An Giang: Kỷ luật chủ tịch UBND xã, phường nếu để phát triển thủy sản tràn lan
Nguồn tin: SGGP, 21/06/2007
Ngày cập nhật: 21/6/2007
Trước tình trạng phát triển thủy sản tràn lan, UBND tỉnh An Giang vừa có chỉ thị "tăng cường quản lý về nuôi thủy sản". Theo đó, tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng công bố quy hoạch chi tiết về nuôi thủy sản (gồm cá tra, ba sa, tôm, cá lóc…) để người dân được biết. Từng hộ nuôi phải đăng ký diện tích và sản lượng với chính quyền địa phương, nuôi phải đảm bảo môi trường… Vùng nuôi gắn với nhà máy chế biến, đẩy mạnh nuôi sạch, chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Tỉnh cũng yêu cầu các địa phương rà soát lại và quản lý được diện tích nuôi thủy sản, chấm dứt việc nuôi tự phát ngoài quy hoạch. Nếu nơi nào không thực hiện tốt thì chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn sẽ bị kỷ luật.
HUỲNH LỢI
An Giang: Đào hầm nuôi cá tra - cần theo qui hoạch phát triển bền vững
Nguồn tin: AG, 20/6/2007
Ngày cập nhật: 21/6/2007
Từ gần cuối năm 2006, nhất là từ đầu năm 2007 trở lại đây, do tình hình giá cá tra biến động theo chiều hướng có lợi cho người nuôi, ở một số tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung, ở An Giang nói riêng đã có nhiều tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự phát đào ao nuôi cá với quy mô lớn, không theo quy hoạch, không đảm bảo về xử lý môi trường và diện tích nuôi cá đang tăng rất khó kiểm soát, điều này đang đe dọa sự phát triển bền vững của ngành thủy sản.
Nhằm tăng cường quản lý Nhà nước về phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh, đảm bảo mục tiêu phát triển nhanh và bền vững ngành thủy sản trong thời gian tới, tháng 5 vừa qua, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã có Chỉ thị về việc tăng cường quản lý nhà nước về phát triển nuôi trồng thủy sản, theo đó Ủy ban nhân dân huyện, thị, thành phố có trách nhiệm công bố quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản của địa phương để dân biết và thực hiện theo quy hoạch. UBND cấp xã, phường, thị trấn thông báo và tổ chức thực hiện việc các tổ chức, cá nhân phải đăng ký, kê khai diện tích nuôi trồng thủy sản của mình; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản, nhằm ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm và chấm dứt ngay việc tự phát đào ao nuôi cá của các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình trên địa bàn do cấp mình quản lý, kể cả diện tích trong quy hoạch mà không đăng ký với UBND xã. Chính quyền địa phương phối hợp với ngành chức năng hướng dẫn các tổ chức, cá nhân vi phạm thực hiện các biện pháp khắc phục theo quy định hiện hành; định kỳ hàng tháng báo cáo kết quả kiểm tra, xử lý vi phạm trong phạm vi quản lý của mình về Sở Thủy sản.
Sở Thủy sản chủ trì, phối hợp với các Sở ngành chức năng, UBND các huyện, thị xã, thành phố, Hiệp hội nghề nuôi và Chế biến thủy sản tỉnh An giang (AFA), các doanh nghiệp chế biến thủy sản, nhà đầu tư và các hộ dân nuôi trồng thủy sản xây dựng dự án phát triển vùng nguyên liệu thủy sản của các huyện, thị, thành phố đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời gian tới trên cơ sở rà soát, điều chỉnh Quy hoạch phát triển Thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Sở Thủy sản sẽ thẩm định các dự án phát triển vùng nguyên liệu thủy sản đúng trình tự thủ tục và đảm bảo giải quyết hài hòa lợi ích của các bên tham gia vùng dự án; quy định cụ thể cho các chủ thể nuôi trồng và chế biến xây dựng các vùng nuôi gắn với chế biến theo các tiêu chuẩn an toàn và chất lượng, các vùng nuôi với nguyên liệu sạch, sinh thái theo một tiêu chuẩn quốc tế mà thị trường cần. Trước nhất trên nền tảng tiêu chuẩn SQF đã hình thành, đẩy mạnh du nhập các tiêu chuẩn quốc tế khả dụng khác, kiên trì định hướng xây dựng vùng nuôi an toàn chất lượng. Tăng cường công tác kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống, thuốc thú y thủy sản, điều kiện vệ sinh thú y trong nuôi trồng thủy sản.
Chỉ thị của UBND tỉnh quy định trách nhiệm của Sở Tài nguyên và Môi trường là hướng dẫn thủ tục về đất đai và bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Tổ chức đăng ký bổ sung và định ra lộ trình phải hoàn thành đối với các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình đã lỡ đào ao nuôi cá, trước mắt là đối với những diện tích thuộc quy hoạch, sau đó là các diện tích đã được UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch bổ sung. Kiểm tra, xử lý, báo cáo với UBND tỉnh việc thực hiện quy định của pháp luật về đất đai và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại các địa phương theo định kỳ hàng tháng.
Riêng đối với Hiệp hội nghề nuôi và Chế biến thủy sản tỉnh An Giang (AFA) sẽ phối hợp cùng các cơ quan chức năng, UBND huyện thị, thành phố, các tổ chức đoàn thể tổ chức lại sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh. Vận động các hội viên thực hiện đúng chủ trương, pháp luật của Trung ương, địa phương trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Các Sở, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các cấp, phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục và hướng dẫn nhân dân thông hiểu các quy định của pháp luật về nuôi trồng thủy sản.
Chỉ thị nhấn mạnh: nơi nào không chấp hành, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xử lý kỷ luật thấp nhất là hình thức khiển trách đối với Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn và thông báo trong toàn huyện, đồng thời báo cáo về Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Khuyến khích mọi công dân phát hiện và báo cáo với cơ quan chức năng có thẩm quyền về mọi việc vi phạm của công dân và cán bộ.
Quang Tiến
Săn cá U Minh: lợi và hại
Nguồn tin: TT, 21/06/2007
Ngày cập nhật: 21/6/2007
Đầu năm 2004, Ban quản lý vườn quốc gia U Minh Thượng mở dịch vụ du lịch rừng. Chỉ sau vài tháng rừng U Minh Thượng trở thành điểm thu hút khách du lịch khắp nơi, mà “món” độc đáo nhất là câu cá trong những dòng kênh, trảng cỏ của rừng già.
Chiếc Toyota hai cầu bảy chỗ mang biển số Đồng Nai chạy rề rề trên con đường dẫn vào khu hồ Hoa Mai rồi tấp vào một bờ lau sậy cao lút đầu. Những người trên xe tay xách nách mang lỉnh kỉnh nào cần câu, ghế ngồi, dù che nắng, thùng đựng cá lặng lẽ tản ra mỗi người một góc.
Khu hồ rộng mênh mông. Họ nhanh chóng móc những chú nhái bén còn nhảy soi sói vào lưỡi câu bén ngót, rồi quay cần câu máy quăng mồi nghe rào rào. Buổi câu bắt đầu.
Đệ nhất cá đồng
Sơn, một thợ câu dáng người chắc nịch vừa chăm chú rê con nhái mồi len lỏi giữa những đám bèo và rong cỏ trên mặt hồ, vừa vui vẻ cho chúng tôi biết nhóm câu của anh đến từ Long Khánh, Xuân Lộc (Đồng Nai) và đây là lần thứ tư cả nhóm vào câu trong rừng U Minh Thượng.
“Tụi tui đã đi câu giáp xứ rồi, từng vào tận Tràm Chim, Tam Nông (Đồng Tháp), xuống Cà Mau rồi ngược lên rừng tràm tứ giác Long Xuyên nhưng chưa thấy ở đâu cá nhiều như rừng U Minh Thượng. Mỗi chuyến một người trong nhóm câu tệ lắm cũng được 5-7kg cá lóc. Nơi đây đúng là xứ... đệ nhất cá đồng”, Sơn nói.
Con nhái mồi đang được Sơn kéo nhảy loi nhoi trên mặt nước thì một tiếng “phập” vang lên, nước văng tung tóe. Sơn nhịp nhẹ cần rồi ghì chặt, tay từ từ quay cuộn cước, mắt chăm chú nhìn sợi dây câu căng như dây đàn chạy qua chạy lại trên mặt nước.
Chỉ một lúc sau chú cá lóc đen sì to bằng bắp tay người lớn đành chịu thua, để mặc cho Sơn lôi vào bờ. Gỡ con cá bỏ vào thùng, Sơn cười tươi rói: “Con này chưa thấm tháp gì, ở mấy trảng cỏ, bàu sâu trong rừng cá lóc con nào cũng... có râu!”.
Phía bên kia hồ các “chiến hữu” của Sơn cũng lần lượt giật dính cá, ai nấy mặt mày hớn hở. Nam, một thợ câu trong nhóm, nói vui: “Câu cá tự nhiên mà giống như câu... cá nuôi trong hồ, đã thiệt”.
Chúng tôi đi sâu vào khu du lịch vườn quốc gia U Minh Thượng. Dọc con đường nhựa dẫn vào hồ Hoa Mai xe du lịch hai cầu đời mới đậu la liệt, phần lớn là xe mang biển số TP.HCM và các tỉnh miền Đông Nam bộ.
Anh Nguyễn Văn Nhiên, trưởng phòng quản lý du lịch của vườn quốc gia, cho biết mỗi tháng dịch vụ câu cá đón gần 2.000 khách là dân mê câu chuyên nghiệp từ miền Đông Nam bộ trở vào, doanh thu gần cả trăm triệu đồng/tháng.
“Chủ yếu là nguồn thu phí dịch vụ: muốn vào rừng câu cá khách phải mua vé giá 40.000 đồng/người/ngày là được quyền thả câu ở bất cứ nơi đâu, cá câu được bao nhiêu cứ mang về bấy nhiêu; nếu muốn thưởng thức thành quả thì nhà hàng của khu du lịch sẵn sàng đáp ứng khâu chế biến với gia vị là các loại rau rừng đặc sản như trái giác, đọt choại...
Nhưng những tay câu sừng sỏ thường xuống vườn quốc gia trước một ngày, tìm nhà trọ tá túc qua đêm để sáng sớm thuê vỏ lãi của khu du lịch chở vào ruột rừng câu cá lớn.
“Phí dịch vụ này là 30.000 đồng/người, sáng 7g đưa vô rừng, chiều 17g rước về, ăn uống khách tự lo nhưng tuyệt đối cấm mang theo lửa”, anh Nhiên cho biết.
Tài, một thợ câu đến từ miệt Bình Phước, nói nhóm thợ câu của anh sẵn sàng bỏ thêm tiền để được vào rừng sâu câu cá, bởi chỉ có ở đó họ mới có cơ hội giật được những con cá rô mề to bằng bàn tay người lớn, những con cá trê vàng nặng cả ký lô hoặc những con lóc già 2-3kg đen trũi.
“Giá” của du lịch rừng
Có thể nói dịch vụ du lịch câu cá trong vườn quốc gia U Minh Thượng đang trở thành điểm đến lý tưởng của những ngày nghỉ cuối tuần.
Anh Nhiên và các cán bộ, nhân viên khu du lịch cho chúng tôi biết ngày thứ bảy, chủ nhật xe hơi, xe gắn máy từ các nơi đến đậu chật kín bãi xe, phục vụ khách bở hơi tai.
Nhưng cũng như nhiều khu du lịch xanh, du lịch sinh thái ở ĐBSCL, dịch vụ du lịch rừng ở U Minh Thượng đang đối mặt với nguy cơ ô nhiễm do các loại rác thải của khách du lịch để lại.
