chưa được xử lý triệt để... Chưa kể hóa chất, thuốc trị bệnh không nhãn mác... mà người nuôi thủy sản vẫn “bạo gan” sử dụng, cũng góp phần gây ô nhiễm nghiêm trọng.

Còn với vai trò một cơ quan thường xuyên theo dõi, giám sát chất lượng nước, thạc sĩ Kỷ Quang Vinh, Trưởng trạm Quan trắc môi trường, thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ, đưa ra những con số kinh hoàng: “Từ những con cá dài khoảng 2 cen ti mét, nuôi đến khi có được một ki lô gam cá da trơn thì môi trường phải “hứng” 100 gam chất COD. Còn khi nhà máy chế biến một ki lô gam cá da trơn, sông rạch sẽ phải “nhận” thêm 300 gam chất COD nữa! Riêng trên địa bàn Cần Thơ, mỗi ngày các nhà máy đã thải ra sông rạch khoảng 2.000 tấn COD!”. Và theo ông Vinh, với mức độ ô nhiễm do nuôi trồng và chế biến thủy sản như hiện nay, vùng ĐBSCL cần đến 2.000 tỉ mét khối nước mỗi năm mới có khả năng tự pha loãng. Trong khi đó, theo ông Đôn, ở ĐBSCL vào lúc lượng nước dồi dào nhất là mùa mưa, nước lũ do sông Mêkông đổ về cũng chỉ tạo mực nước sâu từ 1- 4 mét trong thời gian 2-4 tháng với tổng khối lượng chỉ trên 50 tỉ mét khối.

Hồ Hùng


Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) hướng dẫn nông dân qui trình kỹ thuật nuôi tôm an toàn

Nguồn tin: ST, 07/06/2007
Ngày cập nhật: 8/6/2007

UBND huyện Mỹ Xuyên chỉ đạo các địa phương qui trình kỹ thuật nuôi tôm an toàn. Đó là kiểm tra chặt chẽ các đại lý cung ứng tôm giống; cải tạo ao nuôi; cách sử dụng thuốc và thức ăn cho tôm. Chú ý thả tôm đúng lịch thời vụ, thích hợp với từng khu vực, tránh tình trạng thả nuôi tập trung và tự phát...Các biện pháp này vừa giúp bà con nông dân nuôi tôm an toàn vừa bán được giá sau khi thu hoạch, tránh tôm thiệt hại bởi môi trường nước. Bên cạnh đó, tuyê n truyền giáo dục bà con nông dân tránh tình trạng nuôi tôm ngoài vùng qui hoạch và kiên quyết xử lý đối với các trường hợp vi phạm. Theo dự kiến vụ nuôi tôm 2007, huyện Mỹ Xuyên sẽ thả nuôi 18.000 ha.


Chợ Lách (Bến Tre): nuôi cá da trơn gây ô nhiễm môi trường

Nguồn tin: Bến Tre TV, 7/6/2007
Ngày cập nhật: 7/6/2007

Cơn sốt đất nuôi cá da trơn xuất khẩu ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và huyện Chợ Lách thuộc tỉnh Bến Tre nói riêng hiện nay vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.

Chỉ tính trong những tháng đầu năm 2007, huyện Chợ Lách đã có gần 200 ha đất vườn được chuyển qua nuôi cá da trơn. Trong lúc người nuôi cá hân hoan với những món lợi bạc tỷ thì hàng trăm ngàn hộ dân khác đang phải đối mặt với thảm họa ô nhiễm môi trường do con cá da trơn gây ra. Nhân Ngày Môi trường Thế giới 05/06, xin chuyển đến bạn đọc những thông tin về thực trạng ô nhiễm môi trường tại huyện Chợ Lách – nơi phong trào nuôi cá da trơn xuất khẩu đang phát triển khá rầm rộ.

Những ngày cuối tháng 5/2007, mặc dù giá cá tra nguyên liệu xuất khẩu ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã giảm từ 2.000 đến 3.000 đồng/kg - thế nhưng phong trào chặt phá vườn cây ăn trái, lấy đất đào ao nuôi cá da trơn vẫn diễn ra rầm rộ tại huyện Chợ Lách – vùng đất mà giới chuyên doanh về lĩnh vực này cho rằng, hiếm có nơi nào trong khu vực có được. Chính vì thế mà đất vườn ở đây đã được những người có nhu cầu săn lùng ráo riết, từ đó, đẩy giá chuyển nhượng đất từ 30 triệu đồng lên 90 đến 100 triệu đồng, thậm chí ở những vị trí tốt, một công đất vườn có giá chuyển nhượng lên đến hơn 120 triệu đồng. Vậy những đối tượng nào đã tham gia chuyển nhượng đất ? Người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hầu hết là dân ở các địa phương khác đến như Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ và Thành Phố Hồ Chí Minh. Đối tượng chuyển quyền sử dụng đất phần lớn là nông dân nghèo, có ít đất xuất, đất canh tác nằm ở những vị trí ven sông bãi, thường xuyên bị sạt lở, mặt khác, do giá chuyển nhượng đất quá cao nên có không ít trường hợp người dân bán đất nơi này lấy tiền đi mua đất nơi khác để hưởng chênh lệch. Đứng trước tình hình đó, UBND huyện Chợ Lách đã có những động thái tích cực nhằm ngăn chặn tình trạng chuyển nhượng đất vườn, đào ao nuôi cá một cách tràn lan và tự phát. Trên cơ sở kết quả khảo sát của các ngành chức năng, huyện Chợ Lách đã quy hoạch tạm thời một số khu vực có thể khai thác diện tích mặt nước và đất bãi bồi để nuôi cá da trơn bao gồm: Khu vực cồn Xép thuộc xã Phú Phụng, cồn Phú Đa thuộc xã Vĩnh Bình, cồn Sơn Châu thuộc xã Sơn Định, cồn Lớn, xã Hòa Nghĩa, cồn Cái Gà, xã Long Thới, cồn Bùn, cồn Kiến và cồn Lát thuộc xã Tân Thiềng và một số khu vực ven sông Hàm Luông, sông Cái Hàng thuộc xã Hưng Khánh Trung và xã Phú Sơn. Cái lợi trước mắt có thể đo đếm được từ nghề nuôi cá da trơn đem lại là món tiền lời khổng lồ mà những nhà đầu tư từ nơi khác thụ hưởng. Còn hậu quả trước mắt cũng như về lâu dài mà huyện Chợ Lách và tỉnh Bến Tre phải gong lưng gánh chịu đó là tình trạng ô nhiễm môi trường nước, môi trường không khí, ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của ngưòi dân.