Ở rất nhiều nơi trong rừng, quanh các gốc tràm, bờ sậy, dưới các con kênh bao nilông, bao xốp và chai nhựa đựng nước uống là hai loại rác phổ biến nhất mà chúng tôi bắt gặp. Anh Nguyễn Văn Nhiên thừa nhận: “Chúng tôi không thể đặt thùng rác trong rừng để phục vụ khách du lịch vì vườn quốc gia có rất nhiều khỉ, đặt thùng rác là chúng phá ngay”.
Giải pháp xử lý rác tối ưu mà những người làm du lịch ở vườn quốc gia U Minh Thượng chọn lựa là mỗi tuần vào ngày thứ năm tất cả cán bộ, công nhân viên đều phải tham gia lao động tập thể, trong đó hai công việc quan trọng nhất là dọn cỏ và rác thải.
“Nhưng rác thì không thể dọn sạch 100% bởi khi đưa khách vô rừng để họ cả ngày trong đó chúng tôi đâu biết họ đi đâu để mình đi theo... dọn rác”, một nhân viên khu du lịch nói.
Ngoài mối lo rừng bị ô nhiễm rác, những bậc cao niên ở U Minh Thượng còn lo với tốc độ săn bắt ồ ạt như hiện nay, trong tương lai cá trong vườn quốc gia U Minh Thượng sẽ lần hồi cạn kiệt.
Ông Bành Văn Đởm, nguyên giám đốc vườn quốc gia, tác giả của khu du lịch hồ Hoa Mai, bức xúc:
“Vườn quốc gia “mở cửa” cho khách du lịch tràn vào bắt cá ồ ạt kiểu này liệu cá có kịp sinh sản để phục vụ nhu cầu săn cá của khách? Tôi nhớ mấy năm trước cá lóc 4-5kg/con ở U Minh Thượng không thiếu nhưng nay cá lớn hầu như vắng bóng. Theo tôi, tận dụng thiên nhiên để làm du lịch cũng tốt, nhưng vườn quốc gia cũng phải dành riêng một khu vực cấm săn bắt để đàn cá có điều kiện sinh sản, phục hồi”.
HÙNG ANH
ĐBSCL: Cá tra nguyên liệu và trái cây... đều tuột giá
Nguồn tin: SGGP, 21/06/2007
Ngày cập nhật: 21/6/2007
ĐBSCL, tôm không sạch bệnh – Nông dân sạch túi!
Nguồn tin: SGGP, 20/06/2007
Ngày cập nhật: 21/6/2007
Vụ tôm sú năm 2007 đã bước vào gần 3 tháng, thế nhưng, hiện tượng tôm bị chết đang xảy ra trên diện rộng ở các tỉnh ĐBSCL như: Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng… đã làm thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của nông dân. Tôm chết hàng loạt không chỉ do thời tiết mà vấn đề con giống kém chất lượng là hệ lụy cần được quan tâm…
Lận đận con tôm đồng bằng!
Nuôi tôm: sinh nghề tử nghiệp?
Cũng như các tỉnh ven biển ĐBSCL, mùa vụ nuôi tôm sú ở Trà Vinh năm 2007 rộn ràng và sôi động hẳn lên từ tháng Chạp do sức hút của thị trường, giá tôm tăng vọt đột biến nên bất kể khuyến cáo của các nhà khoa học, nông dân vẫn tìm mua con giống trôi nổi, chất lượng kém về thả nuôi.
Và hệ lụy sau đó là 90% tôm nuôi “ngoài luồng” bị mất trắng. Theo thống kê của ngành chức năng, đến trung tuần tháng 5-2007, trong hơn 1,77 tỷ con tôm giống thả nuôi trên diện tích gần 23 ngàn héc-ta của tỉnh, hơn 350 triệu con đã bị chết. Thiệt hại nặng nhất là huyện Duyên Hải, trong hơn 10.000 hộ thả nuôi thì có hơn 3.458 hộ tôm nuôi bị chết, số tôm giống thiệt hại trên 225 triệu con.
Điều đáng quan tâm là không chỉ tôm nuôi nghịch vụ mà ngay cả tôm nuôi đúng thời vụ cũng chết hàng loạt. Như vậy, chỉ tính riêng phần con giống (mỗi con 20 đồng) thì người nuôi tôm đã mất trắng hàng tỷ.
Anh Dương Quang Đông (ngụ xã Long Toàn, có hơn 5 năm “theo nghiệp” nuôi tôm) ngao ngán kể: “Nông dân mình hám lợi, đầu vụ thấy tôm giống giá rẻ, không rõ nguồn gốc cũng thả nuôi không nghe theo khuyến cáo về thời vụ của các nhà khoa học. Cái khổ nhất của người nuôi là bằng mắt thường khó có thể chọn được tôm giống sạch bệnh. Mà tôm chết là mầm bệnh lây lan làm ảnh hưởng đến môi trường nuôi. Giấc mơ “con tôm ôm xe cub” giờ đã lùi xa, nông dân nuôi tôm ai cũng nợ ngân hàng ngập cổ”.
Hiện tượng tôm nuôi chết trên diện rộng ngoài yếu tố thời vụ, môi trường thì yếu tố con giống chất lượng kém là vấn đề nóng bỏng cần đáng báo động. Còn nhớ năm ngoái cũng đúng vào thời điểm này, tại hội nghị giao ban ngành thủy sản vùng Đông – Tây Nam bộ tổ chức tại Cần Thơ, Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc đánh giá: “Nguyên nhân khiến tôm chết ở nhiều địa phương chính là chất lượng giống không đảm bảo, môi trường nuôi ngày một suy thoái nghiêm trọng…”.
Và thực tế mùa tôm mới năm 2007, căn bệnh cũ theo bức xúc của Bộ trưởng Ngọc vẫn chưa được khắc phục.
“Sinh nghề tử nghiệp”?
Hàng năm, nghề nuôi tôm sú các tỉnh ven biển ĐBSCL nhu cầu từ 25 đến 30 tỷ con tôm giống. Thế nhưng, nguồn con giống sản xuất tại chỗ chỉ đáp ứng được 40%, số còn lại phải nhập từ các tỉnh miền Trung,Vũng Tàu. Cầu vượt cung đã làm “nở rộ” phong trào “nhà nhà sản xuất giống”, tỉnh nào cũng ồ ạt phát triển trại sản xuất giống. Song có một nghịch lý là do năng lực chuyên môn của các cơ sở sản xuất giống tại chỗ còn nhiều hạn chế nên chất lượng con giống sản xuất ra còn lắm chuyện phải bàn. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trên lĩnh vực con giống vừa thiếu, vừa hạn chế chuyên môn nên “đầu vào” và “đầu ra” con tôm giống vẫn còn trôi nổi.
Chỉ tính riêng ở Trà Vinh, trong 1,77 tỷ con giống thả nuôi đến thời điểm này chỉ có khoảng hơn 350 triệu con qua kiểm dịch, còn lại gần 80% lượng con giống không kiểm soát được. Cuối cùng cái thiệt vẫn thuộc về nông dân - người nuôi tôm.
Theo khuyến cáo của các nhà khoa học, giải pháp để phát triển bền vững nghề nuôi tôm sú ở ĐBSCL là đẩy mạnh chương trình giống “sạch bệnh” đi đôi với đầu tư thủy lợi; nông dân nên đẩy mạnh mô hình nuôi luân canh “1 vụ tôm – 1 vụ lúa” hay “1 vụ tôm - 1 vụ cá, cua xuất khẩu”.
Để làm được điều này, bài toán cần giải là đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng, nâng cao kiến thức, kỹ thuật nuôi và tăng cường quản lý nhà nước về con giống, quản lý tốt vùng nuôi.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo - Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II TPHCM - cảnh báo: “Trước dịch bệnh tôm ngày một lan rộng đáng báo động, các ngành, các cấp và nhà khoa học cần quan tâm, kiểm nghiệm lại thực tiễn sản xuất ở địa phương mình. Hàng ngàn nông dân ĐBSCL giàu lên từ nuôi tôm. Nhưng cũng từ nuôi tôm, những năm gần đây hàng ngàn hộ đã “rớt” trở lại diện nghèo khó, nợ ngân hàng chồng chất”.
Đình Cảnh
Cần cơ chế giám sát giá thu mua nguyên liệu thủy sản
Nguồn tin: CT, 19/6/2007
Ngày cập nhật: 20/6/2007
Trong những ngày qua, giá cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL chỉ còn từ 11.800 -12.000 đồng/kg (cá nuôi hầm, thịt trắng), đầu ra rất hạn chế. Nguy cơ thua lỗ từ vụ cá tra này đã hiện ra trước mắt nhiều người nuôi cá.
Lý giải về nguyên nhân cá tra rớt giá, các nhà máy chế biến cho rằng trong lúc thị trường xuất khẩu khó khăn, nhà máy giảm chế biến thì nông dân thu hoạch rộ diện tích nuôi cá, nên chuyện cá rớt giá là theo qui luật thị trường.
Cùng thời gian này, con tôm sú ở ĐBSCL cũng đồng cảnh ngộ với con cá tra khi mới vào vụ thu hoạch giá đã rớt. Tại Trà Vinh, Cà Mau tôm sú loại 40 con/kg (loại nhiều nhà máy cần) chỉ còn 85.000đồng/kg, giảm 5.000 đồng/kg so ít ngày trước đó. Tôm sú các loại khác cũng giảm 2.000-3.000 đồng/kg.
ĐBSCL có gần 5.000ha mặt nước nuôi cá tra, 500.000ha nuôi tôm với hơn 100 cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu, công suất chế biến đạt gần 700.000 tấn/năm. Trong đó, gần 50 nhà máy chế biến cá tra có công suất thiết kế đạt hơn 300.000 tấn/năm, hơn 50 nhà máy chế biến tôm với công suất đạt 400.000 tấn/năm. Trong những tháng đầu năm, ĐBSCL có thêm khoảng 5 nhà máy chế biến thủy sản đi vào hoạt động. Xét về năng lực chế biến, thì hiện nay sản lượng cá tra đã cơ bản đáp ứng nhu cầu. Riêng đối với con tôm sú, những năm sản lượng đạt cao nhất cũng chỉ đáp ứng 70% nguyên liệu cho nhà máy. Năm nay, diện tích nuôi tôm sú trong cả nước chỉ còn gần 600.000 ha, giảm hơn 10.000 ha so với năm 2005. Do nông dân nuôi thâm canh nhiều năm, môi trường bị ô nhiễm, nên nhiều ao nuôi tôm ở Cà Mau, Sóc Trăng và một số tỉnh vùng duyên hải Bắc bộ như: Quảng Ninh, Hải Phòng đang bùng phát dịch bệnh. Dự báo sản lượng tôm sú năm nay sẽ giảm mạnh, chỉ đáp ứng 50% nhu cầu nguyên liệu cho nhà máy.
Theo thống kê của Bộ Thủy sản: từ năm 2004 đến nay, giá xuất khẩu mặt hàng cá tra chế biến luôn đạt từ 3,5-4USD/kg, tôm qua chế biến đạt 11-15 USD/kg. Theo tính toán của doanh nghiệp chế biến thủy sản, tỷ lệ thu hồi sản phẩm/nguyên liệu đối với mặt hàng cá tra là 1/2,8 (chế biến 2,8 kg cá tra sẽ thu hồi được 1kg thành phẩm), đối với mặt hàng tôm tỷ lệ này là 1/1,6. Như vậy, giá thành phẩm trước chi phí sản xuất, thuế 1kg thành phẩm mặt hàng cá tra khoảng 35.000đồng/kg(bằng 54% so với giá xuất khẩu). Đối với mặt hàng tôm, thì với giá tôm như hiện nay giá thành sản xuất trước khi trừ chi phí, thuế cũng chỉ khoảng 40.000 đồng/kg( bằng 72% so với giá xuất khẩu).
Trong lúc giá xuất khẩu ổn định, mức cung nguyên liệu vẫn chưa vượt cầu, nhưng vì sao lại có tình trạng giá nguyên liệu cá tra và tôm sú lại rớt “thê thảm”? Có thể nói, thời gian qua giá cả mặt hàng nguyên liệu thủy sản không phải do sự chi phối bởi quy luật cung cầu, mà chịu sự tác động chủ quan của doanh nghiệp chế biến, điều đó thể hiện ở chỗ: Vào thời điểm nhiều doanh nghiệp cần hàng xuất khẩu thì họ tự “đấu đá” nhau để mua nguyên liệu, lúc đó nông dân sẽ được lợi. Ngược lại, ở thời điểm doanh nghiệp có ít đơn đặt hàng xuất khẩu thì họ cũng liên kết làm eo, làm sách để hạ giá mua nguyên liệu của nông dân. Thực trạng này đã làm cho diễn tiến thị trường nguyên liệu thủy sản “nóng,lạnh” thất thường, người nuôi thủy sản phải gánh chịu rủi ro khôn lường.
Để ngăn chặn sự liên kết tăng giá của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, Bộ Thương mại đã ban hành cơ chế giám sát giá cả mặt hàng này. Thiết nghĩ, thời gian tới, Bộ Thương mại cũng cần xây dựng một cơ chế giám sát về giá thu mua nguyên liệu thủy sản của doanh nghiệp chế biến, nhằm khống chế tình trạng doanh nghiệp liên kết “đè” giá thu mua thủy sản nguyên liệu của nông dân.
PHÚ KHỞI
ĐBSCL, cá tra tiếp tục rớt giá
Nguồn tin: SGGP, 20/06/2007
Ngày cập nhật: 20/6/2007
Giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL tiếp tục giảm trong mấy ngày qua. Tại An Giang, Đồng Tháp, giá cá tra nuôi hầm thịt trắng chỉ còn 11.800-12.000đ/kg; cá tra bè có giá 11.500đ/kg; cá tra thịt vàng giá giảm chỉ còn 11.000-11.200đ/kg, giảm từ 800-1.000đ/kg so với tuần trước.
Hiện nay, tại An Giang, Đồng Tháp vẫn còn rất nhiều hầm cá đã tới lứa thu hoạch nhưng nông dân chưa bán được. Hiện các doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu vẫn chưa có dấu hiệu tăng công suất chế biến hay tăng giá mua. Dự báo, giá cá tra nguyên liệu sẽ tiếp tục giảm. Nhiều “nhà đầu tư” tay ngang nuôi cá theo phong trào đang lo sốt vó.
TRẦN MINH TRƯỜNG
Miền Trung và ĐBSCL: Tôm chết... liên tỉnh
Nguồn tin: SGGP, 20/06/2007
Ngày cập nhật: 20/6/2007
Tháng 6, nắng nóng đỉnh điểm và kéo dài tại các tỉnh miền Trung khiến nồng độ mặn trong nước biển tăng cao, nguồn nước ngọt ngầm tụt sâu, môi trường ô nhiễm trầm trọng… cũng là tháng của dịch tôm bùng phát mạnh lây lan nhanh. Theo thống kê sơ bộ của ngành thủy sản từ Thừa Thiên – Huế đến Bình Định, ít nhất đã có gần 2.400 ha diện tích thả nuôi bị dịch bệnh, kéo theo hàng ngàn hộ dân điêu đứng vì nợ nần đã lên tới con số tỷ đồng.
Đến hẹn... tôm chết!
Dường như năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng thời gian này, tôm thả nuôi vụ 1 tại các tỉnh ven biển miền Trung lại chết như ngả rạ. Tại TT - Huế, đến giữa tháng 6, có hơn 800/2.848 ha hồ tôm đã thả nuôi ở các huyện Phú Vang, Phú Lộc, Quảng Điền, Hương Trà bị nhiễm bệnh, làm chết hơn 60 triệu con tôm nuôi từ 20 - 60 ngày tuổi, gây thiệt hại cho người dân hơn 13 tỷ đồng.
Do không có hệ thống xử lý nước thải, cánh đồng nuôi tôm ở xã Đức Phong (Mộ Đức, Quảng Ngãi) đã gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Ảnh nhỏ: Anh Lê Pháp ở xã Nghĩa Phú (Tư Nghĩa, Quảng Ngãi) gom tôm chết vì ô nhiễm. Ảnh: H.M.
Ông Đặng Văn Dũng, chủ 7 hồ nuôi tôm ở xã Phú Xuân, huyện Phú Vang thất thần cho biết dịch bệnh năm nay đến sớm, lại lây lan nhanh hơn so với mọi năm, và vẫn chưa có dấu hiệu cho thấy dịch bệnh đã được khống chế. Ông Dũng nói: “Số dư nợ của nhà tui do vay để nuôi tôm đã lên tới trên 300 triệu. Khi chưa nuôi tôm, tui đâu biết nợ nần là chi. Vậy mà bây chừ gánh trên vai món nợ khổng lồ, chuyện mất ăn, mất ngủ ở xã này vì tôm có đến gần 1.000 hộ… số dư nợ nghe, đâu chỉ riêng trong đã gần 30 tỷ”. Hơn 10 năm, chưa bao giờ con tôm gây nhiều nỗi bất an cho người nuôi như thời điểm hiện nay.
Ông Nguyễn Thanh Hồng (ở xã Tam Hòa, Núi Thành, tỉnh Quảng Nam) cho biết, mấy đêm rồi ông hốc hác vì mất ngủ. Thả nuôi 5 sào đập ven sông Trường Giang và dù tôm nuôi của ông phát triển bình thường, nhưng vì thấy các hồ chung quanh đã bị bệnh, nên ông luôn canh chừng; thức suốt đêm chạy ôxy cho tôm vì sợ tôm nổi đầu. Đến thời điểm hiện tại, Quảng Nam cũng có gần 400 ha diện tích thả nuôi bị dịch bệnh. Mấy hôm nay, anh Lê Pháp ở thôn Cổ Lũy Bắc Vĩnh Thọ, xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa (tỉnh Quảng Ngãi) hết ngụp lặn dưới lòng hồ, lại lững thững đi quanh bờ để nhặt tôm chết, rồi đem chôn.
Nói đến chuyện nuôi tôm, anh buồn chẳng muốn nhếch miệng. “Tôm, cua gì đâu… ôi thôi chết trụi. Mới thả nuôi lại, cũng chết nữa rồi”. Lần 1, anh thả nuôi 30 vạn con tôm giống thẻ chân trắng, tôm chưa kịp lớn đã bị chết sạch, thiệt hại 31 triệu đồng. Xử lý lại hồ, anh tiếp tục thả nuôi lần 2 là 36 vạn con, đến nay tôm lớn bằng chiếc đũa con, song đã bị chết khoảng 30%... Còn tại tỉnh Bình Định, theo Sở Thủy sản, toàn tỉnh hiện có trên 600 ha tôm nuôi bị bệnh, chiếm 28,3% diện tích nuôi thả. Tại thôn Huỳnh Giảng, huyện Tuy Phước, người nuôi tôm đã nợ trên 30 tỷ đồng… từ gần 10 năm nay vẫn chưa thể thanh toán.
Bệnh cũ!
Câu trả lời mà chúng tôi nhận được về tác nhân gây bệnh trên tôm tại các cơ quan chuyên môn lại chẳng có gì mới so với những năm trước. Đại diện ngành thủy sản Thừa Thiên – Huế cho rằng: do thời tiết diễn biến phức tạp, mầm bệnh đã có sẵn do nguồn nước đã bị ô nhiễm, con giống chất lượng kém; do thức ăn của tôm không đảm bảo vệ sinh công nghiệp; do các địa phương thiếu kinh phí để dập dịch; do vẫn chưa tìm ra thuốc đặc hiệu để trị bệnh đốm trắng...
Ông Phạm Minh Tuấn, Giám đốc Sở Thủy sản tỉnh Quảng Ngãi cho rằng: Do đầu tư hạ tầng kỹ thuật ở vùng nuôi tôm chưa đồng bộ, hầu như các xã bước đầu chỉ quy hoạch, phân lô cấp đất cho dân làm hồ nuôi tôm, nhưng việc đầu tư hạ tầng còn bỏ ngỏ. Ngoài ra, UBND tỉnh Quảng Ngãi chưa phân khai vốn đầu tư hạ tầng cho vùng nuôi tôm trên cát... Tỉnh Quảng Nam cũng chẳng có gì mới: để ngăn chặn hiện tượng tôm nuôi chết hàng loạt, trước hết phải xử lý triệt để những ao nuôi đã bị bệnh. Ao có tôm chết vì virus đốm trắng phải khử trùng nước và đáy ao bằng Clorin 30 - 50ppm; phải gây màu nước tốt và luôn kiểm tra không để xảy ra hiện tượng này… đây là chữa bệnh theo kiểu “phủi nóng” và “thuốc” dường như đã mất tác dụng…
Cái mà người nuôi tôm cần là những hoạch định mang tính chiến lược và những giải pháp hiệu quả để các vụ sau không còn xảy ra dịch bệnh thì ngành thủy sản các địa phương này vẫn đang loay hoay và... chịu không dám đưa ra một câu trả lời mang tính đảm bảo! Bởi khi hỏi ai cũng biết nguyên nhân của mọi nguyên nhân là đã để phong trào nuôi tôm phát triển ồ ạt đến mức không còn kiểm soát được, dẫn đến môi trường nuôi tôm bị quá tải đến mức không còn cách nào khác là... phải phá ra để quy hoạch lại từ đầu - đây là một giải pháp không tưởng.
HÀ MINH
ĐBSCL: Thời tiết thất thường, tôm chết hàng loạt
Nguồn tin: SGGP, 19/06/2007
Ngày cập nhật: 20/6/2007
Những ngày gần đây, thời tiết ở ĐBSCL diễn biến thất thường làm môi trường thay đổi đột ngột dẫn đến tôm chết hàng loạt ở các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… Theo ông Ngô Văn Thử, Chủ tịch UBND xã Thạnh Phước (Bình Đại, Bến Tre), đã có hàng chục ao tôm công nghiệp bị chết với mật độ khá cao. Tại Sóc Trăng, những ngày qua có trên 2.100ha tôm bị thiệt hại. Riêng tại xã Gia Hòa 1, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng), đã có 182ha tôm chết và số lượng còn tăng. Còn ở xã Phú Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, đã có 3.159ha tôm nuôi quảng canh đang xuất hiện tôm chết rải rác.
Không ít nông dân đang lo lắng trước khả năng thất bát vụ tôm này, đồng thời kéo theo công nợ vay của ngân hàng. Tại huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng), chỉ riêng ở xã Gia Hòa 1, dân nuôi tôm đang nợ ngân hàng trên 37 tỷ đồng đã 6 năm chưa trả được, ở xã Hòa Tú 1, bà con cũng đang mắc nợ khoảng 31 tỷ đồng…
HUỲNH PHƯỚC LỢI
Vùng tôm càng xanh “khát” giống
Nguồn tin: BCT, 18/6/2007
Ngày cập nhật: 19/6/2007
Chuyện tưởng như khó thể xảy ra lại đang là một thực tế tại vùng quy hoạch tôm càng xanh huyện Thoại Sơn - An Giang. Không như thường năm, năm nay ở đây giá tôm giống tăng lên cao và khó kiểm soát được chất lượng...