Ông Nguyễn Văn Việt, nông dân ấp Tân Phong, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đến huyện Chợ Lách thuê đất ở cồn Cái Gà, thuộc xã Long Thới nuôi cá tra xuất khẩu gần 6 năm nay thừa nhận, môi trường nước ở các con sông Cổ Chiên và Hàm Luông đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do phong trào nuôi cá da trơn phát triển. Theo ông Việt, nguyên nhân của tình trạng này là do các hô nuôi cá da trơn đều không thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường như xử lý nước cấp, nước thải, chất thải từ ao nuôi cá, bùn bã khi sên vét đáy ao cũng như không đảm bảo vệ sinh thú y trong nuôi trồng thủy sản. Theo tính toán của những người nuôi cá, để đạt một kg cá thịt, phải tiêu tốn ít nhất khoảng 2 kg thức ăn công nghiệp, đó là chưa kể một lượng lớn các hóa chất xử lý đáy ao, nguồn nước ao nuôi và kháng sinh phòng trị bệnh cho cá. Như vậy, cứ một kg cá nguyên liệu thì có 2 kg chất thải từ ao nuôi - kể cả lượng thưc ăn dư thừa của cá được tống thải ra sông rạch tự nhiên.

Huyện Chợ Lách hiện có 200 ha mặt nước nuôi cá da trơn, năm 2007 ước đạt sản lượng ước đạt khoảng 80 ngàn tấn cá thịt, như vậy sẽ có ít nhất 160 ngàn tấn chất thải và một khối lượng lớn các hóa chất khác được xả ra sông rạch. Kết quả quan trắc nguồn nước ở các sông thuộc địa phận huyện Chợ Lách của Sở Tài nguyên và Môi trường Bến Tre cho thấy, chất rắn hữu cơ lơ lửng vượt 3,31 lần, sắt vượt 9,56 lần, vi sinh trong nước vượt 153,5 lần, đặc biệt chất BOD5 - loại chất rất độc hại, có khả năng khử ô xy trong nước vượt hơn so với tiêu chuẩn cho phép 2,35 lần. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có khoảng 17% trọng lượng khô của thức ăn cung cấp cho ao nuôi đuợc chuyển thành sinh khối, phần còn lại đựoc thải ra môi trường dưới dạng phân và chất hữu cơ thừa thối rữa vào môi trường. Đối với các ao nuôi công nghiệp với mật độ dày, chất thải trong ao có thể chứa đến trên 45% nitrogen và 22% là các chất hữu cơ khác. Các loại chất thải chứa nitơ và phốt pho ở hàm lượng cao sẽ gây ra hiện tượng phú dưỡng nguồn nước, phát sinh tảo độc trong môi trường nuôi trồng thủy sản, dẫn đến hủy diệt nguồn lợi thủy sinh tự nhiên, nhất là các vi sinh có lợi trong nước. Trước khi đổ ra biển Đông, sông Cổ Chiên và Hàm Luông chảy qua các huyện Chợ Lách, Mỏ Cày và Thạnh Phú, mang phù sa bồi đắp cho ruộng lúa, vườn cây ăn trái, tạo nên những kênh rạch tự nhiên, phát triển nhiều đối tuợng thủy sản nước ngọt, trong đó, có giá trị kinh tế cao nhất là con tôm càng xanh, đồng thời, cung cấp nước tưới cho sản xuất và sinh hoạt không chỉ cho khoảng nửa triệu dân ở ba huyện cù lao Minh mà còn cho người dân ở thị xã Bến Tre và các vùng phụ cận. Riêng tại huyện Chợ Lách, do tập quán lâu đời, hầu hết người dân có thói quen lấy trực tiếp nước sông để ăn uống, tắm giặt, dư lượng các hóa chất độc hại trong nước sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng.

Đã đến lúc, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre và các tỉnh ở Đồng bằng sông Củu Long nói chung cần hợp tác quy hoạch lại vùng nuôi, quy mô và đối tượng nuôi so cho vừa phải, phù hợp với khả năng chịu đựng của các yếu tố môi trường. Các cơ quan quản lý Tài nguyên và Môi trường và chính quyền địa phương cần nghiêm khắc xử lý các cơ sở, cá nhân nuôi cá da trơn gây ra ô nhiễm môi trường nước. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn dân cùng tham gia bảo vệ tốt môi trường nuôi trồng thủy sản, bởi đây là vấn đề có tính chất sống còn và là yếu tố nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của toàn vùng trên bước đường chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Lê Phết


Bến Tre: diện tích nuôi thủy sản đạt 3900 ha

Nguồn tin: Bến Tre, 7/6/2007
Ngày cập nhật: 7/6/2007

Tổng diện tích nuôi tôm sú thâm canh và bán thâm canh của Bến Tre đến thời điểm hiện nay là 3.900 ha, đạt 71% kế hoạch.

Trong tháng 5, lượng tôm sú giống nhập qua kiểm dịch đạt 150 triệu post, lượng giống tôm sú sản xuất trong tỉnh đạt 30 triệu post, tăng 8% so với cùng kỳ, cơ bản đáp ứng nhu cầu về giống cho người nuôi. Mầm bệnh đốm trằng ngoài môi trường giảm đáng kể. Tuy nhiên, qua khảo sát đã thấy xuất hiện bệnh đốm trắng tại những vùng nuôi tôm sú tập trung trên địa bàn huyện Bình Đại với tổng diện tích thiệt hại là 43 hecta. Hoạt động khai thác thủy sản trong tháng 5 tương đối ổn định, sản lượng khai thác đạt 6.800 tấn, tàu đánh bắt xa bờ hiện có 900 chiếc. Hiện tượng nghêu chết có xu hướng giảm nhưng ngành Thủy Sản vẫn tiếp tục phối hợp cùng các ngành liên quan tăng cường công tác quan trắc, theo dõi diễn biến môi trường, dịch bệnh để có biện pháp xử lý thích hợp.


Định hướng phát triển bền vững nuôi cá da trơn ở tỉnh Bến Tre

Nguồn tin: Btre, 06/06/2007
Ngày cập nhật: 7/6/2007

Trong thời gian gần đây, do giá cá tra ổn định ở mức cao nên diện tích nuôi cá da trơn trên địa bàn tỉnh Bến Tre năm 2007 phát triển khá mạnh. Tính đến thời điểm cuối quí I-2007, trên địa bàn tỉnh Bến Tre có trên 80 hộ nuôi cá tra thâm canh, với tổng diện tích nuôi trên 360 hécta, tập trung chủ yếu ven các sông Tiền, Cổ Chiên, Ba Lai và Hàm Luông. Trên sông Tiền, nuôi nhiều nhất ở cồn Tân Mỹ (xã Phú Túc, huyện Châu Thành) và cồn Tàu (xã Tam Hiệp, huyện Bình Đại). Trên sông Cổ Chiên, nuôi tập trung ở các cồn thuộc huyện Chợ Lách như cồn Cái Gà (xã Long Thới), cồn Phú Đa (xã Vĩnh Bình), cồn Bùn và cồn Kiến (xã Tân Thiềng). Ven sông Ba Lai, nuôi với quy mô khá lớn ở các xã Châu Hưng, Phú Long, Thới Lai (huyện Bình Đại) và Châu Bình (huyện Giồng Trôm). Trên sông Hàm Luông, nuôi nhiều ở xã Sơn Phú (huyện Giồng Trôm).