Như hàng năm, vào khoảng giữa tháng năm nông dân nuôi tôm càng xanh tại vùng quy hoạch nuôi tôm xã Phú Thuận - huyện Thoại Sơn An Giang lại vào vụ mới. Việc chọn giống thả nuôi là khâu được ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, giá tôm giống liên tục tăng lên làm nhiều người lo lắng. Anh Trương Hữu Thìn, nông dân ấp Hòa Tây 3, cho biết: “Nếu so với giá giống vụ tôm năm rồi, vụ này giá tôm post 15 đã tăng từ 30-40 đồng/con. Giá cao như thế nhưng chưa chắc gì có tôm giống để mua, nếu không đặt trước”. Trước tình hình khan hiếm, hiện nay giá tôm càng xanh giống đã lên mức từ 110-120 đồng/con và việc tìm mua con giống sạch bệnh đang rất khó khăn. Anh Nguyễn Quốc Thới, ở ấp Hòa Tây 3, cho biết: “Hiện nay nhiều trại sản xuất tôm giống đảm bảo cho hao hụt với tỷ lệ tới 50% . Người đi mua chủ yếu thấy tôm giống đẹp là nhận, chứ đâu biết được tôm sạch bệnh hay không?”. Chỉ vì khan hiếm con giống mà Thới vội vàng bắt lứa tôm đầu tiên trị giá hơn 10 triệu đồng. Nhưng chưa đầy 1 tháng sau khi thả nuôi, tôm của anh đã phát bệnh và chết sạch, giờ buộc phải làm vệ sinh ao để làm lại từ đầu.
Do thiếu giống và chất lượng không bảo đảm nên người nuôi phải thường xuyên kiểm tra tôm càng xanh nuôi trong ao.
Ông Vũ Thanh Quyền, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Thoại Sơn cho biết: “Vụ này không chỉ có bà con tại Phú Thuận nuôi tôm càng xanh mà phong trào đã lan rộng trên địa bàn 5 xã với diện tích 850 ha. Vì thế nhu cầu con giống tăng lên trên 80 triệu con. Trong khi đó, tại huyện mới có 9 trại sản xuất giống và trại giống của Trung tâm Nghiên cứu sản xuất giống thủy sản An Giang, nên chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu của nông dân. Nhiều người đã phải đi tận Tiền Giang, Bến Tre, Vũng Tàu... tìm mua, nhưng các nguồn tôm giống này rất khó kiểm soát dịch bệnh”.
Theo quy hoạch phát triển thủy sản của tỉnh An Giang, vùng nuôi tôm càng xanh huyện Thoại Sơn sẽ phát triển trên 1.500 ha. Do vậy, với tình hình khan hiếm hiện nay, nhiều người dự đoán con tôm giống sẽ còn khó khăn trong thời gian tới khi nhiều người đổ xô nuôi tôm càng xanh. Bởi mùa lũ đã gần kề, thời điểm đó rất nhiều hộ dân tìm mua tôm giống để thả nuôi dọc theo bãi bồi ven sông, hoặc đăng quần trên ruộng thì nhu cầu sẽ tiếp tục tăng cao. Lại một “cơn sốt” tôm giống nữa chăng? Đến thời điểm này, người nuôi tôm càng xanh ở An Giang vẫn phải “chạy đôn, chạy đáo” để tìm mua con giống. Một số người biết rằng không thể tìm đâu ra con giống tốt đã đành phải chấp nhận đánh đố với rủi ro. Với những gì đang diễn ra cho thấy vẫn chưa có sự chuẩn bị chu đáo cho sự phát triển mạnh mẽ của con tôm càng xanh tại Thoại Sơn nói riêng và An Giang nói chung.
BÌNH NGUYÊN
Giá cá tra nguyên liệu tiếp tục giảm
Nguồn tin: BCT, 19/6/2007
Ngày cập nhật: 19/6/2007
Hai ngày qua, giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL tiếp tục giảm. Tại An Giang, Đồng Tháp, giá cá tra nuôi hầm thịt trắng chỉ còn 11.800-12.000 đồng/kg; cá tra bè có giá 11.500 đồng/kg; cá tra thịt vàng giá giảm chỉ còn 11.000-11.200 đồng/kg. Như vậy, giá cá tra nguyên liệu đã giảm từ 800-1.000 đồng/kg so với tuần trước.
Hiện nay, tại An Giang, Đồng Tháp vẫn còn rất nhiều hầm cá đã tới lứa nhưng nông dân chưa bán được. Trong khi đó, các doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu vẫn chưa có động thái tăng công suất sản xuất và tăng giá thu mua, nên giá cá tra nguyên liệu có khả năng sẽ còn giảm trong những ngày tới.
* Tại TP Cần Thơ, lượng cá tra về nhiều chợ nội ô tăng gấp đôi so với 3-4 ngày trước. Nguyên nhân do những ngày qua, nhiều nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu đã hạn chế thu mua ở các vùng nuôi cá tra như: An Giang, Cần Thơ… Do đó, nhiều người nuôi tập trung tiêu thụ cá tra thông qua thương lái thu mua chở đi bán tại các chợ. Nguồn cung cấp cá tra cho các chợ nội ô thành phố chủ yếu từ vùng nuôi ở huyện Thốt Nốt và Vĩnh Thạnh (TP Cần Thơ). Giá bán cá tra bán tại chợ hiện ổn định ở mức thấp, khoảng 15.000-16.000 đồng/kg.
BÌNH NGUYÊN – A.K
Hà Nội: Cá chết nổi đầy mặt nước Hồ Tây
Nguồn tin: LĐ, 18/06/2007
Ngày cập nhật: 19/6/2007
Mấy ngày gần đây cá ở Hồ Tây chết nổi lên mặt nước và trôi dạt vào bờ rất nhiều. Chết nhiều nhất là cá mè, nặng trên dưới 1kg rồi đến cá chép, cá rô phi. Người dân sống ven Hồ Tây đổ xô ra vớt cá.
Vào các đợt nắng nóng lên đến 37-38oC, cá Hồ Tây thường chết nổi lên mặt nước. Nhưng lần này thì khác, theo nhận định của nhiều người, cá chết có thể do môi trường nước bị ô nhiễm nặng.
Việc xả rác, nước thải, phế thải xuống Hồ Tây ngày một gia tăng, đó là một trong những nguyên nhân khiến cá, ốc sống dưới hồ này chết.
Huyện Bình Chánh - TPHCM: Cá nuôi chết hàng loạt
Nguồn tin: NLĐ, 18/6/2007
Ngày cập nhật: 19/6/2007
Mấy tuần qua, cá nuôi, chủ yếu là cá rô phi, của người dân ấp 1, xã Bình Lợi, huyện Bình Chánh- TPHCM bỗng nhiên bị chết hàng loạt. Dọc kênh Thầy Thuốc có khoảng 20 hộ nuôi cá với diện tích mặt nước lên đến hàng chục hecta thì hầu như hộ nào cũng có cá nuôi bị chết. Theo người dân, mấy tháng gần đây, nguồn nước kênh bị ô nhiễm trầm trọng và khi bơm vào ao nuôi thì cá bị chết. Để hạn chế thiệt hại, người dân phải bán đổ bán tháo cá cho thương lái với giá chỉ 7.000 - 8.000 đồng/kg.
H. Tràm
Để cá da trơn không trượt theo vết xe đổ...
Nguồn tin: NLĐ, 18/6/2007
Ngày cập nhật: 18/6/2007
Chứng nhận MSC và cơ hội cho thủy sản Việt Nam
Nguồn tin: KTVN, 12/06/2007
Ngày cập nhật: 18/6/2007
Sản xuất tôm giống Bình Thuận trên đà tăng trưởng
Nguồn tin: BThuận, 14/06/2007
Ngày cập nhật: 17/6/2007
Vài năm nay, bên cạnh nghề nuôi tôm thịt gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân, nhưng hoạt động sản xuất và cung ứng tôm giống lại phát triển mạnh cả năng lực lẫn sản lượng giống. Chất lượng tôm giống Bình Thuận được thị trường trong nước đánh giá cao, nhất là đã tạo dựng lòng tin với người nuôi tôm ở các tỉnh miền Tây Nam bộ.
Thời gian qua, Bình Thuận đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất, cung ứng tôm giống lớn của cả nước. Năm 2006 công suất bể ương trong toàn tỉnh là 49.000m3 đạt sản lượng 5,2 tỷ post, gấp 2,2 công suất và gấp 3,2 lần sản lượng so năm 2001. Thành phố Phan Thiết và huyện Tuy Phong đã hình thành 2 vùng sản xuất giống tập trung. Khác với những tỉnh thành khác, Bình Thuận có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nghề sản xuất tôm giống hoạt động quanh năm. Ngoài ra, hàng năm, ngành thủy sản vận động ngư dân đóng góp kinh phí để thả ra biển hàng tỷ post nhằm duy trì, tái tạo nguồn lợi. Nhờ vậy, các doanh nghiệp sản xuất tôm giống có quy mô năng lực sản xuất tăng cao. Điển hình tại Tuy Phong nhiều cơ sở xin đăng ký mở rộng quy mô sản xuất có xu hướng đầu tư dịch chuyển ra vùng quy hoạch Vĩnh Tân, Chí Công. Dự báo trong thời gian đến, nhu cầu về giống tôm sú của các tỉnh Nam bộ rất cao, nên tỉnh đã xác định đây là sản phẩm chủ lực đến năm 2010.
Tôm sú giống Bình Thuận có thị phần không nhỏ ở thị trường các tỉnh miền Tây Nam bộ. Bên cạnh đó, tôm giống của Ninh Thuận, Khánh Hòa cũng đã tiến vào thị trường này khiến việc giữ thương hiệu tôm giống Bình Thuận trong thời gian tới là vấn đề cần quan tâm. Để đạt kế hoạch sản xuất 9 tỷ post vào năm 2010, tỉnh khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế áp dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất. Ưu tiên cho những mô hình sản xuất có quy mô tích tụ vốn lớn, công nghệ hiện đại, để từ đó hình thành các doanh nghiệp có uy tín thương hiệu, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm. Ngoài ra mức ưu đãi cao nhất cho doanh nghiệp, sẽ được áp dụng cho nhà đầu tư nào có dự án sản xuất tôm giống lớn.
Điều mà những cơ sở sản xuất tôm giống lo ngại là việc xây dựng Trung tâm nhiệt điện than tại Vĩnh Tân sẽ ảnh hưởng đến khu quy hoạch sản xuất tôm giống Vũng Mũ II. Thiết nghĩ tỉnh cần nhanh chóng quy hoạch vị trí mới và đầu tư hạ tầng vùng sản xuất tập trung để di dời những cơ sở bị ảnh hưởng. Cái chính nhằm ổn định sớm để các cơ sở tôm giống yên tâm sản xuất. Gần đây trên báo chí có thông tin một vài tỉnh phía Nam bắt đầu tổ chức sản xuất tôm giống. Nếu vậy chuyện cạnh tranh gay gắt thị trường sẽ xảy ra. Khi ấy những cơ sở nhỏ sẽ gặp bất lợi. Bởi thế, tỉnh đang có kế hoạch sẽ hình thành Hiệp hội tôm giống Bình Thuận, mục đích không nằm ngoài việc liên kết các doanh nghiệp trong sản xuất, tìm thị trường tiêu thụ và xuất khẩu, cuối cùng là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên.
Đinh Công Nam
Xử lý nước thải nuôi tôm bằng phương pháp sinh học: Cách nuôi tôm hiệu quả và bền vững
Nguồn tin: PY, 17/6/2007
Ngày cập nhật: 17/6/2007
Một số dự án của chương trình đa dạng sinh học do Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) triển khai tại Việt Nam đã được thực hiện. Trong đó, dự án “Góp phần bảo vệ môi trường và đa dạng hóa sinh học vùng ven biển tỉnh Phú Yên thông qua việc xây dựng mô hình xử lý nước thải từ các ao nuôi tôm thâm canh bằng phương pháp sinh học” do GEF hỗ trợ Phú Yên thực hiện bước đầu được đánh giá đạt hiệu quả cả về bảo vệ môi trường và kinh tế.
Kiểm tra thực tế mô hình tại xã Hòa Tâm (Đông Hòa) – Ảnh: LY KHA
Vốn đối ứng của tỉnh trong dự án thông qua đề tài khoa học cùng tên do Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Phú Yên (LHH PY) chủ trì. Đề tài chỉ mới được triển khai từ tháng 7/2005 đến nay, song hiệu quả bước đầu đã được đánh giá khá cao. Trong khi môi trường của các khu vực nuôi tôm sú trong tỉnh đang bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường chung, gây thiệt hại về kinh tế, thì tại xã Xuân Lộc (huyện Sông Cầu) và Hòa Hiệp Nam, Hòa Tâm (huyện Đông Hòa), 8 hộ dân tham gia đề tài trên diện tích 5,55 ha đều có lãi. Hơn thế, khả năng bảo vệ được môi trường trong sạch, bền vững là rất cao.
Đề tài được thực hiện với hai mô hình xử lý môi trường bằng hai phương pháp. Ở mô hình thứ nhất, người nuôi tôm chia diện tích nuôi trước đây ra làm hai phần, một phần nuôi tôm và một phần dành để xử lý nước. Ở diện tích xử lý nước, họ xây dựng hai ô nuôi cá rô phi và nuôi rong bản địa. Mô hình thứ hai là tạo lồng nuôi cá rô phi ngay trong hồ nuôi tôm để tiêu thụ chất thải tồn dư.
Thực tế lâu nay, tồn dư chất thải trong hồ tôm sú sản sinh ra lượng khí thải Cacbonat lớn. Lượng khí này lưu thông trong nước trong suốt quá trình nuôi hoặc thải ra bên ngoài và đi vào các hồ khác. Cùng với bã chất thải, khí cacbonat làm ô nhiễm môi trường. Vụ tôm năm 2006, hơn 90% diện tích tôm nuôi ở vùng hạ lưu sông Bàn Thạch đã bị mất trắng. Riêng đồng tôm của ông Lê Thanh Hải tại thôn Thọ Lâm, xã Hòa Hiệp Nam (Đông Hòa) nhờ áp dụng xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học đã thu lãi được 50 triệu đồng. Đồng tôm của ông Hải có diện tích 10.000m2, mọi năm ông thả tôm trên toàn bộ diện tích. Mấy năm đầu vì môi trường còn sạch nên nuôi tôm có lãi, gần đây thì liên tục thất bại. Năm 2006, ông chỉ thả tôm trên 6.000m2; 4.000m2 còn lại được ông ngăn hẳn bằng một bờ lớn và chia làm đôi, phân nửa thả cá rô phi đơn tính, phần còn lại thả rong đuôi chồn và rong cây. Ông phấn khởi cho biết: “Số lãi trên là chưa tính rong và cá. Rong dùng để nuôi vịt, cá thì mới nuôi lần đầu nên chỉ dùng để biếu khách đến tham quan mô hình cho vui”.
Anh Đỗ Tấn Thành, chuyên gia phụ trách đề tài, cho biết: “Nước từ hồ tôm được bơm sục qua hồ cá rô phi, cá sẽ ăn phân và chất thải của tôm. Sau đó, nước được đưa qua hồ rong, các chất độc trong nước được rong hấp thu. Nước sạch được đưa lại hồ tôm. Nếu lấy nước từ bên ngoài vào thì cũng cho qua hồ cá, rong rồi mới vào tôm, nước được lọc sạch hoàn toàn bằng sinh học”. Theo ông Hồ Văn Phước, Chủ tịch LHH PY, chủ nhiệm đề tài, thì mô hình thứ nhất mang lại hiệu quả cao hơn mô hình thứ hai, vì chỉ làm lồng thả cá tại những nơi có chất thải lắng ở đáy hồ thì xử lý không triệt để.
Tại xã Xuân Lộc huyện Sông Cầu, loại rong được dùng để hấp thu chất thải là rau câu. Ông Trương Công Khoa, một người nuôi tôm sú tại xã Xuân Lộc, áp dụng mô hình trên đã đạt năng suất tôm kỷ lục: 3,6 tấn/ha! Trong 0,9 ha của ông, sau 125 ngày nuôi đã thu được 1,78 tấn tôm, 0,85 tấn rau câu và 0,51 tấn cá. Cả ông Khoa và ông Hải đều áp dụng lại mô hình này cho đồng tôm của mình “vì cách sản xuất này đảm bảo an toàn và bền vững”. Anh Đỗ Tấn Thành cho hay, vì độ mặn ở vùng nuôi Sông Cầu lớn hơn nên rau câu phát triển tốt. Còn các vùng hạ lưu sông có độ mặn thông thường ở ngưỡng 5 - 60/00 thích hợp với rong đuôi chồn và rong cây.
Phó Giám đốc Sở Khoa học - Công nghệ Phú Yên Hồ Văn Tùng khẳng định: Đề tài này đã có kết quả bước đầu rất tốt. Nếu triển khai nhân rộng hơn nữa sẽ có tác động tích cực rất lớn đến đời sống của người dân nuôi tôm ở các vùng trong tỉnh, nhất là trong bối cảnh cần hạn chế tồn dư thuốc kháng sinh trong tôm khi xuất khẩu và tình hình dịch bệnh tôm chưa được ngăn chặn hiệu quả như hiện nay.
LY KHA
Ninh Hải (Ninh Thuận): Thả nuôi 154 ha tôm sú vụ chính
Nguồn tin: NT, 6/2007
Ngày cập nhật: 17/6/2007
Vào vụ nuôi tôm sú chính tháng 5-2007, nông dân huyện Ninh Hải đã thả nuôi 112 ha, nâng tổng số diện tích thả nuôi từ đầu vụ đến nay 154 ha, trong đó: Tân Hải 35,5 ha, Hộ Hải 16 ha, Phương Hải 50 ha… Hiện nay bệnh tôm đã xuất hiện ở hầu hết các khu vực thả tôm. Có 50,7 ha tôm bệnh đốm trắng, thân đỏ và bệnh teo gan, xảy ra ở trà nuôi tôm từ 25-30 ngày tuổi. Trung tâm Khuyến ngư khuyến cáo người nuôi tôm ở khu vực Đầm Nại ngừng thả nuôi và nhắc nhở bà con phải đưa mẩu tôm giống xét nghiệm trước khi thả nuôi.
Hồ Điệp, Báo Ninh Thuận
Phú Yên: Giải quyết việc tranh chấp nuôi trồng thủy sản ở Vũng Rô
Nguồn tin: Phú Yên, 15/6/2007
Ngày cập nhật: 16/6/2007
Sau khi báo chí phản ánh về tình trạng tranh chấp vùng nuôi thủy sản Vũng Rô (xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa) (PYO ra ngày 30/5/2007 có bài “Tôm hùm ở Vũng Rô chết hàng loạt: Người nuôi tôm hoang mang”, UBND tỉnh Phú Yên vừa có công văn chỉ đạo Sở Thủy sản, Sở Tài nguyên- môi trường và UBND huyện Đông Hòa sớm giải quyết dứt điểm tình trạng trên. Theo đó, UBND tỉnh giao Sở Thủy sản chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên - môi trường, UBND huyện Đông Hòa tập trung giải quyết dứt điểm việc tranh chấp giữa một số hộ dân thôn Vũng Rô với các doanh nghiệp nuôi cá mú. UBND tỉnh yêu cầu các cơ quan cần xác định rõ việc cho thuê mặt nước đối với các doanh nghiệp, hộ gia đình ở đây đúng hay sai, nguyên nhân, biện pháp, giải pháp... không để tình hình phức tạp thêm.
Theo Sở Thủy sản Phú Yên, ở các lồng bè nuôi cá mú của các doanh nghiệp tư nhân Mỹ Ngọc, Trường Mai và Vĩnh Tín đều có cá bị bệnh với các chứng bệnh ngoài da, đen mang. Các bè nuôi cá mú này đã sử dụng thuốc tím, formol, đồng sunfat và oxy để xử lý bệnh cá. Đây là các loại thuốc được phép sử dụng. Tuy nhiên, hiện ngành thủy sản vẫn chưa thể xác định việc tôm hùm chết hàng loạt tại Vũng Rô là do mắc các bệnh long đầu, đen mang hay do ô nhiễm từ nước thải của các bè nuôi cá mú hay không.
Riêng việc UBND xã Hòa Xuân Nam cho các doanh nghiệp thuê mặt nước biển để nuôi cá mú ở Vũng Rô là trái với quy định, bởi việc này phải do UBND tỉnh quyết định.
HỒNG ÁNH
Cai Lậy khôi phục lại nghề nuôi cá giống
Nguồn tin: Tiền Giang, 14/6/2007
Ngày cập nhật: 16/6/2007
Cùng với nghề nuôi cá nước ngọt, từ năm 2004 đến nay, phong trào ương dưỡng và sản xuất cá giống ở huyện Cai Lậy phát triển rầm rộ, với tổng diện tích đến thời điểm này đạt 300 ha, tăng 45 ha so với cùng kỳ năm trước, tập trung nhiều nhất ở các xã như: Tân Hội, Nhị Mỹ, thị trấn Cai Lậy,.... Riêng ở xã Nhị Mỹ, vụ mùa này có 154 hộ nuôi cá giống trên diện tích trên 96 ha, được xem là cái nôi của nghề nuôi cá giống ở huyện Cai Lậy. Trong hai năm trở lại đây, mặc dù giá bán cá giống bấp bênh, chỉ bằng một nửa so với năm 2004, do sản lượng cung vượt cầu, nhưng những người nuôi cá giống tâm huyết ở huyện Cai Lậy vẫn bám nghề vì lợi nhuận của nó mang lại vẫn còn khá cao so với lúa. Anh Lê Văn On, một người nuôi cá giống lâu năm nhất ở xã Nhị Mỹ cho biết: Mặc dù lợi nhuận từ nghề nuôi cá giống không còn cao như cách đây khoảng 03 năm, nhưng nếu so với lúa thì vẫn khá cao, nhất là những năm gần đây, điều kiện canh tác lúa ngày càng khó khăn, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá diễn biến phức tạp thì chính quyền địa phương càng khuyến khích bà con mạnh dạn chuyển đổi từ lúa sang nuôi cá giống. Cụ thể như năm 2006, phần lớn nông dân ở xã Tân Hội đều bị thất mùa do lúa phải tiêu hủy vì bị vàng lùn, trong khi đó, các hộ nuôi cá giống lại lãi trên 10 triệu đồng/1.000 m2.
Không thể phủ nhận lợi nhuận từ nghề nuôi cá giống mang lại, song, hạn chế lớn nhất của người nông dân hiện nay là hễ thấy mô hình sản xuất nào mang lại hiệu quả kinh tế cao thì đua nhau làm, mặc dù điều kiện sản xuất chưa bảo đảm, kỹ thuật canh tác chưa thông hoặc đầu ra còn khó khăn nên thường thành công thì ít mà thất bại thì khó tránh khỏi. Nuôi cá giống cũng vậy, từ mấy chục hộ nuôi thành công ở năm 2004, đến năm 2007, con số này đã tăng lên hàng trăm, đồng nghĩa với việc người dân ở đây tiêu thụ sản phẩm khó khăn và giá giảm mạnh. Phần lớn sản phẩm cá giống phải bán tận các tỉnh miền Đông Nam Bộ nên lợi nhuận giảm do phải trừ chi phí vận chuyển. Bài học về chuyện làm cá giống thất bại trong hai năm 2004 và 2005 khiến bà con huyện Cai Lậy không thể nào quên vì đã có một số hộ nuôi bị lỗ vốn do không tiêu thụ được. Một nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do người nuôi cá còn gặp lúng túng trong khâu chăm sóc và trị bệnh cho cá giống. Ông Nguyễn Văn Bọt, người có trên 05 năm gắn bó với nghề nuôi cá giống cho biết: So với nuôi cá thịt thì dịch bệnh trên cá giống phức tạp hơn nhiều, nhất là với điều kiện thời tiết bất thường như hiện nay, ngày thì nắng nóng còn đêm thì lạnh dễ làm cho cá bị bệnh. Trời mưa liên tục cũng làm cho độ pH trong ao biến đổi đồng nghĩa với cá bị bệnh theo. Vì vậy, muốn nuôi cá giống thành công, bà con phải nắm vững kỹ thuật để phòng ngừa bệnh cho cá.