Mặc dù chi phí đầu tư cho nuôi cá tra thâm canh lớn hơn khoảng 10 lần so với nuôi tôm sú, tỉ suất lợi nhuận đạt từ 20 - 40% tổng vốn đầu tư, nhưng độ rủi ro thấp do cá tra chỉ nhiễm bệnh do vi khuẩn và kí sinh trùng gây ra.

Hiện tại, ngành thủy sản Bến Tre đang xây dựng quy hoạch chi tiết nuôi cá da trơn trên địa bàn tỉnh. Sau này, khi đã có quy hoạch, ngành sẽ triển khai thực hiện và quản lý việc nuôi cá da trơn theo quy hoạch.

Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 13/2007/CT-UBND ngày 25-5-2007 về việc tăng cường công tác quản lý nuôi cá tra thâm canh trên khu vực cập tuyến sông Ba Lai. Tiếp đến, ngành thuỷ sản đang xây dựng khung quy định việc quản lý nuôi cá da trơn thâm canh để tham mưu cho UBND tỉnh ban hành nhằm hướng dẫn người dân thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, hạn chế ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh. Ngoài ra, ngành Thủy sản còn tăng cường công tác tập huấn kỹ thuật cho người dân nhằm nâng cao kiến thức về chăm sóc quản lý cá nuôi, mật độ thả nuôi phù hợp và bảo vệ môi trường, thành lập liên hiệp sản xuất cá tra bền vững, tổ chức liên kết cung ứng giống cá có chất lượng với các tỉnh An Giang, Đồng Tháp để chọn giống tốt về thả nuôi tại Bến Tre.

Để bảo đảm cho nghề nuôi cá da trơn thâm canh trên địa bàn tỉnh Bến Tre phát triển theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường, trong thời gian tới, ngành thủy sản Bến Tre sẽ đầu tư trại giống cá da trơn tại huyện Chợ Lách để tạo nguồn cá bố mẹ có chất lượng, sản xuất cá bột và ươm cá giống; xây dựng hệ thống vệ tinh ươm cá giống để cung cấp cho người nuôi trong và ngoài tỉnh; thành lập ban quản lý vùng nuôi ở các vùng nuôi trọng điểm, có quy chế hoạt động cụ thể để giúp người nuôi hỗ trợ nhau trong quá trình sản xuất như kỹ thuật nuôi, kinh nghiệm quản lý và cùng nhau bảo vệ môi trường nuôi; tăng cường tập huấn kỹ thuật nuôi, cách chọn giống và hướng dẫn người nuôi biện pháp phòng trị một số bệnh thường gặp trên cá tra, hướng dẫn người nuôi sử dụng thuốc, hóa chất có hiệu quả, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; khuyến cáo người nuôi thả giống với mật độ vừa phải để giảm thiểu dịch bệnh và hạn chế ô nhiễm môi trường; triển khai và kiểm soát chặt chẽ quy hoạch nuôi cá da trơn trên địa bàn tỉnh theo hướng bền vững; đồng thời xây dựng mô hình liên kết sản xuất giữa người nuôi và nhà máy chế biến.

KS Nguyễn Văn Tạo - Sở thủy sản Bến Tre


Bạc Liêu: Nghêu sò ven biển chết hàng loạt

Nguồn tin: Lao động, 6/6/2007
Ngày cập nhật: 7/6/2007

Thông tin từ Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Bạc Liêu cho biết, trong vòng 5 ngày qua, các bãi nghêu ven biển có hiện tượng chết rải rác. Đáng chú ý, tại HTX Biển Đông A có đến 30% số lượng nghêu tại vùng khoanh nuôi bị chết. Các HTX khác thuộc huyện Hòa Bình, Đông Hải cũng xảy ra hiện tượng này với mức thiệt hại từ 10 - 25% tổng trữ lượng.


Nuôi tôm hùm trên đảo Bình Ba: Giấc mơ đẹp đang trở thành… ác mộng!

Nguồn tin: SGGP, 01/06/2007
Ngày cập nhật: 6/6/2007

Dăm năm trở lại đây, nhờ nuôi tôm hùm, người dân trên đảo Bình Ba (thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) giàu lên trông thấy. Nhưng từ đầu năm 2007 đến nay, người dân của xứ sở tôm hùm lại đang điêu đứng vì tôm chết hàng loạt. Bình quân mỗi ngày, ở đảo Bình Ba có 150kg tôm hùm chết, đồng nghĩa với việc gần 100 triệu đồng đổ xuống sông, xuống biển.

Làm giàu từ con tôm hùm

Anh So và những con tôm hùm chết

Từ Ba Ngòi, mất đúng 75 phút đi tàu đò với giá vé 5.000đ, chúng tôi có mặt tại xứ sở của tôm hùm. Câu chuyện nóng bỏng nhất, được nhiều người đề cập nhất trong suốt thời gian đi đò cũng như trong 2 ngày tôi lưu lại Cam Bình vẫn là chuyện dịch bệnh của con tôm hùm. Từ lúc mở mắt ra cho đến khi đi ngủ, người dân ở đây hễ gặp nhau là nói tới chuyện nuôi tôm, hệt như người dân ở TPHCM đang sôi lên từng giờ bởi giá cổ phiếu vậy.

Ở Khánh Hòa, ít ai không biết câu “Nem Ninh Hòa, trầm hương Vạn Ninh, tôm hùm Bình Ba”. Điều đó đủ để nói lên ngay từ xa xưa, Bình Ba đã nổi tiếng là xứ sở của tôm hùm - “vua” của các loài tôm.

Theo các vị cao niên, sở dĩ Bình Ba được coi là xứ sở của con tôm hùm là vì nơi đây có nhiều rạn, lố, môi trường phù hợp, thuận lợi cho sự phát triển, sinh sản của con tôm. Trước năm 1980, tôm hùm ở đây nhiều vô kể. Nhưng lúc đó giá tôm hùm rất rẻ nên người dân địa phương cũng ít quan tâm. Mãi đến năm 1990, khi con tôm hùm “lên ngôi”, một số ít hộ dân ở Bình Ba mới tính đến chuyện nuôi tôm trong lồng.

Đến năm 2000, khi ngân hàng cho vay vốn thì phong trào nuôi tôm mới phát triển mạnh. Từ khoảng vài chục hộ, đến nay xã Cam Bình có 904 hộ nuôi tôm hùm với 103 bè, 3.350 lồng. Theo ông Võ Liêm Trang, Chủ tịch Hội nông dân xã Cam Bình, trước kia giá tôm hùm giống rất rẻ, cỡ 2.000đ/con.