Tuy không bằng thời hoàng kim năm 2003, nhưng từ đầu năm 2006 đến nay, nghề nuôi cá giống ở huyện Cai Lậy đã dần khởi sắc trở lại, với những lúc cao điểm, chỉ riêng xã Nhị Mỹ cung cấp cho các bè cá ở Thới Sơn, Tân Long và các tỉnh lân cận trên 04 tấn cá giống các loại/ngày và giá bán khoảng 30 ngàn đồng/kg, do chất lượng giống đang được người nuôi cá quan tâm đầu tư nên từng bước được thị trường tiêu thụ mạnh. Hiện nay, người nuôi cá giống huyện Cai Lậy đang tiếp tục mở rộng diện tích và tích cực tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật để sản xuất ra những con giống tốt nhất phục vụ nhu cầu nuôi thủy sản nước ngọt ngày càng tăng cao ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là giống cá tra đang rất khan hiếm và giá khá cao, bình quân khoảng 6.000 đồng/con vì từ đầu năm 2007 đến nay giá cá tra tăng đến mức kỷ lục (có lúc lên đến 17.000 đồng/kg) khiến người dân đầu tư nuôi cá tra ào ạt.
Có thể nói, sau nhiều năm gặp khó khăn, nghề nuôi cá giống ở huyện Cai Lậy nói riêng và ở tỉnh Tiền Giang nói chung đang trên đường tìm lại ưu thế của mình trên thị trường tiêu thụ. Nếu muốn phát triển nghề bền vững thì chính bà con phải thay đổi thói quen sản xuất theo kiểu tự phát, mạnh dạn ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để cung ứng cho người nuôi cá nước ngọt những con cá giống đạt chất lượng cao nhất. Có như vậy, nghề nuôi cá giống mới duy trì bền vững được.
Kim Nữ
Bình Định: 604 ha tôm nuôi bị dịch bệnh
Nguồn tin: BĐ, 14/6/2007
Ngày cập nhật: 16/6/2007
Theo Sở Thủy sản, đến nay toàn tỉnh đã thả nuôi 2.134 ha tôm vụ 1. Tuy nhiên, do thời tiết diễn biến phức tạp, người dân không thực hiện tốt khâu kiểm dịch tôm giống, tôm nuôi mang mầm bệnh lại thả nuôi trong môi trường bị ô nhiễm, nên mầm bệnh phát sinh và gây hại tôm nuôi trên diện rộng.
Toàn tỉnh hiện có 604 ha tôm nuôi bị bệnh, chiếm 28,3% diện tích nuôi thả. Hiện nay, ngành Thủy sản đang tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cho người nuôi tôm cải tạo lại ao nuôi, chuyển sang nuôi các đối tượng khác có hiệu quả kinh tế hơn.
Minh Hằng
Giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL đang giảm mạnh: Cuộc “khủng hoảng” ảo?
Nguồn tin: CT, 15/6/2007
Ngày cập nhật: 16/6/2007
Giá cá tra tại ĐBSCL đã giảm mạnh và hiện chỉ còn ở mức 12.600-13.200 đồng/kg. Có hiện tượng này là do doanh nghiệp hạn chế thu mua cá của nông dân, cá tra nguyên liệu cung đã vượt cầu... Tuy nhiên, có nhận định đây chỉ là một cuộc “khủng hoảng” ảo…
GIÁ GIẢM, KHÓ TIÊU THỤ
Sau một thời gian dài giá ngất ngưởng trên cao, hơn nửa tháng qua giá cá tại An Giang bắt đầu giảm liên tục. Đến thời điểm này, giá cá tra nguyên liệu nuôi hầm loại thịt trắng chỉ còn khoảng 13.000-13.200 đồng/kg, cá tra bè khoảng 12.800 đồng/kg. Đặc biệt, cá tra thịt vàng chỉ còn 11.800-12.000 đồng/kg. Hiện giá cá tra nguyên liệu xuất khẩu tại TP Cần Thơ cũng đã giảm khoảng 1.800-2.000 đồng/kg so với thời điểm cuối tháng 5-2007. Giá cá tra loại tốt, thịt trắng tại huyện Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh chỉ còn phổ biến ở mức 12.600-12.800 đồng/kg. Một số ít người nuôi cá tra ở Thốt Nốt nhận thấy được con cá tra gần đây giảm giá liên tục, nên cách nay 7-10 ngày đã ký hợp đồng với các công ty chế biến cá tra xuất khẩu thì bán được giá nhỉnh hơn chút ít, khoảng 12.900-13.000 đồng/kg.
Tuy giá đã xuống khoảng 4.000 đồng/kg so với cao điểm trung tuần tháng 4-2007, nhưng hiện nay người nuôi đang gặp khó khăn trong tiêu thụ. Anh Võ Văn Hộ, một người nuôi cá tra tại Hòa Bình, huyện Châu Phú (An Giang), cho biết: “Hiện nay, rất nhiều hầm cá tới lứa bà con kêu bán nhưng doanh nghiệp vẫn “ậm ừ” chưa chịu mua. Nhiều hầm cá lớn với sản lượng từ 200-300 tấn phải nằm chờ. Trong khi giá liên tục giảm. Không chỉ cá thịt vàng bán không được mà cá thịt trắng cũng cùng cảnh ngộ. Đặc biệt, những hầm nuôi thức ăn tự chế là doanh nghiệp cương quyết không mua”. Tại Chi hội Hòa Bình, có hơn 30 hộ nuôi cá thì trên 60% số hộ cá tới lứa không thể bán được. Còn tại toàn vùng nuôi cá An Giang, hàng ngàn tấn cá tới lứa phải chờ bán.
Ở TP Cần Thơ, việc tiêu thụ cá tra nguyên liệu cũng đang gặp nhiều khó khăn, do doanh nghiệp hạn chế mua vào. Hiện ở vùng Thốt Nốt và Vĩnh Thạnh có rất nhiều ao cá đến lứa xuất bán. Nhưng trong điều kiện người bán nhiều hơn người mua thì doanh nghiệp đã lợi dụng để làm giá” . Cũng đã có trường hợp doanh nghiệp ký hợp đồng mua cá tra của nông dân với giá cao trước đây, nhưng hiện tại không chịu thực hiện cam kết khi cá đã tới lứa bán.
Theo nhiều người nuôi cá tra ở huyện Thốt Nốt, với giá cá ở mức hiện tại đã ở ngưỡng thua lỗ, vì giá thành sản xuất cá tra đã vào khoảng 13.000-13.300 đồng/kg đối với nuôi thức ăn tự chế biến, còn nuôi thức ăn công nghiệp là 13.500-14.000 đồng/kg. Giá thành này chưa tính công sức mà các người nuôi đã bỏ ra. Ông Lê Văn Nông, ở xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, cho biết: “Nhận thấy khả năng cá tra còn tụt giảm giá, tôi đã ký hợp đồng với công ty cách nay khoảng 4 ngày và chỉ bán được 12.600 đồng/kg. Có nhiều người kêu bán cá trong khi nhiều công ty đã hạn chế thu mua, nên chúng tôi bị thu mua ép giá dữ quá. Mấy ngày trước, nếu tôi ký hợp đồng chắc bán được giá 13.000 đồng/kg, nhưng vì chờ xem giá có lên lại không thì giá lại tiếp tục rớt xuống. Hầm cá của tôi khoảng 40 tấn, bán với giá này tính ra tôi lỗ mấy chục triệu đồng, nếu tính luôn tiền vay bên ngoài chắc lỗ trên dưới 100 triệu đồng trong vụ nuôi này”.
Còn ông Mai Văn Năm, người nuôi cá tra ở cù lao Tân Lộc, xã Tân Lộc, huyện Thốt Nốt, nói: “Trong ngày 14-6-2007, tôi mới bán 110 tấn cá với giá 13.000 đồng/kg. Bán được giá này do tôi đã chủ động ký hợp đồng với công ty hơn 10 ngày trước, còn hiện tại công ty chỉ thu mua với giá 12.700-12.800 đồng/kg. Trước đây, có nhiều công ty thu mua cá tra, nhất là công ty Nam Việt tiêu thụ rất mạnh. Nhưng hiện tại công ty này cũng thu mua với số lượng hạn chế và nhiều công ty cũng đã ngưng mua. Với giá bán hiện tại lỗ hơn 300 đồng/kg, hiện tôi còn lại 4 hầm cá, đứng trước tình hình này lo lắng lắm!”. Theo ông Năm, tổng sản lượng của 4 hầm cá này vào khoảng 600 tấn cá. Nhiều người khác ở Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh có cá tra nuôi gần đến lứa xuất bán hoặc chưa đến lứa cũng không khỏi “mất ăn mất ngủ” trước việc giá đang giảm mạnh.
“KHỦNG HOẢNG” ẢO?
Tại ĐBSCL, một số lượng lớn ao nuôi cá tra đến lứa đang chờ xuất bán. Trong khi đó, thị trường xuất khẩu đang là một nỗi lo lớn của các doanh nghiệp. Các thị trường nổi tiếng dễ tính như Nga, Đông Âu bắt đầu “nắn gân” các doanh nghiệp Việt Nam khi liên tục kiểm tra dư lượng kháng sinh trong sản phẩm. Làm cho các thị trường tiêu thụ mạnh này bắt đầu chùng xuống. Một cuộc “khủng hoảng” theo chu kỳ đang bắt đầu?
Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều người có “tay nghề”, chu kỳ “khủng hoảng” này có gì đó hơi bất thường khi mà doanh nghiệp chủ động giảm công suất, giảm giá và không mua cá. Ông Lê Chí Bình, Phó chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến Thủy sản An Giang (AFA), cho biết: “Do thị trường khó khăn, nên các doanh nghiệp đã giảm công suất chế biến làm cho giá cá giảm. Tuy nhiên, không thể phủ nhận có thể đây chỉ là một chu kỳ “khủng hoảng” ảo do các doanh nghiệp chủ động kềm giá để khi xong Hội chợ thủy sản tại TP Hồ Chí Minh (do Vasep) tổ chức vào trung tuần tháng 6 này, mới tiếp tục mua lại. Vì sau đó các doanh nghiệp đã có hợp đồng buộc phải chế biến để giao hàng. Mặt khác, khi doanh nghiệp giảm giá mua liên tục nên bà con lập tức kêu bán, có người kêu bán tại 2-3 doanh nghiệp cũng tạo nên một cơn “khủng hoảng” thừa ảo”. Cuộc “khủng hoảng” thừa hiện nay có ảo hay không sẽ được trả lời khi Hội chợ thủy sản tại TPHCM kết thúc. Nhưng có một thực tế là rất nhiều hầm cá tới lứa chưa bán được.
Ông Bùi Hữu Trí, Chủ tịch Hiệp Hội Thủy sản TP Cần Thơ, nhận định: Năm nay, nguồn cung cá tra tăng mạnh, nhưng nhiều doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu hạn chế mua nguyên liệu vào, vì còn hàng tồn kho từ năm trước và ít có hợp đồng xuất khẩu mới được ký. Do vậy, giá cá tra có khả năng còn tiếp tục giảm trong vòng một tháng tới.