Thức ăn của tôm hùm chủ yếu là sò hoặc cá xay nhỏ. Do có môi trường tự nhiên lý tưởng nên thời điểm đó, tỷ lệ tôm sống ở Bình Ba đạt tới trên 90%. Sau 15 tháng, mỗi con đạt trọng lượng 1kg, giá bán tương đương 2/3 chỉ vàng. Nhờ vậy nên từ 2001 đến 2005, nhiều người dân ở Bình Ba giàu lên trông thấy. Hộ nào nuôi nhiều, lời từ 500 đến 800 triệu. Số hộ lời một vài trăm triệu, đếm không xuể.

Chỉ trong vài năm, nhà xây mọc lên như nấm sau mưa. Từ một xã nghèo, đến nay xã Cam Bình đã có gần 800 căn nhà xây trên tổng số 1.081 hộ dân.

Sướng vì tôm, khổ cũng vì tôm!

Nuôi tôm hùm trở thành tỷ phú, đó là chuyện có thật ở Cam Bình cách đây vài năm. Chính vì vậy, cả xã đổ xô nuôi tôm hùm. Nhà nhà, người người cầm cố, vay mượn hàng chục, hàng trăm triệu đồng đổ vào con tôm với giấc mơ hốt bạc tỷ. Thế nhưng, trong khi đang phất lên phơi phới, con tôm bỗng ngã bệnh chết hàng loạt.

Hiện nay, một con tôm giống nhỏ như chiếc tăm giá 200.000đ, nếu to bằng ngón tay út thì giá 300.000đ. Tiền thức ăn cho một con tôm từ khi bắt đầu nuôi cho đến khi xuất là 100.000đ. Như vậy, tổng vốn đầu tư bình quân cho một con tôm đến khi bán (cỡ con gần 1kg) là 400.000đ.

Hiện nay tại Bình Ba, 1kg tôm hùm giá 630.000đ, nhưng tôm chết chỉ bán được 160.000đ, riêng tôm hùm xanh chỉ bán được khoảng 50.000đ.

Theo ông Trang, tỷ lệ tôm chết lên đến 40%, cá biệt có hộ tôm chết đến 70%. Anh Nguyễn So, 47 tuổi, một trong những người có tay nghề cao về nuôi tôm hùm, nói: “Sáng nào mở mắt ra không thấy con tôm nào nổi là vui cả ngày, ngang với bắt được của.

Con tôm 1kg giá hơn 600.000đ, sáng ra thấy 2 con tôm chết nổi lên là thất kinh, ngang với việc cầm một chỉ vàng 9999 ném xuống biển”. Hiện tại nhà anh So nuôi gần 1.500 con tôm. Để có tiền đầu tư, anh So đã cầm cố căn nhà và chiếc ghe để vay ngân hàng 200 triệu. Mặc dù đã chăm sóc, thuốc men rất kỹ nhưng tỷ lệ tôm chết cũng đã lên tới 30%.

Không chỉ riêng anh So mà rất nhiều nhà trong xã Cam Bình cũng đang khốn đốn vì con tôm hùm. Nhà anh Tàu, tổ 2, đầu tư 200 triệu, sau gần 1 năm rưỡi “ăn, thức, ngủ cùng con tôm”, khi thu hoạch chỉ được chưa tới 80 triệu. Nhà anh Mới đầu tư gần 250 triệu đồng, vì tôm chết quá nhiều nên buộc phải bán “tôm non”, chỉ thu được khoảng 150 triệu.

Theo ông Trang, tính đến thời điểm hiện nay, có gần 20% số hộ nuôi tôm ở Bình Ba bị sạt nghiệp. Theo xác nhận của những người thu mua tôm hùm chết, đã gần 8 tháng nay, bình quân mỗi ngày, ở Bình Ba có 150kg tôm hùm chết. Nghĩa là một ngày, Cam Bình có gần 100 triệu đồng “chết” theo con tôm.

Theo ông Nguyễn Ân, Phó Chủ tịch UBND xã Cam Bình, trước hiện tượng tôm chết hàng loạt (bị đỏ thân, khi chết chảy ra nước đục), chính quyền địa phương đã mời Viện Hải dương học Nha Trang, Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Khánh Hòa và các nhà khoa học vào cuộc, nhưng đến nay vẫn chưa tìm được nguyên nhân.

Hiện nay, toàn xã Cam Bình vay nợ ngân hàng 42 tỷ đồng. Mỗi năm, chỉ tính riêng số tiền lời mà người dân Cam Bình phải trả là trên 3 tỷ đồng. Toàn bộ số tiền vay đều được đổ vào “giấc mơ tiền tỷ”, trong khi đó người nuôi tôm hùm lại đang đứng bên bờ vực thẳm. Nếu chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn không sớm có biện pháp khắc phục, tìm cách dập tắt dịch bệnh của con tôm thì hậu quả thật khó lường.

Đăng Bảy


Cá tra, basa - Phát huy sức mạnh kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Nguồn tin: SNNAG, 1/6/2007
Ngày cập nhật: 5/6/2007

Ngành Nuôi trồng và Chế biến cá tra, basa là một trong những ngành có thế mạnh của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trong thời gian gần đây, phát triển nhanh chóng và trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Nếu như ở năm 2000, tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt khoảng trên 150 triệu USD chiếm tỷ trọng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản (1,47 tỷ USD) thì đến năm 2006 đã đạt gần 700 triệu USD, hiện chiếm tỷ trọng 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu 3,36 tỷ USD. Sản phẩm cá tra, basa đã có mặt trên thị trường 65 quốc gia và dự kiến năm 2007 có thể vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành cũng đang gặp phải những khó khăn: Kiện chống bán phá giá, đối mặt với hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu đề ra mà cụ thể là dư lượng kháng sinh và hóa chất trong sản phẩm, giá sản phẩm xuất khẩu thấp hơn so với các nước khác trong khu vực (Cụ thể giá cá da trơn phi lê đông lạnh trung bình xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ chỉ đạt 2,96USD/kg trong khi Thái Lan là 3,51 USD, Campuchia 3,71 USD, Trung Quốc 3,9 USD/kg). Sự thiếu liên kết giữa người nuôi, nhà chế biến trong việc trao đổi thông tin thị trường dẫn đến không chủ động được nguồn nguyên liệu phục vụ cho chế biến. Nghề nuôi cá phát triển tự phát không theo quy hoạch của các hộ nuôi ở vùng ĐBSCL đã làm cho nguồn nguyên liệu cá tra, basa không ổn định. Dẫn đến giá cả nguyên liệu bấp bênh lúc cao, lúc thấp gây thiệt hại cho người nuôi. Bên cạnh đó, cũng chính sự phát triển tự phát và ý thức chưa cao của người nuôi trong việc xử lý và bảo vệ môi trường đã làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường đang có chiều hướng gia tăng khó kiểm soát có thể gây ra dịch bệnh lớn.