Tại TP Cần Thơ, vùng nuôi cá tra tập trung ở huyện Thốt Nốt và Vĩnh Thạnh. Toàn huyện Thốt Nốt hiện có khoảng 600 ha nuôi cá tra hầm, tăng gần 60 ha so với năm 2006. Giá cá tra giảm, gần đây số lượng nông dân đào ao nuôi đã giảm lại, còn nhiều người có ao thì đang thả cá nuôi thưa hơn. Ở huyện Vĩnh Thạnh, diện tích nuôi cá tra cũng phát triển khá mạnh, chỉ riêng tại xã Thạnh Lộc trước đây có ít người nuôi cá tra, nhưng năm nay số lượng ao nuôi lớn nhỏ nằm khít nhau.
Năm nay, ngoài Cần Thơ và An Giang, nhiều tỉnh khác như: Vĩnh Long, Đồng Tháp… cũng có diện tích và sản lượng cá tra nuôi rất lớn. Những tháng đầu năm 2007, khi giá con cá tra khá cao đã khuyến kích diện tích nuôi cá tra tại một số tỉnh ĐBSCL tăng chóng mặt, nhiều người dân trước đây chưa hề nuôi con cá này, nay cũng ùn ùn đổ xô đào ao nuôi với hy vọng thành tỉ phú.
Cá tra giảm giá mạnh một lần nữa cho thấy nghề nuôi loại thủy sản này còn bấp bênh và ẩn chứa nhiều rủi ro. Có lẽ một lần nữa sự quyết định giá lại nằm ở phía doanh nghiệp, khi người nuôi lại luôn ở thế bị động của thị trường. Khi đòi hỏi của thị trường thế giới ngày càng cao, sản phẩm nhập khẩu buộc phải truy xuất nguồn gốc thì các doanh nghiệp đã chủ động tạo vùng nuôi riêng. Qua đó, doanh nghiệp tự chọn lựa những hộ nuôi uy tín để bảo đảm cho mình một vùng nguyên liệu vững chắc. Vì thế, một khi việc phát sinh nuôi mới không nằm trong sự hợp tác với các doanh nghiệp sẽ rất khó tồn tại…
BÌNH NGUYÊN - ANH KHOA
"Thủy sản và môi trường" - Giải pháp nào?
Nguồn tin: TBKTSG, 14/06/2007
Ngày cập nhật: 15/6/2007
LTS: Tại cuộc bàn tròn “Thủy sản và Môi trường” do TBKTSG và Đài Phát thanh Truyền hình Cần Thơ tổ chức (xem bài “Đừng bàng quan nữa!” TBKTSG số ra ngày 7-6-2007) có nhiều tham luận đưa ra các giải pháp cho vấn nạn ô nhiễm môi trường do nuôi trồng thủy sản. Chúng tôi xin giới thiệu một trong những tham luận này.
Phạm Đình Đôn - Chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây Nam bộ
Nuôi trồng thủy sản là một thế mạnh của ĐBSCL và những năm gần đây đã có bước phát triển rất nhanh chóng. Năm 2000 diện tích nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL là 445.300 héc ta với tổng sản lượng 365.141 tấn; năm 2002 có 570.300 héc ta với sản lượng 518.743 tấn; năm 2005 là 685.800 héc ta với sản lượng khoảng 983.384 tấn, chiếm trên 70% tổng sản lượng và 60% trong số 3,35 tỉ đô la Mỹ kim ngạch xuất thủy sản của cả nước. Và theo định hướng phát triển nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL, đến năm 2010 nuôi trồng thủy sản nước mặn ở khu vực này sẽ đạt 649.430 héc ta và thủy sản nước ngọt, nước lợ là 366.590 héc ta.
Các mô hình nuôi trồng thủy sản đã chuyển hóa rất nhanh cùng với quá trình phát triển của ngành. Phương thức nuôi trồng đã chuyển từ nuôi tự nhiên, quảng canh, nuôi phân tán với mật độ thấp... sang nuôi bán thâm canh, thâm canh, nuôi công nghiệp với mật độ cao, nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, việc nuôi trồng thủy sản với mật độ cao, năng suất lớn, đã gây nên những tác động môi trường ngày càng nghiêm trọng, nếu không được xử lý triệt để có thể gây ra sự mất cân bằng hệ sinh thái tự nhiên và sẽ ảnh hưởng trở lại đến chính việc nuôi trồng thủy sản. Một điều hết sức quan trọng là mô hình nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp càng cao thì lượng chất thải càng lớn và mức độ nguy hại cho môi trường sinh thái càng trở nên trầm trọng mà biểu hiện là dịch bệnh hoành hành trên thủy sản nuôi trồng ở ĐBSCL ngày càng diễn biến phức tạp.
Theo đánh giá của các nhà khoa học, hàng năm có tới 456,6 triệu mét khối bùn thải (phù sa lắng đọng trong chất thải) và chất thải nuôi trồng thủy sản được trút ra môi trường; trong đó riêng chất thải nuôi cá tra, cá ba sa đã trên 2 triệu tấn/năm. Các chất thải trong nuôi trồng thủy sản có nguồn gốc từ thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư sử dụng như hóa chất và thuốc kháng sinh, vôi và các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-, các thành phần độc hại chứa trong bùn thải như H2S, NH3... (là sản phẩm của quá trình phân hủy yếm khí ở bùn đáy ao nuôi tạo thành) và đặc biệt là nguồn bùn lắng đọng thải ra hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao nuôi.
Hiện nay, vấn đề quản lý và xử lý nguồn bùn thải, chất thải trong nuôi trồng thủy sản còn rất hạn chế, chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường. Vì thế, để đảm bảo phát triển lợi thế của ngành nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL, cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản như sau:
- Nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch môi trường trên cơ sở phân vùng sinh thái nhạy cảm với các vùng tiềm năng trong phát triển các mô hình canh tác thủy sản nước mặn, nước ngọt và nước lợ... theo các cấp độ từ thấp tới cao như nuôi trồng thủy sản tự nhiên, mật độ thấp, mô hình hợp sinh thái... cho đến nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp để đảm bảo phát triển bền vững.
- Quy hoạch thủy sản gắn liền với quy hoạch môi trường trong các hệ canh tác của các loại mô hình nuôi trồng thủy sản. Ở các mô hình nuôi trồng thủy sản tự nhiên, nuôi mật độ thấp, mô hình nuôi hợp sinh thái... có khả năng tự làm sạch cao, vừa giữ được cân bằng sinh thái vừa tạo ra sản phẩm sạch, an toàn vừa bảo vệ được môi trường sinh thái. Trong thực tiễn các mô hình nuôi tôm tự nhiên, mô hình nuôi tôm sinh thái, tôm rừng, luân canh lúa-tôm... ở các vùng nhiễm mặn ven biển, mô hình lúa cá, mô hình nuôi cá vượt lũ tự nhiên, mô hình nuôi cá trong rừng tự nhiên... đã đóng góp quan trọng về lý luận và thực tiễn cho sự phát triển thủy sản nuôi trồng theo hướng tiếp cận sinh thái tự nhiên ở khu vực ĐBSCL.
- Đối với các mô hình nuôi trồng thủy sản thâm canh và công nghiệp, cần tập trung giải quyết vấn đề chất lượng nước, xử lý chất thải và quản lý dịch hại tổng hợp. Trong thực tiễn sản xuất, một số công ty có tiềm lực về vốn, kỹ thuật công nghệ nuôi trồng thủy sản,... đã xác lập được các mô hình nuôi thủy sản công nghiệp có ý nghĩa kinh tế cao trong cung cấp sản phẩm cho chế biến tiêu dùng và xuất khẩu, bên cạnh đó vẫn xử lý được các chất thải phát sinh, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường.
Một điều đặc biệt quan trọng nữa là vấn đề xử lý bùn thải, chất thải trong quá trình nuôi trồng thủy sản. Cần phải bố trí diện tích hợp lý để chứa bùn nạo vét ao nuôi và phải được xử lý triệt để bằng vôi bột kết hợp ủ yếm khí, tuyệt đối không được bơm bùn thải và chất thải ra sông rạch khi chưa được xử lý.
Bảo vệ môi trường trong phát triển nuôi trồng thủy sản ở khu vực ĐBSCL là vấn đề cực kỳ quan trọng cần được giải quyết từ vấn đề quy hoạch sản xuất, phương thức canh tác gắn liền với thị trường tiêu thụ... Điều đặc biệt quan trọng là cần nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường. Đối với các phương thức canh tác thâm canh và công nghiệp, cần bắt buộc các cơ sở, chủ trang trại, doanh nghiệp... triệt để tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường, đảm bảo sự cân bằng của hệ sinh thái tự nhiên.
Việc nuôi trồng thủy sản với mật độ cao, năng suất lớn, đã gây nên những tác động môi trường ngày càng nghiêm trọng, nếu không được xử lý triệt để có thể gây ra sự mất cân bằng hệ sinh thái tự nhiên và sẽ ảnh hưởng trở lại đến chính việc nuôi trồng thủy sản.
Không thể đổ hết cho nông dân
Từ cuối năm ngoái tới nay, Cơ quan Quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm Nhật Bản đã liên tục cảnh báo về việc tôm xuất khẩu của Việt Nam bị nhiễm dư lượng kháng sinh cấm và đã áp dụng chế độ kiểm tra 100% tôm xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật. Liên quan tới vấn đề này, TBKTSG đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc.
TBKTSG: Thưa Bộ trưởng, chuyện con tôm xuất vào Nhật làm xôn xao dư luận trong gần nửa năm qua, theo ông nguyên nhân từ đâu?
- Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc: Năm ngoái Việt Nam xuất khẩu tôm được 1,5 tỉ đô la Mỹ, đứng thứ năm trên thế giới, trong đó xuất vào Nhật tới 550 triệu đô la. Về nguyên liệu, lượng tôm cung cấp cho các nhà máy chế biến xuất phát từ hàng vạn tới hàng chục vạn hộ nông dân, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Các nhà máy không đủ khả năng kiểm soát nguồn cung cấp nguyên liệu. Trong khi đó, tôm được xuất khẩu với số lượng lớn, được kiểm soát nghiêm ngặt cả về chất lượng lẫn vệ sinh an toàn thực phẩm. Mâu thuẫn này chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới tình hình trên.
TBKTSG: Vậy giải pháp của Bộ Thủy sản là gì?
- Dư lượng kháng sinh có thể có ở nhiều khâu nhưng chính là ở đầu vào, từ khâu nuôi trồng của nông dân cho tới khâu sơ chế ở đại lý. Chẳng hạn trong khâu sơ chế, thời gian qua, địa phương nào kiểm tra nghiêm ngặt các cơ sở sơ chế thì các nhà máy chế biến tôm ở địa phương đó không thấy xuất hiện dư lượng kháng sinh.
Chúng ta phải thừa nhận một điều là quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm của ta kém ở tất cả các ngành, chứ không riêng gì ngành thủy sản. Nhiều người cứ đổ thừa cho nông dân nhưng như vậy không hoàn toàn chính xác. Tôm nuôi dễ bị bệnh, mà bệnh thì phải chữa chứ không lẽ nông dân nhìn ao tôm của mình chết mà không cứu. Nhưng thị trường thuốc thú y thì bát nháo, rất dễ cho nông dân sử dụng thuốc cấm. Rồi thức ăn, con giống, quy hoạch thủy lợi, nguồn nước, nói chung rất nhiều thứ để tôm có thể bị bệnh và nông dân có thể dùng thuốc cấm, nên chỉ một mình ngành thủy sản giải quyết vấn đề dư lượng kháng sinh thì không đủ. Vấn đề này đòi hỏi ý thức của cả cộng đồng, từ người bán con giống, nhà sản xuất thuốc, cung cấp thức ăn, nông dân, đến nhà máy chế biến...