Điều này đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần phải giải quyết: Thị trường, chất lượng sản phẩm, tăng cường mối liên kết phát triển ngành bền vững của các tỉnh trong vùng. Để giải quyết những khó khăn trên ngoài sự hỗ trợ của nhà nước về cơ chế chính sách, đòi hỏi ngành cần có những tổ chức Hội, Hiệp hội không chỉ ở cấp địa phương mà còn phải phát triển ở cấp vùng, tích cực thực hiện các hoạt động tuyên truyền vận động các tỉnh trong vùng tăng cường liên kết với nhau phối hợp với cơ quan nhà nước triển khai các công tác quy hoạch phát triển ngành ở quy mô, xúc tiến thương mại phát triển thị trường, bảo vệ quyền lợi cho các nhân tố trong ngành.

Trong thời gian vừa qua các tổ chức Hội, Hiệp hội cấp quốc gia: Hội Nghề cá Việt Nam (VINAFIS), Hiệp hội Chế biến & Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cũng đã có tích cực triển khai các hoạt động để phát triển ngành. Tuy nhiên, sự phối hợp và liên kết chỉ dừng ở cấp quốc gia trong khi ĐBSCL là vùng tập trung sản xuất chế biến cá tra, basa khá lớn thì chưa có Hiệp hội chính thức để liên kết giữa các thành viên và tạo tiếng nói chung. Do đó, việc thành lập Hiệp hội cá tra, basa ĐBSCL - Việt Nam để phối hợp triển khai các hoạt động là rất cần thiết.

Hiệp hội cá tra, basa ĐBSCL - Việt Nam ra đời sẽ là cầu nối, liên kết với các địa phương và Hiệp hội cấp quốc gia thực hiện các hoạt động:

Phối hợp với các địa phương trong vùng quy hoạch phát triển, tổ chức sản xuất bảo đảm cho sự phát triển bền vững của ngành cá tra, basa.

Liên kết các tỉnh thực hiện khảo sát thu thập thông tin về ngành cá làm cơ sở dữ liệu cho hoạt động quảng bá và xúc tiến thương mại cho ngành.

Tăng cường công tác trao đổi và cung cấp thông tin thị trường, công nghệ và kỹ thuật mới đến các doanh nghiệp và người nuôi.

Thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, huấn luyện người nuôi và doanh nghiệp áp dụng những tiêu chuẩn chất lượng mới trong nuôi và chế biến sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu khắt khe của khách hàng đồng thời giảm thiểu vấn đề ô nhiễm môi trường, dịch bệnh.

Đánh giá được vai trò và tầm quan trọng của Hiệp hội cá tra, basa vùng ĐBSCL đối với sự phát triển bền vững của ngành cá. Ban Điều hành Sản xuất và tiêu thụ cá tra, basa đã phối hợp với Hiệp hội, Hội nghề cá các tỉnh trong vùng ĐBSCL cùng với sự hỗ trợ và phối hợp tích cực của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Chi nhánh tại Cần Thơ (VCCI Cần Thơ) tiến hành thành lập Ban Vận Động và đã được Bộ Thủy sản ký quyết định công nhận số 518/QĐ.BTS ngày 20/4/2007 và đề cử ông Nguyễn Hữu Khánh - Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam – Phó Ban Điều hành làm Trưởng Ban Vận động cùng 10 thành viên là Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội, Hiệp hội Nghề cá và Phó Giám đốc Sở Thủy sản/Sở NN&PTNT các tỉnh có sản xuất và tiên thụ cá tra, basa như: An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bến Tre, Trà Vinh và Kiên Giang.

Theo tinh thần đó, Ban Vận động đã tiến hành phiên họp lần thứ I tại Tp. Cần Thơ ngày 25/5/2007 do ông Nguyễn Hữu Khánh chủ trì hội nghị nhằm thống nhất kế hoạch tuyên truyền, vận động và đóng góp ý kiến cho dự thảo Điều lệ làm cơ sở cho việc tuyên truyền, vận động tiến tới Đại hội thành lập Hiệp hội. Hầu hết đại biểu đều nhất trí cao các vấn đề đưa ra trong hội nghị là quan tâm đến tính chất tự nguyện cao, xây dựng chức năng xác thực, phát huy vai trò liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh trong khu vực về ý chí cũng như hành động, đồng thời tiến hành ngay công tác tuyên truyền vận động trên cơ sở kế hoạch đã đề ra. Dự kiến vào cuối quý II, hoàn chỉnh các điều kiện cần thiết để chính thức ra đời Hiệp hội trong khoảng quý IV/2007.

Kim Cương – Trung Dũng


An Giang: Đình chỉ việc đào ao nuôi cá để chấn chỉnh và quản lý và phát triển thủy sản theo qui hoạch

Nguồn tin: AG, 5/6/2007
Ngày cập nhật: 5/6/2007

Trong khoảng các tháng đầu năm 2007, do giá cá tra, basa nguyên liệu trên thị trường đứng ở mức cao nên đã dẫn đến việc các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự phát đào ao nuôi cá với quy mô lớn, không theo quy hoạch, không đảm bảo về xử lý môi trường và diện tích đang tăng nhanh, rất khó kiểm soát. Điều này đang đe doạ sự phát triển bền vững của ngành thủy sản.

Trước tình hình trên, để chấn chỉnh việc tự phát đào ao nuôi cá, An Giang đã có chỉ đạo các ngành, các cấp tiến hành kiểm tra và đình chỉ ngay việc đào ao nuôi cá tự phát kể cả diện tích trong qui hoạch mà không đăng ký với UBND xã kể từ ngày 01/4/2007. Và chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường cùng Sở Thủy sản kiểm tra, thống nhất và hướng dẫn cách xử lý môi trường trong việc nuôi trồng thuỷ sản, tổ chức đăng ký bổ sung và có qui trình khắc phục việc xử lý môi trường theo qui định đối với các hộ đã nuôi trước đây đối với những diện tích đất thuộc quy hoạch trước đây, sau đó là các diện tích đã được UBND tỉnh quy hoạch bổ sung.

Ngoài ra, Sở Thuỷ sản có trách nhiệm phối hợp cùng với các Sở, ngành có liên quan và UBND huyện, thị, thành phố tiến hành rà soát và bổ sung điều chỉnh qui hoạch, qui hoạch trên cơ sở để kêu gọi đầu tư. Do đó, qui hoạch bổ sung này phải đảm bảo giải quyết hài hòa lợi ích của các bên tham gia vùng qui hoạch (doanh nghiệp và hộ dân có đất sản xuất trong vùng qui hoạch), có các phương án xử lý ô nhiễm môi trường, giao thông, thủy lợi. Song song đó, phải có chính sách hỗ trợ như đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho con em các hộ có đất trong vùng qui hoạch…..

Việc đình chỉ đào ao nuôi cá để chấn chỉnh việc phát triển thủy sản tự phát, không có kiểm soát và quản lý của nhà nước, và vấn đề này dẫn không những dẫn đến rủi ro cao cho người nuôi mà còn ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế xã hội. Do đó, để tăng cường quản lý nhà nước về nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh, đảm bảo các mục tiêu phát triển nhanh và bền vững ngành thủy sản trong thời gian tới thông qua tinh thần Chỉ thị 13/2007/CT-UBND ngày 30/5/2007.

Yêu cầu Chủ tịch UBND huyện, thị, thành, phố phải công bố quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản của địa phương. Chĩ đạo cho UBND cấp xã, phường, thị trấn thông báo và tổ chức thực hiện việc các tổ chức, cá nhân phải đăng ký, kê khai diện tích nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản để ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm, phải chấm dứt ngay việc tự phát đào ao nuôi cá của tổ chức, cá nhân và hộ gia đình trên địa bàn mình quản lý, kể cả diện tích trong qui hoạch nhưng không đăng ký với UBND cấp xã.

Chỉ thị còn yêu cầu Sở Thủy sản phải quy định cụ thể cho các chủ thể nuôi trồng và chế biến thuỷ sản xây dựng các vùng nuôi gắn với chế biến theo các tiêu chuẩn an toàn và chất lượng… Riêng Sở Tài nguyên và Môi trường phải tổ chức đăng ký bổ sung và định ra lộ trình để khắc phục việc xử lý nước thải đối với các hộ đã nuôi thuỷ sản trước đây trong vùng quy hoạch mà chưa có hố xử lý nước thải…..

Tin rằng, với việc chấn chỉnh này sẽ thúc đẩy việc phát triển thủy sản theo hướng bền vững, góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh trong thời gian tới.

Thanh Tuyến


Triển vọng mới cho ngành thủy sản Bến Tre

Nguồn tin: 31/05/2007
Ngày cập nhật: 5/6/2007

Trong 5 tháng qua, ngành thủy sản tiếp tục phát triển theo hướng ổn định và bền vững. Từ nuôi trồng đến đánh bắt, chế biến xuất khẩu đều có chiều hướng thuận lợi. Trong đó, đặc biệt là phong trào nuôi cá da trơn xuất khẩu phát triển mạnh, góp phần rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh.

Theo đánh giá chung của ngành thủy sản, từ đầu năm đến nay tuy còn gặp một số khó khăn nhưng cơ bản có nhiều thuận lợi. Nghề nuôi thủy sản vẫn được ngư dân tiếp tục tập trung đầu tư khá lớn. Ngành đã tăng cường công tác quản lý chất lượng con giống, môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của BQL vùng nuôi, quản lý chặt chẽ việc xả thải mầm bệnh, ngăn chặn có hiệu quả dịch bệnh khi mới phát sinh.

Tính đến nay, toàn tỉnh đã thả giống trên 39.000 hécta, đạt 90,7% kế hoạch, chủ yếu tập trung vào các đối tượng nuôi chính như tôm sú, tôm càng xanh, cá tra, nhuyễn thể. Trong đó, tôm sú quảng canh và xen rừng đã thả giống đạt 100%, tôm phát triển ổn định, đa số hộ nuôi đều có lãi khá cao. Tôm sú thâm canh, bán thâm canh đã thả giống 3.900 hécta, tương đương cùng kỳ 2006, đạt 71% kế hoạch 2007. Hiện các cơ sở nuôi đang tiếp tục thả giống, dự kiến cuối vụ đạt khoảng 90% diện tích. Tôm đang phát triển ổn định, tuy dịch bệnh đốm trắng đã xuất hiện nhưng được ngăn chặn kịp thời không để lây lan, tỉ lệ thiệt hại 44 ha, giảm 10%. Mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa với tôm sú, nuôi liền canh liền cư trong mương vườn đạt hiệu quả khá cao.

Bên cạnh đó, việc nuôi cá tra tăng sản có bước phát triển khá nhanh. Hiện toàn tỉnh có 350 hécta đã và đang đầu tư, diện tích thả giống trên 150 hécta. Tình hình dịch bệnh có xảy ra nhưng mức độ thiệt hại không đáng kể, chỉ tập trung vào những ao nuôi mật độ cao, chất lượng con giống kém. Do giá cá tăng cao từ nhiều tháng qua nên hầu hết người nuôi đều có lãi khá.

Đối với nhuyễn thể là nguồn lợi lớn nhưng do năm nay nắng nóng kéo dài, nguồn nước bị ô nhiễm gây tổn thất khá lớn, thiệt hại khoảng 2.500 tấn. Tuy vậy, điều đáng mừng là từ đầu tháng 5 đến nay, nghêu đã phát triển trở lại bình thường.

Cảng cá Ba Tri hoạt động ổn định, còn cảng cá ở Bình Đại thì bắt đầu đi vào hoạt động. Ngành cũng đã tổ chức hội thảo mô hình tổ đội khai thác để nhân rộng, và đã thành lập đội tàu xung kích gồm 44 tàu hỗ trợ nhau trong hoạt động trên biển, nhất là khi có bão.

Trong lĩnh vực chế biến, các nhà máy thu mua nguyên liệu đạt 19.664 tấn, tăng 27% so cùng kỳ. Thành phẩm chế biến đạt 8.170 tấn, tăng 13%. Kim ngạch xuất khẩu đạt 21 triệu USD.

Hầu hết các doanh nghiệp hoạt động ổn định, sản lượng chế biến đạt cao hơn. Để tạo nguồn nguyên liệu bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm ổn định cho các nhà máy chế biến và người nuôi yên tâm đầu tư sản xuất, ngành tiếp tục triển khai hợp đồng liên kết giữa nhà máy chế biến với người nuôi và bao tiêu sản phẩm theo giá sàn, hỗ trợ vốn và kỹ thuật cho người nuôi. Xây dựng thương hiệu nghêu Bến Tre, tạo đầu ra ổn định nhằm nâng cao hiệu quả cho mặt hàng này.

Đầu tư xây dựng cơ bản cũng được chú trọng, với nhiều dự án đã được triển khai như cảng cá Bình Đại tổng vốn đầu tư 19,8 tỉ đồng; dự án hệ thống thủy lợi cấp nước ngọt từ hồ chứa Ba Lai phục vụ nuôi thủy sản Bình Đại đã xong phần thiết kế kỹ thuật thi công, kinh phí 82 tỉ đồng; dự án khu neo đậu trú bão cho tàu cá, kinh phí thực hiện 34 tỉ đồng; dự án cảng cá An Nhơn-Thạnh Phú, kinh phí 27,2 tỉ đồng. Các dự án đang được khẩn trương thực hiện đúng theo tiến độ.