Hồng Văn thực hiện
Nguy cơ mất cân bằng hệ sinh thái lòng hồ Trị An do xuất hiện một số loài cá lạ
Nguồn tin: ĐN, 13/06/2007
Ngày cập nhật: 15/6/2007
Hiện nay, lòng hồ Trị An (thuộc huyện Vĩnh Cửu) xuất hiện một số loài cá lạ thuộc nhóm ăn thịt rất hung dữ, nhiều loài có tốc độ sinh sản rất nhanh, khiến một số loài thủy sinh sống trong lòng hồ bị những loài cá trên tiêu diệt, nguy cơ dẫn đến mất cân bằng sinh thái lòng hồ.
Sau khi đập thủy điện Trị An được xây dựng, các nhà khoa học đã khuyến cáo nên thả các loài cá như: Cá trôi Ấn Độ, trắm đen, cá mè... nhằm làm sạch lòng hồ. Tuy nhiên vài năm trở lại đây, người dân sống ở lòng hồ cho biết, họ đã bắt được một số loài cá lạ, chưa từng xuất hiện. Đặc biệt, những loài cá này sinh sản rất nhanh và xuất hiện ngày càng dày đặc ở lòng hồ Trị An. Qua tìm hiểu, các nhà nghiên cứu cho rằng, đây là một số loài cá có xuất xứ từ vùng Nam Mỹ. Một trong những loài trên được xác định là cá chim trắng, một loài cá ăn thịt rất dữ trong họ cá hổ du nhập từ vùng Nam Mỹ. Loài cá này ăn thịt rất nhiều các loài cá bản địa, các loài lưỡng cư, bò sát và ngay cả một số loài thú nhỏ sống ở lòng hồ.
Một loài cá dữ khác xuất hiện vài năm qua ở hồ Trị An là cá "hoàng đế" (tên do người dân nơi đây tự đặt), tên khoa học là Cichla ocellaris. Loài cá này cũng có xuất xứ từ Nam Mỹ. Cá hoàng đế có thân thon dài, vây lưng dài hình chữ V, miệng rộng, hàm dưới nhô ra dài hơn hàm trên. Một đốm đen khá lớn rất đặc trưng với viền màu bạc lớn bao quanh rộng đến tận vây đuôi. Đây là loài cá thường gặp ở vùng nước ngọt. Cá hoàng đế sinh sản hữu tính, mỗi lần đẻ từ 2.000-3.000 trứng. Các nhà nghiên cứu cho rằng, đây là loài cá ăn thịt rất hung dữ và có tốc độ sinh sản cực nhanh. Thức ăn của cá hoàng đế là các loài cá nhỏ như mè dinh, cá trắm, cá lòng tong đá... và khi đói, chúng ăn bất cứ loài thủy sinh nào bắt gặp. Theo các chuyên gia, loài cá hoàng đế là loài ăn thịt có thể tiêu diệt và làm thay đổi thành phần loài các hệ động vật và sinh vật nơi chúng cư trú.
Sự xuất hiện của loài cá hoàng đế ở hồ Trị An gần 2 năm qua cho thấy có sự phát triển bùng nổ về số lượng cá thể. Theo ghi nhận, vào tháng 11-2006, cá hoàng đế bắt được tại hồ Trị An có chiều dài khoảng 10-14cm, với số lượng ít, đến nay chiều dài của chúng đã đạt khoảng 100 đến 140cm, với mật độ dày. Cá lớn nhất bắt được ngày 8-6-2007, cân nặng 0,83 kg. Các nhà nghiên cứu cảnh báo, nếu theo tốc độ sinh sản của loài cá hoàng đế như hiện nay thì trong khoảng 5 năm nữa, hệ sinh thái lòng hồ Trị An có thể bị đe dọa và nguy cơ về mất dần khả năng tự làm sạch của nguồn nước lòng hồ là đáng báo động.
Sỹ Tuyên
Ninh Hải - Ninh Thuận: Thả nuôi 154 ha tôm sú vụ chính
Nguồn tin: Ninh Thuận, 14/06/2007
Ngày cập nhật: 15/6/2007
Vào vụ nuôi tôm sú chính tháng 5-2007, nông dân huyện Ninh Hải đã thả nuôi 112 ha, nâng tổng số diện tích thả nuôi từ đầu vụ đến nay 154 ha, trong đó: Tân Hải 35,5 ha, Hộ Hải 16 ha, Phương Hải 50 ha… Hiện nay bệnh tôm đã xuất hiện ở hầu hết các khu vực thả tôm. Có 50,7 ha tôm bệnh đốm trắng, thân đỏ và bệnh teo gan, xảy ra ở trà nuôi tôm từ 25-30 ngày tuổi. Trung tâm Khuyến ngư khuyến cáo người nuôi tôm ở khu vực Đầm Nại ngừng thả nuôi và nhắc nhở bà con phải đưa mẩu tôm giống xét nghiệm trước khi thả nuôi.
Hồ Điệp,Báo Ninh Thuận
Miền Trung: Báo động thương lái dùng phân urê ướp cá
Nguồn tin: SGGP, 13/06/2007
Ngày cập nhật: 14/6/2007
Theo nhiều ngư dân ở các xã Tam Quang, Tam Giang, Tam Hòa, Tam Hải, Tam Tiến (huyện Núi Thành, Quảng Nam), những ghe buôn cá (người địa phương gọi là dân “rỗi”) ra tận nơi các tàu thuyền đánh bắt hải sản, mua cá xong là dùng phân u-rê để ướp. Cách thức phổ biến của dân “rỗi” là cứ vài lớp cá rải lên một lớp đá lạnh và vài muỗng u-rê để làm cho cá tôm tươi lâu ngày hơn. Bà con ngư dân Núi Thành cho biết, việc dùng phân u-rê ướp cá ngay từ ngoài khơi đã phổ biến hơn 10 năm nay. Ban đầu là một số ghe “rỗi” của Quảng Ngãi, rồi lan rộng ra cả vùng biển miền Trung. Qua tìm hiểu đến nay vẫn chưa có ngành chức năng nào quan tâm, khuyến cáo hoặc kiểm tra xử lý.
Xuân Thiều
Hội nghị thương mại và công nghệ các loài cá da trơn toàn cầu: Cá da trơn Việt Nam là câu chuyện thần kỳ
Nguồn tin: SGGP, 14/06/2007
Ngày cập nhật: 14/6/2007
Cá đồng trúng giá
Nguồn tin: CT, 13/6/2007
Ngày cập nhật: 14/6/2007
Báo động về VSATTP: Đến cá cũng nhiễm độc
Nguồn tin: TP, 13/06/2007
Ngày cập nhật: 14/6/2007
Vi phạm trong việc nuôi, vận chuyển cá sấu: Có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Nguồn tin: SGGP, 13/06/2007
Ngày cập nhật: 13/6/2007
Tổ chức, cá nhân nuôi cá sấu và các loài động vật hoang dã nguy hiểm phải đăng ký trại nuôi tại Chi cục Kiểm lâm. Cụ thể, trại nuôi phải có tường rào xung quanh, xây dựng bằng vật liệu kiên cố.
Ngoài ra, theo Quyết định số 83/2007/QĐ-UBND của UBND TPHCM ban hành ngày 11-6, thì các cơ quan: kiểm lâm, công an, quản lý thị trường… có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với mọi hành vi vi phạm trong họat động nuôi, vận chuyển cá sấu sống và các loài động vật hoang dã nguy hiểm.
Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính, bồi thường thiệt hại, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đ.Gi.A
Thành phố Hồ Chí Minh: Báo động hoá chất, kháng sinh trong hải sản
Nguồn tin: Lao Động, 13/06/2007
Ngày cập nhật: 13/6/2007
Nhân giống thành công ngọc trai cánh đen
Nguồn tin: KHPT, 08/06/2007
Ngày cập nhật: 13/6/2007
KS. Hà Đức Thắng và cộng sự (Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1) nghiên cứu nhân giống thành công một giống trai lấy ngọc quý hiếm có nhiều ưu điểm vượt trội của vùng biển Việt Nam: kích thước lớn, mỗi lần có thể cấy từ 5 đến 10 hạt nhân ngọc và cho xà cừ nhiều màu sắc, trong khi các loại trai khác chỉ cấy từ 1 đến 2 hạt nhân ngọc. Trai cánh đen còn có tên gọi khác là trai ngọc nữ (Pteria penguin), là một trong những loài trai đang được nuôi lấy ngọc khá phổ biến trên thế giới.
Trai cánh đen có kích thước trưởng thành khá lớn, chiều cao vỏ đạt 25 - 30 cm, nặng 1.500 - 2.000 g/con. Tơ chân rất lớn bám chắc vào các vật rắn trong nước biển. Chúng phân bố ở nhiều thủy vực ven biển trong nước, từ Hạ Long đến Thanh Hóa, Nghệ An, nơi có độ mặn khá cao 29 - 30%o, ở độ sâu 5 - 10 m, tương đối xa bờ, ít thấy phân bố ở vùng gần bờ. Hiện nay, số lượng trai cánh đen ngoài tự nhiên không còn nhiều và được đưa vào danh mục các loài cần được bảo vệ. Đây là giống trai có nhiều triển vọng và tiềm năng lớn, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 bắt tay nghiên cứu, đến năm 2006 việc thử nghiệm nhân giống thành công bước đầu tại Trại sản xuất giống Cát Bà - Hải Phòng.
KS. Thắng cho biết, trai cánh đen là loài phân tính rõ rệt, con đực, con cái riêng biệt. Trong mùa sinh sản tuyến sinh dục đực có màu trắng sữa, tuyến sinh dục cái có màu vàng chanh. Khi thành thục tuyến sinh dục phủ kín phần nội tạng từ gốc tơ chân đến giáp cơ khép vỏ. Dưới tác dụng kích thích của các yếu tố môi trường (thay đổi nhiệt độ, độ mặn), trai cái và trai đực phóng trứng và tinh trùng vào nước biển. Trứng nhanh chóng thụ tinh trong nước và phôi bắt đầu phát triển. Sau 24 giờ phôi phát triển thành ấu trùng đỉnh vỏ thẳng, sau 48 giờ ấu trùng bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài. Sau 8 ngày ấu trùng chuyển sang giai đoạn đỉnh vỏ lồi, ấu trùng xuất hiện chân bám sau 25 ngày.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam sản xuất giống trai ngọc loài Penguin thành công với số lượng khá lớn. Công nghệ sản xuất giống cơ bản dựa trên công nghệ sản xuất giống các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ khác, có cải tiến cho phù hợp với loài này. Hiện Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 đã cho ra đời hàng trăm ngàn con giống.
P. DUY
Sông Đốc (Cà Mau) nuôi và khai thác trên 24.400 tấn thủy sản
Nguồn tin: CMCRT, 10/6/2007
Ngày cập nhật: 13/6/2007
Từ đầu năm 2007 đến nay, sản lượng khai thác thủy sản của ngư dân thị trấn Sông Đốc đạt trên 24 ngàn 400 tấn.
Trong đó, tôm đạt gần 2.200 tấn, mực đạt 3.500 tấn còn lại là cá các loại. Bình quân sản lượng khai thác hằng tháng đều đạt trung bình từ 4.900 tấn. Một số ngư dân cho biết sản lượng mực khai thác trong những tháng đầu năm đạt khá cao, song giá mực lại giảm nhiều, gây ảnh hưởng đến đời sống bà con.
Riêng tôm nuôi sản lượng ước đạt trên 100 tấn, chủ yếu là tôm sú. Ngoài ra bà con còn thả nuôi cua, cá chẽm, sò huyết. Trong tháng 5 đã thu hoạch được gần 3 tấn cua. Nhiều nơi tôm nhiễm bệnh và chết rãi rác ./.
Kiên Giang
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.