Hữu Hiệp


Xóm “cá lóc” ở Đồng Tháp Mười

Nguồn tin: SGGP, 04/06/2007
Ngày cập nhật: 4/6/2007

Ở Đồng Tháp Mười (ĐTM) mà không có ruộng hoặc ruộng ít là cầm chắc cái nghèo! Trước đây, đa số người dân ở khu phố 1, thị trấn Tân Thạnh, huyện Tân Thạnh (Long An) sống bằng nghề chài lưới, buôn bán nhỏ, làm “thợ đụng”. Dù vất vả quanh năm nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo. Thế nhưng mấy năm trở lại đây, có một xóm trong khu phố bỗng hết nghèo, nhiều hộ giàu lên. Điều tốt lành đó đến từ… con cá

Xây nhà gạch bằng… cá

Con cá lóc từ bao đời đã có mặt trong bữa ăn của người dân ĐTM. Nhưng để khấm khá và làm giàu thì không ai cậy vào con cá lóc.

Công bằng mà nói, con cá lóc đã từng được nuôi trong ao, trong bè hàng chục năm qua ở các huyện vùng ĐTM của Long An. Thế nhưng chưa có mô hình nào thành công. Ngành khuyến nông tỉnh Long An chuyển hướng sang con cá rô, cá sặt rằn. Năm 2001, bị hấp dẫn bởi nghề nuôi cá ở các tỉnh miền Tây, 5 hộ dân ở khu phố 1, thị trấn Tân Thạnh rủ nhau làm “tổ hợp” nuôi cá lóc, với diện tích ao nuôi chỉ có… 500m2. Nhờ làm đúng bài bản, những người nuôi đã thu hoạch vụ đầu tiên rất khả quan. Hội nông dân thị trấn tiếp tục vận động nhiều nông dân nuôi cá lóc.

Năm 2002, hơn hai chục hộ dân đăng ký vào “tổ hợp”. Ban đầu, cả tổ đều chọn con giống từ thiên nhiên. Nhưng nuôi bằng giống thiên nhiên thì thời gian thu hoạch kéo dài đến gần nửa năm, mỗi năm chỉ có thể nuôi được 2 vụ. Hay tin ở An Giang sản xuất được cá lóc giống ngắn ngày, một ít hộ đi mua thử về nuôi. Kết quả là cá lớn nhanh, trong vòng 3 tháng có thể xuất hầm, trọng lượng mỗi con từ 1,1kg – 1,3kg. Cá lóc giống lớn nhanh, xoay vòng vốn nhanh, lượng thức ăn cho cá cũng ít hơn nên bà con trong tổ hợp quyết định đồng loạt chuyển sang nuôi cá lóc giống, kết hợp nuôi heo.

Năm 2003 lũ lên cao, kéo dài nên lượng cá mồi dư dả, dễ kiếm. Vụ cá lóc mùa lũ năm ấy (tháng 8 – 11 Âm lịch), bà con lãi to. Tính bình quân, mỗi hộ thu nhập khoảng 30 triệu đồng/năm. So với thu nhập của xóm nghèo trước đây từ việc giăng lưới, làm thuê thì đây là con số rất ấn tượng. Nhà lá tạm bợ được thay dần bằng nhà tôn, vách cây. Nhiều hộ xây luôn nhà tường, mái ngói kiên cố. Anh Ngô Thanh Vững, tổ trưởng tổ nuôi cá nói vui: “Nhiều hộ trong xóm chúng tôi chưa xây nhà tường là còn chờ… coi ngày lành tháng tốt. Chứ tui biết là hiện giờ nhiều bà con dư sức xây nhà rồi. Cái nhà có thể chưa xây, nhưng đồ đạc trong gia đình thì nhà nào cũng có tivi, đầu đĩa, xe máy xịn”.

“Hiệu ứng đômimô”

Cá lóc ăn mồi sống, nếu cứ bỏ tiền ra mua thức ăn thì lãi không cao. Từ khi nuôi cá lóc, một nghề mới thu hút nhiều người đã xuất hiện ở khu phố 1, nhất là trẻ em và người già, đó là… bắt ốc bươu vàng - món ăn mà cá lóc rất thích. Vào sáng sớm và chiều tối, lúc trời mát, những con ốc vàng hực trừng đầu lên, chuẩn bị phá lúa thì bị ngay những cái vợt hớt lên, cho vào bao. Anh Ngô Thanh Vững làm thử bài toán: “Một mẫu ruộng bị ốc bươu vàng phải tốn khoảng 400 ngàn đồng thuốc diệt ốc. Chi phí cao mà lại ảnh hưởng đến môi trường. Bây giờ ruộng có ốc cứ kêu chúng tôi lại, bắt sạch”. Mỗi người nếu chịu khó trong 1 tuần có thể bắt được cả tấn ốc. Các em nhỏ cũng có thể phụ giúp gia đình bằng cách ra đồng “lượm” ốc, vừa góp phần bảo vệ lúa vừa tạo thu nhập (ốc giá 500đ/kg). Một vụ nuôi cá 3 tháng ở khu phố 1 có thể tiêu thụ khoảng 500 tấn ốc bươu vàng!

Bà con nuôi cá cho biết, vấn đề vốn không quan trọng - vì đã có chính sách cho vay thông thoáng của ngân hàng NN&PTNT, ngân hàng chính sách xã hội huyện; kỹ thuật nuôi cá cũng không còn là vấn đề lớn đối với hầu hết người nuôi. Còn thị trường tiêu thụ thì rất lớn, cả trong và ngoài nước. Hiệu quả của bài toán nuôi cá lóc rất rõ ràng: ao nuôi 100m2, thả 2.000 con giống; sau 3 tháng thu hoạch 1,8 tấn cá, chi phí 20 triệu, bán cá 35 triệu... Những hộ có diện tích mặt ao vài trăm mét vuông như anh Hồ Văn Hữu (danh hiệu “Nông dân sản xuất giỏi” 6 năm liền), anh Ngô Thanh Vững, anh Phạm Công Hòa, mỗi đợt thu hoạch đều đạt trên dưới 3 tấn cá.

Đấu Danh


Sóc Trăng: Khởi động dự án nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa tại huyện Ngã Năm

Nguồn tin: Sóc Trăng, 31/05/2007
Ngày cập nhật: 4/6/2007

Đó là ý kiến kết luận của Hội đồng khoa học tỉnh Sóc Trăng tại buổi hội thảo thuyết minh đề cương dự án “ nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa tại huyện Ngã Năm”, do Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức.

Theo đề cương, dự án trên có tổng diện tích là 4 ha; trong đó, dự án canh tác lúa là 3,2 ha, còn lại là ao nuôi tôm. Dự án được tiến hành khảo sát chọn 4 hộ tại huyện, có điều kiện về nguồn nước và tâm huyết thực hiện dự án là: triển khai tập huấn cho nông hộ về cải tạo ao và qui trình nuôi. Các bước tiếp theo trong thực hiện dự án là: cải tạo ao nuôi, và phân tích môi trường, chuẩn bị giống và và tiến hành thả giống; theo dõi quá trình sinh trưởng, chăm sóc; tổ chức tham quan và hội thảo đầu bờ ... sản phảm thu hoạch àm dự án hướng tới là tôm càng xanh thương phẩm đạt chất lượng về vệ sinh an toàn thực phẩm, năng suất đạt từ 720 - 800 kg/ha. Tổng thu nhập từ mô hình sản xuất này là trên 99,4 triệu đồng.

Đây là dự án ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nuôi thực nghiệm tôm càng xanh trong ruộng lúa lần đầu tiên tại huyện Ngã Năm, nhằm góp phần đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, tăng thu nhập cho nông hộ và thúc đẩy phong trào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện. Tổng kinh phí của dự án là trên 142,4 triệu đồng; trong đó một phần là do kinh phí của sự nghiệp khoa học của tỉnh hỗ trợ, phần còn lại là vốn đối ứng của nông dân.


Có nên nuôi cá ở lung Ngọc Hoàng?

Nguồn tin: KTSG, 2/6/2007
Ngày cập nhật: 3/6/2007

Lung Ngọc Hoàng thuộc huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang được ví như một lá phổi xanh của ĐBSCL với rừng tràm có đặc thù sinh thái hết sức quý giá (*). Tuy nhiên, nơi đây đang bị con cá da trơn “xâm lấn” với những ao cá cứ tiếp nối nhau mọc lên.

Năm 2005, UBND tỉnh Hậu Giang có chủ trương cho quy hoạch 30 héc ta đào ao nuôi cá da trơn theo quy mô công nghiệp tại lung Ngọc Hoàng sau khi một số ao nhỏ nuôi thử nghiệm thành công. Hiện đã có khoảng 18 ao được đào với diện tích khoảng 0,5 héc ta/ao và có thể được nâng lên 100 héc ta.

Tuy nhiên, việc quy hoạch vùng nuôi cá công nghiệp ở lung Ngọc Hoàng là điều khó chấp nhận. Theo Tiến sĩ Dương Văn Ni, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu- Thực nghiệm- Đa dạng sinh học Hòa An (trường Đại học Cần Thơ), Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định biến lung Ngọc Hoàng thành khu bảo tồn từ năm 2002. “Vì thế, không thể phá vỡ cảnh quan bằng những ao nuôi cá bao la, trống hoác”, ông Ni nói.

Dù rằng rừng có khả năng lọc nước, làm sạch môi trường, nhưng nguồn nước thải từ việc nuôi cá cũng cần phải được xử lý bằng hệ thống ao lắng, lọc... trước khi thải ra bên ngoài. “Nếu thải trực tiếp không qua xử lý, nguồn nước này có thể khiến những cây tràm nhỏ bị chết hàng loạt”, ông Ni nói.

Mới đây, theo một cán bộ lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc quy hoạch vùng nuôi cá ở lung Ngọc Hoàng không gây ảnh hưởng nhiều đến rừng, vì địa điểm quy hoạch vốn là đất dành cho cây mía và nằm bên ngoài rừng. Chỉ do trong quá trình thực hiện, ban giám đốc khu bảo tồn đã sai sót khi cho triệt hạ cả một phần diện tích rừng để đào ao. Trong khi đó, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, đồng quản lý dự án của Chương trình Bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước lưu vực sông Mêkông, khẳng định: “Đã là khu bảo tồn thì về nguyên tắc, con người không được tác động vào, dù là ở vùng đệm”.

Trên thực tế, theo một số nhà khoa học, lung Ngọc Hoàng hiện chỉ còn vài trăm héc ta đất còn giá trị đa dạng sinh học, phần lớn diện tích còn lại là đất sản xuất. Và với diện tích không lớn - chỉ khoảng 2.800 héc ta - lại nghèo nàn các loại động thực vật... nên cũng khó phù hợp với quy mô, tiêu chí của một khu bảo tồn. Mặt khác, hiện nay có gần 800 người dân đang sinh sống, ra vào thường xuyên ở khu bảo vệ nghiêm ngặt khiến công tác bảo tồn càng khó khăn, nhất là khi chuyện tranh chấp giữa mục đích bảo tồn có cho sinh lợi (khai thác có kiểm soát) và bảo tồn nghiêm ngặt vẫn còn đang là vấn đề gây tranh cãi. Cái nghèo khiến người dân vẫn lén lút vào khu bảo tồn đánh bắt cá, khai thác mật ong, cây tràm... Do đó gần đây, ý định biến lung Ngọc Hoàng thành nơi khai thác du lịch cũng đã được một số người đề cập.

Trước đây, một số nhà đầu tư người Anh cũng từng đến tham quan lung Ngọc Hoàng và bị hấp dẫn bởi cảnh quan, sinh thái tại đây. Theo ông Ni, sau chuyến tham quan đó, các nhà đầu tư này có ý định dành gần 16 triệu đô la Mỹ để biến nơi này thành khu du lịch sinh thái. “Chỉ riêng cái tên lung Ngọc Hoàng kỳ bí đã đủ lôi kéo khách đến, nói chi đến nhu cầu nghỉ dưỡng... ngày càng cao của các chuyên gia, doanh nhân ở các vùng xung quanh”, ông Ni nói. Tuy nhiên, khi Thủ tướng Chính phủ có quyết định thành lập khu bảo tồn ở lung Ngọc Hoàng thì các nhà đầu tư người Anh đành rút lui. Tuy nhiên, giả như lung Ngọc Hoàng có trở thành địa điểm du lịch, thì theo ông Ni, cũng không thể cho phép những ao nuôi cá công nghiệp mọc lên, tàn phá cảnh quan, môi trường sinh thái!

Chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như lung Ngọc Hoàng chỉ là một khu rừng tràm thông thường. Bởi theo ông Ni, nếu tình trạng kiệt nước vào mùa khô cứ ngày một trầm trọng thì giải pháp tốt là tận dụng những vùng đất trũng, có đê bao khép kín ở ĐBSCL để làm nơi dự trữ nước. Nếu thực hiện theo cách này để cân bằng lại sinh thái ban đầu của vùng ĐBSCL thì theo ông, vùng đất trũng có rừng - rất tốt để giữ nước lâu bốc hơi - như ở lung Ngọc Hoàng rất thích hợp làm nơi trữ nước. Và khi đó, chuyện nuôi cá ở đây là phù hợp bởi mực nước vào mùa khô có thể giữ cao trên một mét, nông dân không thể canh tác lúa hoặc cây màu.

Tuy nhiên, lâu nay chưa ai đề cập đến mục đích quy hoạch lung Ngọc Hoàng trở thành nơi trữ nước nên không có lý do gì để các nhà quản lý cho phép các ao nuôi cá công nghiệp mọc lên ở đây!

Hồ Hùng


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang