Mê muối… bỏ tôm!
Nguồn tin: SGGP, 18/07/2007
Ngày cập nhật: 18/7/2007
Cách nay vài năm, cư dân các tỉnh ven biển từ Bến Tre sang Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu… ùn ùn phá đồng muối chuyển sang nuôi tôm sú! Hiện nay, ngược lại “dân mê muối… bỏ tôm”. Anh Mai Văn Trí, cán bộ Phòng Kinh tế huyện Ba Tri (Bến Tre) quả quyết: Hạt muối đang lên đời, đi đâu cũng nghe bà con bàn chuyện làm muối thấy ham lắm…
Giá muối tăng...…kỷ lục!
Thu hoạch muối trong niềm vui trúng giá. Ảnh: H.P.L
26.000đ- 28.000đ/giạ muối, giá cao kỷ lục từ trước đến nay, buộc thương lái phải tranh nhau mua muối. Anh Nguyễn Thanh Trung, lái muối ở Ba Tri (Bến Tre) cho biết: “Thời điểm này năm ngoái, giá muối chỉ 8.000đ- 9.000đ/giạ mua bao nhiêu cũng có, nay tăng lên gấp mấy lần. Giá càng tăng, muối càng khan hiếm mua rất khó khăn”. Chưa bao giờ, người dân làm muối ở Bến Tre phấn khởi như năm nay, khi giá cứ tăng liên tục.
Ông Lê Quốc Phong, xã Bảo Thạnh (Ba Tri) hớn hở: “Có nằm mơ tụi tui cũng không nghĩ giá muối cao như vầy. Năm nay, thời tiết thuận lợi ruộng muối đạt trên 300 giạ, cộng giá cao cả nhà sống khỏe”. Anh Nguyễn Bình Long, ở ấp 4 hồ hởi: “Nghề làm muối cứ thấy nắng to là mừng thầm trong bụng, suốt ngày ở ngoài đồng tuy vất vả nhưng bù lại trúng mùa - trúng giá ai cũng vui”. Kéo chúng tôi ra thăm đồng muối bạt ngàn, anh Ngô Văn Cao, Phó Chủ tịch UBND xã Bảo Thạnh nói: “Dân xứ này chủ yếu sống nhờ ruộng muối, mấy năm trước nghề này bấp bênh lắm bởi giá sụt tệ hại. Nay muối tăng giá khiến dân Bảo Thạnh mừng như bắt được vàng”.
Tại xã Thạnh Phước (Bình Đại, Bến Tre), dân làm muối cũng vui sướng vì trúng giá. Ông Tư Trong kể: “ Cách nay khoảng 4 năm, cao trào nuôi tôm bùng phát, 10 hộ thì hết 7 người mê tôm, nhà nào có tiền là bỏ muối chuyển sang nuôi tôm. Thấy bà con nuôi tôm hốt bạc, tui mê lắm nhưng vì không vốn nên đành phải làm muối. Trong cái rủi cũng có cái may, phải hồi đó theo con tôm thì bây giờ “ôm nợ” bán đất là cái chắc. 6 công của tui muối năm nay thu hoạch được hơn 500 giạ, trừ chi phí lời gần 9 triệu đồng. Chưa kể, nuôi cá luân canh thêm kiếm đồng ra đồng vô, sống khỏe”.
Ông cho biết thêm: “Mấy đứa cháu tui ở Thạnh Phước trước đây khá nhờ làm muối, đứa nào cũng mua được 1 – 2 chiếc ghe chày chở muối đi bán khắp miền Tây. Từ khi con tôm phất lên, tụi nó bỏ muối chuyển qua nuôi tôm. Bao nhiêu vốn tích cóp từ hạt muối, vay thêm ngân hàng đổ xuống ao tôm, mấy năm liền thất trắng bây giờ ghe chày không còn, nợ ngân hàng không cách trả được, đất vuông tôm bán chẳng ai mua. Năm nay, hạt muối lên hương tụi nó ngồi tiếc, muốn làm lại sân muối thì không có tiền. Đứa nào cũng tức anh ách”.
Hồi sinh... cánh đồng muối
Theo anh Mai Văn Trí, cán bộ Phòng Kinh tế huyện Ba Tri, diện tích muối đã tăng lên 740ha và sẽ còn tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên, nghề này giá cả lên xuống thất thường nên chúng tôi chưa vội khuyến khích bà con ào ạt tăng diện tích. Để dân thực sự sống được từ nghề muối, huyện đang khảo sát lại toàn vùng và triển khai mô hình “muối sạch” phục vụ xuất khẩu. Theo đó, những hộ tham gia mô hình sẽ được đầu tư bạt phủ trên ruộng muối, máy bơm, tập huấn kỹ thuật và được nhà máy sản xuất muối i ốt hợp đồng thu mua cao hơn giá thị trường 100đ/kg. Anh Trí cho rằng, làm muối sạch sẽ rút ngắn được thời gian kết tinh, hạn chế tạp chất và cho ra sản phẩm chất lượng.
Ông Nguyễn Văn Năm, ở xã Bảo Thạnh tiết lộ: “Sản xuất muối sạch nhiều hộ muốn làm lâu rồi nhưng gặp khó ở khâu tiêu thụ. Nếu như nhà nước triển khai chương trình muối sạch và có đầu ra tốt thì nông dân mạnh dạn làm”.
Theo anh Bùi Văn Nhỏ, Chánh văn phòng UBND xã Bảo Thạnh: “Quan điểm của xã là quyết giữ nghề muối truyền thống. Hiện nay, diện tích muối khoảng 530ha và khả năng sẽ tăng thêm. Qua nhiều năm nghề muối tuy có lúc thăng trầm nhưng không phụ người. Thực tế đã có không ít hộ ổn định cuộc sống và cho con cái ăn học thành đạt cũng từ muối. Nhưng để nghề muối phát triển ổn định rất cần nhà nước quan tâm đầu tư hạ tầng, thủy lợi, kỹ thuật… Do luân canh nhiều năm đã làm ruộng muối xuống cấp”.
Ông Ngô Văn Thử, Chủ tịch UBND xã Thạnh Phước, huyện Bình Đại báo tin vui: Những ngày qua, người dân đã chuyển trên 40ha tôm sang làm muối. Người dân giờ đây “mê” muối lắm, họ vừa làm muối và luân canh thủy sản tăng thu nhập. Đây là điều kiện tốt vực dậy cánh đồng muối ven biển…
LỢI - DUY
Nhân giống cá leo thành công
Nguồn tin: SGGP, 17/07/2007
Ngày cập nhật: 18/7/2007
Theo Trường Đại học Cần Thơ cho biết: Sau thời gian thử nghiệm, các kỹ sư Khoa Thủy sản vừa cho sinh sản thành công 20.000 con giống cá leo nhân tạo. Hiện tại, tiếp tục nhân thêm 50.000 con cá bột. Theo đó, cá bố mẹ được đánh bắt tự nhiên đem về nuôi theo quy trình chặt chẽ, áp dụng chế độ dinh dưỡng thích hợp. Sau đó kích thích cho cá đẻ trứng nhân tạo với tỷ lệ nở trứng đạt khoảng 50%-70%. Theo Khoa Thủy sản, cá leo có giá trị kinh tế cao, thịt thơm ngon. Cá thường sống ở An Giang, khu vực Biển Hồ (Campuchia)… nhưng hiện nay cá leo rất khan hiếm do khai thác tràn lan. Với thành công nhân giống cá leo, bình quân sau 10-12 tháng nuôi cá sẽ đạt trọng lượng từ 1kg/con trở lên.
Phước Lợi
Phú Yên: Cảnh báo môi trường và bệnh tôm
Nguồn tin: PY, 16/7/2007
Ngày cập nhật: 18/7/2007
1. Về các chỉ tiêu thủy lý, thủy hoá thông thường
Kết quả xét nghiệm mẫu nước thu tại các vùng nuôi thủy sản ở các huyện Đông Hòa, Tuy An và Sông Cầu từ 28/6 đến 10/7/2007 cho thấy:
Tại các vùng nuôi tôm tập trung, độ mặn ngoài ao nuôi ít có biến động so với lần thu mẫu trước. Độ mặn nước biển tự nhiên ở các vùng nuôi tôm thuộc huyện Sông Cầu vẫn ở mức trên 33‰, độ mặn trong ao nuôi 34 - >35‰, đây là một trong những bất lợi đối với vùng nuôi tôm Sông Cầu vào mùa hè. Độ mặn quá cao làm cho tôm nuôi chậm lớn và dễ phát sinh bệnh. Vùng nuôi Tuy An, Đông Hoà độ mặn 20‰, ngưỡng lý tưởng để nuôi tôm. Hầu hết các vùng nuôi độ kiềm, pH nước đều nằm trong ngưỡng cho phép (80- 150ppm và 7,8- 8,3).
Kiểm tra tôm nuôi – Ảnh: N.L
Các chỉ tiêu về ô nhiễm dinh dưỡng: Hầu hết tại các điểm thu mẫu, các chỉ tiêu trên đều thấp, nằm trong ngưỡng cho phép, chứng tỏ các nguồn nước chưa xảy ra ô nhiễm dinh dưỡng. Cá biệt ở huyện Đông Hòa, hồ ông Tự (Đa Ngư, Hòa Hiệp Nam) và hồ ông Tiên (Hòa Xuân Đông) hàm lượng Nitric, Amoniac và tổng Phospho đều cao vượt ngưỡng cho phép trên 2 lần.
Các chỉ tiêu ô nhiễm hữu cơ: Có thể thấy rõ liên quan giữa ô nhiễm dinh dưỡng và ô nhiễm hữu cơ. Ở các ao có mức độ ô nhiễm dinh dưỡng cao, tảo và các vi sinh vật phát triển mạnh, dẫn đến các chỉ số BOD5 và Chlorophyll-a tăng cao vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Vì vậy, khi ao nuôi bị ô nhiễm dinh dưỡng phải tăng cường thay nước nhằm giảm bớt lượng chất dinh dưỡng tích lũy và giảm mật độ tảo trong ao. Nếu điều kiện không thay nước được thì phải tăng cường sử dụng chế phẩm vi sinh để chuyển hóa các chất độc sang dạng khác không gây hại cho tôm nuôi.
Ô nhiễm sắt và Hydrosulfua: Ở các điểm thu mẫu kỳ này hầu hết đều không phát hiện thấy ô nhiễm.
Về chỉ tiêu vi sinh: Hầu hết các điểm thu mẫu không phát hiện thấy ô nhiễm vi sinh.
2. Tình hình bệnh tôm:
Trong kỳ qua, tình hình tôm nuôi ở các địa phương ổn định, không có báo cáo về bệnh tôm. Ở các vùng nuôi tôm sú và tôm thẻ, hiện tượng phổ biến là tôm nuôi hơi chậm lớn, nguyên nhân có thể do thời tiết nắng nóng kéo dài, nhiệt độ nước tăng cao và biến động lớn giữa ngày và đêm làm giảm hoạt động bắt mồi của tôm. Ngoài ra, thời tiết nắng nóng cũng tăng cường sự bốc hơi nước làm độ mặn nước tăng cao dẫn đến tôm nuôi chậm lớn, lột xác khó. Kết quả xét nghiệm các mẫu tôm thu ngày 28/6/2007 tại các vùng nuôi trong tỉnh cho thấy: không có mẫu nào nhiễm MBV và vius gây thân đỏ đốm trắng. Tuy nhiên, do tảo trong ao nuôi phát triển mạnh, một số ao tôm có biểu hiện nhớt thân nhẹ và chậm lớn. Khuyến cáo đối với người nuôi là sử dụng hóa chất diệt khuẩn ở liều nhẹ để kích tôm lột xác và diệt bớt tảo, sau đó sử dụng chế phẩm vi sinh để phân hủy chất thải ở đáy ao và làm sạch nước.
3. Khuyến cáo:
Để hạn chế tác hại của nắng nóng bà con nuôi tôm cần lưu ý cấp nước cao và định kỳ thay nước hoặc sử dụng các chế phẩm vi sinh để hạn chế các loại mầm bệnh cũng như hạn chế sự phát triển quá nhanh của tảo trong ao; đồng thời bổ sung đủ các loại khoáng, chất bổ và Vitamin C trong khẩu phần ăn của vật nuôi nhằm tăng cường sức đề kháng cho vật nuôi. Định kỳ sử dụng vôi để ổn định màu nước và các chỉ tiêu khác như kiềm, pH nước, tránh biến động lớn các chỉ tiêu trên trong ngày và đêm gây sốc tôm; thường xuyên theo dõi tình trạng sức khỏe tôm nuôi để có biện pháp sử lý kịp thời.
LÊ THỊ NỞ - Phó giám đốc Trung tâm Giống & Kỹ thuật Thủy sản
ĐBSCL: Cá tra tăng giá, dân cầm cự không muốn bán
Nguồn tin: SGGP, 17/07/2007
Ngày cập nhật: 18/7/2007
Ông Lê Chí Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang cho biết: Cá tra, ba sa ở ĐBSCL liên tục tăng giá. Tính đến sáng nay, cá tra nuôi hầm thịt trắng được các nhà máy mua với giá 13.700đ-13.800đ/kg, bình quân tăng 600đ-1.000đ/kg so tháng trước. Với giá này, người nuôi lời từ 800đ- 1.000đ/kg sau khi trừ chi phí. Theo nhận định, giá cá tăng là do các nước châu Âu “ăn hàng” trở lại; đặc biệt tình hình xuất khẩu sang thị trường Nga đang có chiều hướng tốt.
Nếu như trước đây cá rớt giá khiến người nuôi hoang mang kêu bán ào ạt thì nay giá cá tăng, thương lái “săn lùng” mua cá rất dễ dãi, không kiểm tra… tuy nhiên, nhiều hộ không vội bán mà trữ lại chờ giá tăng thêm.
Huỳnh Lợi
Vụ tôm sú 2007 giảm thiệt hại nhờ chú trọng giải pháp kỹ thuật và lịch thời vụ
Nguồn tin: TG, 16/7/2007
Ngày cập nhật: 17/7/2007
Vụ tôm sú 2007, tỉnh Tiền Giang đã thả nuôi được trên 565,5 triệu con tôm giống trên diện tích 3.372,5 ha trong đó có 419,1 triệu con tôm sú thả nuôi trên diện tích gần 1.621 ha theo dạng thâm canh. Nếu so với vụ nuôi năm 2006 thì diện tích nuôi có giảm gần 05% nhưng bù lại thiệt hại do dịch bệnh trên tôm đã được khống chế nhờ chú trọng giải pháp kỹ thuật, lịch thời vụ và biện pháp chăm sóc hợp lý, chất lượng con giống tốt... Từ đầu vụ nuôi đến nay, toàn tỉnh chỉ mới ghi nhận có 23,3 triệu con tôm sú giống bị bệnh trên diện tích 122,7 ha ,chiếm 4,12% trong khi diện tích bị thiệt hại cùng thời kỳ này năm trước lên đến 11,7%, giảm gần 70% về mức thiệt hại.
Theo báo cáo của Sở Thủy sản tỉnh Tiền Giang, vụ nuôi tôm sú năm nay, người dân thả tôm nuôi rất cẩn thận và tuân thủ nghiêm ngặt lịch thời vụ đã được khuyến cáo, chọn thời điểm thả tôm giống thích hợp, không thả giống tập trung và không đúng lịch như những năm trước. Đặc biệt, dựa vào diễn biến thời tiết, ngành thủy sản khuyến cáo người dân thả tôm nuôi dứt vụ trong tháng 7/2007, không kéo dài sang tháng 8/2007 đề phòng những bất lợi do thời tiết mưa bão phức tạp. Nhằm bảo đảm tiên đề cho một vụ tôm nuôi mới thắng lợi, tỉnh Tiền Giang hết sức chú trọng công tác chuyển giao kỹ thuật nuôi tôm sú, quản lý tốt chất lượng con giống cũng như tăng cường kiểm dịch thú y thủy sản. Chỉ tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã tổ chức được hàng trăm cuộc tập huấn, hội thảo, chuyển giao kỹ thuật nuôi trồng thủy sản phục vụ nông dân các vùng nuôi thủy sản tập trung đặc biệt là nuôi tôm sú ven biển Gò Công Đông. Ngoài ra, các cơ sở sản xuất giống thủy sản trong tỉnh cũng đã cung ứng gần 98 triệu con tôm sú giống phục vụ kịp thời nhu cầu nuôi tôm trong nhân dân.
Minh Trí
Tuy An (Phú yên): Nuôi 250 ha tôm vụ hai ở các vùng tránh lũ lụt
Nguồn tin: PY, 17/7/2007
Ngày cập nhật: 17/7/2007
Đến nay, huyện Tuy An đã thả giống tôm nuôi vụ hai năm 2007 trên diện tích 250 ha, trong đó có 15 ha tôm thẻ chân trắng, đạt 100% kế hoạch của huyện đề ra. Diện tích được đưa vào thả nuôi tôm trong vụ này chủ yếu nằm trong khu vực tránh được lũ lụt. Theo cơ quan chức năng, trong vụ nuôi này, người nuôi tôm ở huyện Tuy An đã chú trọng đến vệ sinh ao hồ, kiểm tra chặt chẽ tôm giống trước khi thả nuôi, mật độ thả tôm giống thưa hơn… Hiện một số khu vực nuôi tôm ở huyện Tuy An như An Cư, An Ninh Tây, An Hiệp... tôm nuôi phát triển tốt, chưa phát hiện tôm nuôi có dấu hiệu dịch bệnh. Được biết, trong vụ nuôi tôm đợt một 2007, phần lớn người nuôi tôm ở huyện Tuy An đều có lãi.
KHÁNH HUYỀN
Bến Tre: HTX Rạng Đông 10 năm phát triển
Nguồn tin: BTre, 10/07/2007
Ngày cập nhật: 17/7/2007
Năm Căn (Cà Mau): Sạt lở đất làm sập 1 trại tôm giống, 3 người chết, 1 người mất tích
Nguồn tin: CT, 16/7/2007
Ngày cập nhật: 17/7/2007
Thị trường cá tra ở ĐBSCL: Biến động khó lường
Nguồn tin: 16/7/2007CT,
Ngày cập nhật: 17/7/2007
Sau nhiều tháng liên tục rớt giá thê thảm, hơn một tuần qua, giá cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL tăng nhẹ trở lại, với mức tăng 200-500 đồng/kg so với tuần trước. Giá cá tra nguyên liệu tăng kéo theo giá cá tra giống các loại ở ĐBSCL cũng tăng 30-50 đồng/con. Giá tăng trở lại, nhưng sự phát triển của con cá tra ở ĐBSCL đang ẩn chứa nhiều vấn đề đáng lo ngại. Đặc biệt, tình trạng dư lượng kháng sinh ở cá tra nguyên liệu và có thể đẩy con cá tra vào tình trạng khủng hoảng thừa.
Tại ĐBSCL, sau khi liên tục tăng giá, từ ngày 3 đến ngày 15-3-2007, giá cá tra nguyên liệu các loại ở ĐBSCL đạt mức kỷ lục với giá từ 16.500 - 17.300 đồng/kg. Nguyên nhân được nhận định, thời tiết không thuận lợi, tỷ lệ hao hụt cá nuôi quá cao, từ 30-40% (trước đó chỉ khoảng 20%), dẫn đến tình trạng khan hiếm nguồn nguyên liệu. Từ đây, ở ĐBSCL phong trào nuôi cá tra bắt đầu phát triển ào ạt. Hệ quả là từ ngày 16 đến 23-3, giá cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL bắt đầu giảm và xuống liên tục ở những tuần tiếp sau đó. Giá cá tra nguyên liệu giảm đến mức chỉ còn 12.400 - 12.500 đồng/kg đối với loại thịt trắng, từ 10.000 - 12.000 đồng/kg với loại thịt vàng nhạt và thịt hồng - mức giá này được ghi nhận vào ngày 28-6. Một trong những nguyên nhân chính làm giá cá tra nguyên liệu giảm là nguồn cung cá tra nguyên liệu quá dồi dào. Trong khi đó, thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là rào cản kỹ thuật ở một số nước như: Nhật, Nga, Mỹ...
Thu hoạch cá tra giống ở xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ.
Cuối tháng 6, đầu tháng 7 - 2007, giá cá tra nguyên liệu trên thị trường bắt đầu tăng trở lại. Mức giá cụ thể được ghi nhận trong tuần từ 29-6 đến 5-7 như sau: cá loại thịt trắng giá từ 13.200 - 13.400 đồng/kg, tăng từ 800-900 đồng; cá loại thịt vàng giá 11.800 - 12.000 đồng/kg, tăng 1.500-1.800 đồng/kg; cá loại thịt hồng có giá 12.800 - 13.000 đồng/kg, tăng 800 - 1.000 đồng/kg. Đến ngày 13-7, giá cá tra nguyên liệu loại thịt trắng, thịt hồng ở ĐBSCL đã đạt mức từ 13.800 đồng/kg. Theo các doanh nghiệp chế biến thủy sản ở ĐBSCL, giá cá tra nguyên liệu tăng là do ký kết được nhiều hợp đồng xuất khẩu sản phẩm cá tra ở các nước châu Âu.
Giá cá tra nguyên liệu tăng, người nuôi cá tra ở ĐBSCL phấn khởi. Tình trạng kêu bán cá ồ ạt, “bán cá non” hiện đã chấm dứt. Tuy nhiên, ngày 3-7, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam đã công bố tình trạng khẩn cấp về việc thị trường Nhật phát hiện nhiễm dư lượng chất kháng sinh. Nhiều người cảnh báo: “Nếu tình trạng này chưa được giải quyết sẽ ảnh hưởng lớn đến uy tín hàng thủy sản của Việt Nam trên thị trường thế giới. Như vậy, nhiều khả năng, thị trường cá tra nguyên liệu tiếp tục diễn biến xấu trong thời gian tới”.
Cá tra giống: lo chuyện dư thừa
Ông Tư Hoa, ở khu vực 7, phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn, TP Cần Thơ- người có trên 10 năm ươm và buôn bán cá tra giong- cho biết: “Giá cá tra nguyên liệu tăng kéo theo nhu cầu nuôi tăng, nên giá cá tra giống tăng. Thường thời điểm cuối năm trước và đầu năm sau giá cá tra giống sốt do thời tiết không thuận lợi, tỷ lệ ươm đạt không cao, khan hiếm nguồn giống”. Ông Hoa đưa ra dẫn chứng, cuối năm 2006 và những tháng đầu năm 2007 khi con cá tra nguyên liệu đạt giá kỷ lục, cá loại 1 trên 17.000 đồng/con thì giá con cá tra giống tăng rất cao. Thời điểm này, giá bán cá tra giống loại 1 phân giá từ 450 - 500 đồng/con; cá loại 1,5- 1,7 phân giá 650-1.500 đồng/con, cá loại 2 phân giá 2.000 - 2.100 đồng/con.
Ngoài thị trường cá nguyên liệu tác động, giá cá tra giống cũng phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và chất lượng con giống. Ông Tư Hoa nêu ví dụ: “Cuối tháng 3 đầu tháng 4, con cá tra nguyên liệu giảm, nhưng cá giống lại tăng nhẹ. Nguyên nhân chủ yếu do những trận mưa dầm từ đầu tháng 3, nhiều cơ sở làm giống ở An Giang, Đồng Tháp... cho cá bố mẹ đẻ khi chưa đến tuổi thành thục, từ đó làm tỷ lệ cá ương đạt thấp”. Lúc đó, giá cá tra giống loại 1 - 1,2 phân từ 320-600 đồng/con; cá loại 1,5 - 1,7 phân giá 720 - 1.100 đồng/con; cá loại 2 phân giá khoảng 1.400-1.500 đồng/con.
Từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 6, giá cá tra giống ở tất cả các cỡ đều giảm. Ngoài nguyên nhân cá tra nguyên liệu trên thị trường rớt giá, do lợi nhuận từ con cá tra nguyên liệu hồi cuối năm 2006 đầu năm 2007 quá cao, nên nhiều hộ dân ở các tỉnh ĐBSCL đầu tư nuôi cá tra giống dẫn đến dư thừa. Ông Nguyễn Phước Lâm, ở ấp 5, xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ, cho biết: “Đầu năm đến nay, khu vực này có rất nhiều hộ từ Ô Môn, Thốt Nốt, thậm chí ở cả Đồng Tháp, An Giang... đến thuê đất để nuôi cá giống. Quá nhiều người đầu tư dẫn đến dư thừa con giống. Nhiều người trong số này không kinh nghiệm, không có kỹ thuật. Mặt khác, giá cá nguyên liệu giảm nhưng giá thức ăn, thuốc thú y thủy sản... trên thị trường tăng từ 10-20% so với hồi đầu năm, làm việc đầu tư vào ương cá giống hạn chế, chất lượng con cá tra giống giảm, ảnh hưởng nhiều đến giá cả trên thị trường”.
Đầu tháng 7 đến nay, cùng thời điểm với cá tra nguyên liệu tăng giá, cá tra giống trên thị trường lại tăng. Hơn 3 ngày qua, giá cá tra giống các loại tăng từ 30-50 đồng/con. Tại TP Cần Thơ, cá tra giống loại 1 - 1,2 phân giá 220 đồng/con; loại 1,5 - 1,7 phân: 400-380 đồng/con; loại 2 phân: khoảng 450 đồng/con. Còn ở An Giang, cá tra giống loại 1 - 1,2 phân giá 150 - 230 đồng; loại 1,5-1,7 phân: 310 - 450 đồng/con, cá loại 2 phân: 400-450 đồng/con. Tuy nhiên, giá cá bột trên thị trường khoảng 10 đồng/con hồi đầu năm nay giảm xuống chỉ còn 0,8 - 1 đồng/con.
Giá cá bột quá rẻ, giá cá tra nguyên liệu chưa có dấu hiệu giảm, nhiều người lo ngại phong trào phát triển ao nuôi nuôi cá giống mới sẽ đối mặt với khó khăn. Ông Nguyễn Phước Lâm, ấp 5, xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ, nói: “Đào ao nuôi cá thương phẩm phải thông qua chính quyền địa phương, nên khó có thể phát triển mạnh diện tích này được. Việc nuôi cá tra giống hiện nay đang bị thả nổi, nên nhiều nơi dễ dàng tăng nhanh diện tích, dẫn đến khủng hoảng thừa khi con cá nguyên liệu trên thị trường giá tăng cao”. Còn theo ông Tư Hoa, ở khu vực 7, phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn thì: “Gần đây, nhiều doanh nghiệp chế biến xuất khẩu con cá tra hướng đến khép kín sản xuất - tự sản xuất cá giống, cá nguyên liệu để chế biến. Không kiểm soát được số diện tích ương phát sinh, kiểm soát chất lượng con cá giống sẽ dẫn đến tình trạng cung vượt cầu. Giá cá giống trên thị trường chắc chắn sẽ tiếp tục giảm”.
Có thể nói, từ đầu năm đến nay, con cá tra nguyên liệu và cá tra giống trên thị trường có quá nhiều biến động. Trong khi đó, “đầu ra” của các sản phẩm từ cá tra đang gặp nhiều rào cản từ thị trường bên ngoài. Vì thế, hơn lúc nào hết, kiểm soát an toàn thực phẩm vùng nuôi, kiểm soát dư lượng hóa chất kháng sinh trong nguyên liệu thủy sản, giám sát môi trường... cần phải được người nuôi, doanh nghiệp và chính quyền các cấp đặc biệt quan tâm.
ĐÔNG TRIỀU
Thuỷ sản tiêu thụ nội địa: Bỏ ngỏ dư lượng kháng sinh
Nguồn tin: SGTT, 15/7/2007
Ngày cập nhật: 16/7/2007
Gần đây, trước các thông tin thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đang bị nhiều quốc gia cấm nhập vì dư lượng kháng sinh Chloramphenicol (gây còi cọc, thiếu máu, lờn thuốc...). Người tiêu dùng lại càng lo hơn, liệu tôm cá đông lạnh này có tràn vào siêu thị?
Hàng đông lạnh nội địa chưa bao giờ bị xét hỏi về giấy chứng nhận dư lượng kháng sinh. Những nỗ lực của cơ quan quản lý cũng chỉ dừng lại ở mối lo làm sao hàng đi nước ngoài không bị dư lượng kháng sinh quá mức cho phép. Ảnh : Bích Nga
Cấm nhưng chưa kiểm
Cho đến nay, chưa có sản phẩm nào bày bán ở siêu thị bị các cơ quan quản lý kiểm tra và thông báo về dư lượng kháng sinh Chloramphenicol. Nếu có kiểm, mức phạt chỉ từ 3 – 5 triệu kèm tịch thu, tiêu thụ sản phẩm cũng khó có thể răn đe.
Bà Nguyễn Phương Thảo, giám đốc siêu thị Maximark nói: “Bên cạnh các chỉ tiêu về hoá chất, vi sinh, chúng tôi cũng yêu cầu các nhà cung cấp phải có phiếu kiểm định về các loại kháng sinh, nhất là với các mặt hàng nguyên liệu tươi như tôm, cá, thịt”. Nhưng yêu cầu này cũng mới chỉ là “hình thức” khi 6 tháng nhà cung cấp mới phải nộp một lần.
Bà Nguyễn Thị Hải, giám đốc siêu thị Hà Nội kể: “Từ lúc tôi kinh doanh siêu thị đến nay, các cơ quan quản lý nhà nước chỉ đến lấy mẫu kiểm tra thực phẩm chế biến sẵn (giò chả), rau củ quả, trái cây, bánh kẹo, sữa... còn thực phẩm đông lạnh ngoài gà, chưa thấy kiểm tra mặt hàng nào. Siêu thị nhập hàng chủ yếu căn cứ vào các giấy tờ doanh nghiệp cung cấp và uy tín của thương hiệu”.
Mặc dù theo Quyết định số 07/2005/QĐ-BTS, Chloramphenicol đứng hàng thứ 2 trong danh mục các hoá chất, kháng sinh bị cấm sử dụng trong sản xuất, kinh doanh nhưng phó giám đốc một công ty kinh doanh thuỷ hải sản lớn tại TP.HCM, đơn vị có gần 20 mặt hàng thuỷ hải sản đông lạnh bán vào siêu thị nói: “Quy định về chloramphenicol chỉ khắt khe khi làm hàng xuất khẩu, còn với hàng tiêu thụ nội địa, đâu thấy ai nói gì (?!)”.
Vẫn chỉ là câu hỏi?
Các siêu thị đều có quầy hàng thực phẩm đông lạnh đã qua sơ chế và tẩm ướp gia vị của những công ty có thương hiệu. Do bảo quản kém, một số sản phẩm đông lạnh có hiện tượng rỉ nước bên trong bao bì, có thể giảm dinh dưỡng, sinh ra độc tố, gây ngộ độc thực phẩm... nhưng vẫn có người mua.
Nhiều lô hàng bị Mỹ từ chối cho nhập khẩu vì có dư lượng Chloramphenicol hoặc nhiễm khuẩn salmonella. Sản phẩm có 1 trong 2 thứ trên đều không tốt, nhưng người tiêu dùng nội địa lại hoàn toàn không nhận được thông tin từ nhà sản xuất về “số phận” của những lô này cũng như những lô tương tự chưa kịp xuất. Một câu hỏi khác là liệu hàng đóng nhãn nội địa có “bị” như thế không khi có cùng nguyên liệu và quy trình sản xuất?
Bích Thuỷ
Một số chất cấm sử dụng trong thực phẩm:
Foóc-môn ăn vào có thể gây khó tiêu, buồn nôn, nôn mửa, viêm loét dạ dày tá tràng, có khả năng gây ung thư.
Hàn the ảnh hưởng khả năng sinh sản, thai nhi, gây ngộ độc mãn tính (rối loạn tiêu hoá, chậm chạp lú lẫn, viêm da, thiếu máu, co giật và rụng tóc...). Trẻ em và sơ sinh nếu uống nhầm chất này 1-2g/kgP sẽ chết sau 19 giờ đến 7 ngày.
Sunfit : gây dị ứng
Chloramphenicol : gây còi cọc, thiếu máu, lờn thuốc...
Nitrofurans : gây độc trên gen di truyền, thiếu máu, lờn thuốc, ung thư...
Xây dựng thương hiệu cho hàng thuỷ sản xuất khẩu
Nguồn tin: TTXVN, 13/07/2007
Ngày cập nhật: 16/7/2007
6 tháng đầu năm 2007: Sản lượng nuôi trồng và giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh
Nguồn tin: Fistenet, 11/7/2007
Ngày cập nhật: 15/7/2007
Huyện Cái Bè (Tiền Giang) đa dạng hóa các mô hình nuôi trồng thủy sản
Nguồn tin: TG, 9/7/2007
Ngày cập nhật: 15/7/2007
Hiện nay, Cái Bè đã mở rộng diện tích nuôi thủy sản nước ngọt lên 1.660 ha, hàng năm đạt sản lượng trên 15.000 tấn tôm cá các loại, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước hoặc cung ứng cho hệ thống nhà máy chế biến xuất khẩu. Đáng chú ý, diện tích ao đầm nuôi cá da trơn theo quy mô công nghiệp đạt trên 36 ha, nhiều nhất tỉnh Tiền Giang.
Huyện Cái Bè đang phát huy thế mạnh của huyện đầu nguồn vùng lũ, có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, đa dạng hóa các mô hình nuôi trồng thủy đặc sản hướng tới xuất khẩu. Thông qua đó, huyện tạo sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế, giúp nông dân sớm ổn định cuộc sống đồng thời cụ thể hóa chủ trương chung sống chung với lũ.
Huyện đã quy hoạch vùng ven sông Tiền và các cồn bãi trên sông phát triển mạnh nghề nuôi cá da trơn theo quy mô thâm canh hoặc bán thâm canh, nuôi theo hình thức đăng quầng tạo nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Đối với vùng nội đồng hoặc khu vực phía Bắc tiếp giáp với Đồng Tháp Mười, huyện Cái Bè khuyến khích nông dân đưa con cá đồng lên ruộng theo mô hình lúa cá, lúa tôm hoặc kết hợp trồng hai vụ lúa với một vụ nuôi thủy sản mùa lũ. Các loại thủy sản có giá trị cao được địa phương đưa vào cơ cấu nuôi trồng gồm: cá lóc, cá rô đồng, cá trê, cá rô phi dòng gifl, tôm càng xanh... đáp ứng thị trường tiêu dùng nội địa và chế biến xuất khẩu.
Để tạo đà cho phong trào, trong năm 2007 Cái Bè đang nỗ lực vận động thành lập Hợp tác xã nuôi cá tra xuất khẩu tại xã Hòa Hưng, đồng thời thông qua Hội nghề cá, huyện tiếp tục triển khai dự án nuôi cá vùng lũ tại xã Hậu Mỹ Trinh có quy mô 100 ha. Ngoài ra, để hỗ trợ cho các mô hình nuôi thủy sản đang được nhân rộng trên hệ thống các sông rạch, cồn bãi cù lao cũng như khu vực nội đồng, nghề ương ép cá giống gần đây cũng đang phát triển mạnh cả về quy mô, số cơ sở và sản lượng cung ứng. Theo báo cáo của ngành Nông nghiệp huyện, sản lượng cá giống các loại của Cái Bè đã đạt từ 100 đến 120 triệu con/mỗi năm, không chỉ thỏa mãn nhu cầu tại chỗ mà còn được đưa đi tiêu thụ khắp Đồng bằng sông Cửu Long.
Minh Trí
Cá tra, ba sa – cần vượt qua những rào cản !
Nguồn tin: AG, 13/7/2007
Ngày cập nhật: 14/7/2007
Ông Sáu cá đồng
Nguồn tin: KTSG, 12/7/2007
Ngày cập nhật: 14/7/2007
Bỏ hơn 1 tỉ đồng để lập trang trại nuôi cá đồng trên vùng đất nhiễm phèn ở xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, nhiều người cho ông Sáu Tỉnh quá liều lĩnh vì dám lấy tiền bỏ bể. Hai mùa cá đồng trôi qua, ông đã thu lãi hàng trăm triệu đồng từ con sặt rằn, rô đồng, thác lác…, gây sự ngạc nhiên cho nông dân toàn vùng.
Trong lúc nhiều nơi, nhiều vùng vì lợi ích kinh tế cục bộ, vì kế mưu sinh đang vô tình hoặc cố ý ra sức tận diệt nguồn lợi tôm, cá tự nhiên, thì việc ông Nguyễn Phước Tỉnh (bà con thường gọi là chú Sáu Tỉnh), 70 tuổi, quê ở huyện Càng Long về vùng đất nhiễm phèn, nhiễm mặn ở xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, nuôi cá đồng được xem là chuyện lạ. Cái lạ là từ xưa đến nay, người dân ở xã này chỉ biết độc canh cây lúa và tận thu con cá đồng-nguồn lợi “trời cho” sau mỗi vụ lúa, còn chuyện nuôi cá đồng để ăn hoặc nuôi để kinh doanh thì “xưa nay hiếm”.
Những năm gần đây hàng ngàn người dân đã đổ xô về vùng gần nguồn nước ngọt phù sa nuôi tôm càng xanh, cá tra, hay về vùng ngập mặn nuôi tôm sú, ông Sáu Tỉnh lại chọn hướng đi riêng. “Năm 2005, tôi và thằng con trai út mua 4 héc ta đất để trồng lúa. Do đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn nên chỉ trồng được một vụ lúa vào mùa mưa, còn mùa khô đất bỏ hoang”, ông kể. Trồng lúa không hiệu quả, ông Sáu chuyển hướng làm ăn. Bỏ ra nhiều tháng trời nghiên cứu thổ nhưỡng, nguồn nước, hai cha con ông bắt đầu lên liếp, bao ngạn, lập vườn, đào ao nuôi cá trong vùng nước lợ. Thấy ông quyết chí khởi nghiệp nhưng thiếu vốn, người thân và bạn bè đã trợ vốn giúp ông thực hiện ước mơ với 1 tỉ đồng trong tay. “Người miền Tây có câu “chim trời, cá nước, ai bắt được nấy ăn”, nhờ vào sự ưu đãi của thiên nhiên nên con người vùng đất phương Nam phóng khoáng, giàu nghĩa, nặng tình. Trước là vậy, còn bây giờ về đồng còn được bao nhiêu cá để mà ăn? Cứ khai thác kiểu tận diệt thế này, cá nào lớn cho nổi! Chính vì vậy tôi mới có ý tưởng nuôi cá đồng vì dễ bán, giá cả ổn định”, ông Sáu giải thích.
Vụ đầu tiên năm 2005, ông Sáu thả nuôi gần 200.000 con sặt rằn, rô đồng, cá lóc, cá chép, cá mè, cá trôi, thác lác trên diện tích 2,5 héc ta. Do thiếu kinh nghiệm, nuôi chung nhiều loại cá nên quá trình sinh trưởng phát triển của chúng không đồng đều. Qua bảy tháng nuôi, ông thu hoạch trên 14 tấn cá thương phẩm, sau khi trừ hết chi phí còn lãi hơn 120 triệu đồng. “Hôm thu hoạch vụ cá, hàng trăm nông dân quanh vùng và cán bộ các cấp trong tỉnh đến chứng kiến, trao đổi kinh nghiệm. Tôi chỉ biết giải thích là thấy môi trường nước lợ ở đây phù hợp với việc nuôi cá đồng thì nuôi thử, ai ngờ thành công thiệt”, ông nhớ lại. Trong khi đó người con trai út của ông Sáu phụ trách kỹ thuật của trang trại nuôi cá cho rằng: “Điều thú vị khi nuôi cá đồng ở nước lợ là cá phát triển khỏe mạnh, ít bị dịch bệnh như nuôi ở nước ngọt. Nếu độ mặn dao động từ ba đến năm phần ngàn, cá đồng phát triển nhanh, thịt cá săn chắc, thơm ngọt. Đặc biệt, cá sặt rằn nuôi trong vùng nước lợ làm khô xuất khẩu rất được thị trường ưa chuộng”.
Đến vụ năm 2006, ông Sáu Tỉnh tiếp tục thả nuôi 160 ki lô gam cá giống (khoảng 300.000 con các loại). Rút kinh nghiệm năm trước, lần này ông nuôi cá sặt rằn, thác lác, cá chép, hơn hai phần ba trong số đó là cá sặt rằn. Cuối vụ, ông thu hoạch được 17 tấn cá thương phẩm, lãi hơn 150 triệu đồng. Theo kinh nghiệm của ông, cùng diện tích 2,5 héc ta nhưng nếu dùng để nuôi cá đồng nước lợ thì hiệu quả mang lại sẽ tăng gấp 10-15 lần so với trồng lúa. “Trăm nghe không bằng một thấy”, từ thành công của ông Nguyễn Phước Tỉnh, không chỉ bà con địa phương mà nhiều nông dân đến từ các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang… cũng muốn học theo mô hình trang trại nuôi cá đồng nước lợ”, anh Thạch Tô, Phó chủ tịch UBND xã Kim Hòa, cho biết. Hiện chính quyền xã này cũng đang lập dự án kêu gọi các doanh nghiệp và các quỹ trợ vốn cho nông dân để phát triển nghề nuôi cá đồng ở địa phương.
Đình Cảnh
Trung tâm khuyến ngư tỉnh hỗ trợ 1,2 vạn con cá giống cho đồn biên phòng Cảng Gianh
Nguồn tin: QB, 12/07/2007
Ngày cập nhật: 14/7/2007
Vừa qua, Trung tâm khuyến ngư tỉnh đã tổ chức bàn giao cá giống và tập huấn kỹ thuật cho cán bộ, chiến sĩ thuộc Đồn biên phòng Cảng Gianh, đóng tại thôn Tân Mỹ, xã Quảng Phúc, (Quảng Trạch). Số lượng cá giống hỗ trợ khoảng gần 1,2 vạn con, chủ yếu là loại cá rô phi vằn đơn tính và được thả nuôi trên diện tích 3.000m². Đây là chương trình hoạt động có ý nghĩa quan trọng nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa hai đơn vị, đồng thời giúp Đồn biên phòng Cảng Gianh vừa nâng cao bữa ăn hàng ngày cho cán bộ, chiến sĩ, vừa phát triển kinh tế.
Báo QB số 138
Bạc Liêu: Loay hoay tìm đường cho cá sấu "lội"
Nguồn tin: CT, 12/7/2007
Ngày cập nhật: 13/7/2007
Cá sấu nuôi tại trang trại của bà Nguyễn Thị Nho, ở xã Tân Phong, huyện Giá Rai.
Bạc Liêu được xem là tỉnh nuôi cá sấu nhiều nhất khu vực ĐBSCL với tổng đàn năm 2006 trên 43.000 con và lượng cá sấu xuất bán trung bình hàng năm trên 25.000 con. Thế nhưng, đầu ra của cá sấu vẫn còn bấp bênh và không ít hộ nuôi cá sấu đã lâm vào cảnh nợ nần. Nguyên nhân chính do người nuôi thiếu chủ động và quá phụ thuộc vào thị trường...
ĐẦU RA BẤP BÊNH
Cùng với con tôm, cá sấu được coi là vật nuôi cho nhiều lợi nhuận, bởi đặc tính dễ nuôi, ít bị rủi ro và có nguồn thức ăn dồi dào. Đây là nguyên nhân dẫn đến phong trào nuôi cá sấu bùng phát và nảy sinh nhiều nghịch lý. Một trong những nghịch lý là cá sấu dù không bị dội hàng, nhưng người nuôi vẫn phải bán giá rẻ do chưa tìm được đầu ra ổn định. Ông Trương Thanh Mai, một hộ nuôi cá sấu ở xã Vĩnh Thanh (huyện Phước Long), cho biết: “Do người nuôi cá sấu quá phụ thuộc vào thương lái nên thường bị ép giá thu mua. Có nhiều lúc giá cá sấu trên 150.000 đồng/kg nhưng người nuôi phải chấp nhận bán cho thương lái với giá từ 70.000-80.000 đồng/kg. Vì nếu không bán cho họ thì không biết phải xuất bán đi đâu”.
Để giảm bớt sự lệ thuộc vào thương lái, một số trang trại nuôi cá sấu đã mở rộng thị trường ra các tỉnh phía Bắc, nhưng cũng chỉ dừng lại ở khâu cung cấp hàng chứ chưa thể xuất khẩu trực tiếp vì không có giấy chứng nhận của Tổ chức Công ước Quốc tế về cấm buôn bán các loài động vật hoang dã quý hiếm (Cites). Ông Trần Hoàng Minh, chủ trang trại nuôi cá sấu Phương Thảo (thị trấn Phước Long, huyện Phước Long), nói: “Không có giấy chứng nhận của Cites, người nuôi gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường. Vì nhiều đối tác người nước ngoài chỉ chấp nhận mua bán cá sấu ở những cơ sở nuôi có giấy chứng nhận này”. Thị trường bị hạn chế đã kéo theo hàng loạt những bất cập khác. Cụ thể là ngành chức năng cũng không biết nên khuyến khích hay khuyến cáo người nuôi khi không nắm chắc cán cân cung- cầu.
Một bất cập khác, ngay từ khi phong trào nuôi cá sấu phát triển, cả người nuôi và ngành quản lý đều thiếu chủ động. Để giải quyết những khó khăn về tình trạng cá sấu nuôi không có đầu ra, ngay từ năm 1999, Cục Kiểm lâm đã khuyến cáo và hướng dẫn các trang trại ở các tỉnh, thành nên xây dựng trang trại theo tiêu chuẩn của Cites để hướng đến xuất khẩu. Thế nhưng, tỉnh Bạc Liêu được coi là nơi nuôi và xuất khẩu cá sấu lớn nhất ĐBSCL đến nay vẫn chưa có giấy chứng nhận của Cites. Trong khi, các tỉnh, thành khác lại đáp ứng được điều kiện này và tỉnh Bạc Liêu trở thành vùng cung cấp nguyên liệu. Con cá sấu ở Bạc Liêu lẽ ra có thể “lội” xa hơn và người nuôi cá sấu Bạc Liêu cũng không phải khốn đốn vì đầu ra.
LOAY HOAY THÁO GỠ KHÓ KHĂN
Tháng 8-2006, toàn tỉnh Bạc Liêu tồn đọng 40.000 con cá sấu thương phẩm, ngành quản lý phải khuyến cáo người dân không nên nuôi cá sấu. Nhưng đến nay, toàn tỉnh chỉ còn khoảng 10.000 con và số cá sấu còn lại này sẽ tiêu thụ hết trong năm 2007. Ông Trần Văn Đựng, Trưởng phòng Pháp chế-Thanh tra, Chi cục Kiểm lâm tỉnh, nói: “Trong 2 năm tiếp theo, tỉnh Bạc Liêu sẽ xảy ra tình trạng khan hiếm cá sấu. Nguyên nhân do số cá sấu đăng ký nuôi mới phải sau 2 năm mới đạt tiêu chuẩn cá sấu thương phẩm. Trong khi, kế hoạch xúc tiến thương mại của tỉnh Bạc Liêu đã có mặt hàng cá sấu”.
Trên thực tế, khi được cấp giấy chứng nhận của Cites, cả doanh nghiệp và ngành quản lý đều được lợi. Đó là sự chủ động về thị trường, chủ động về sản xuất để hướng đến xuất khẩu, mở rộng thị trường và hạn chế tình trạng gian lận, ép giá của các thương lái. Tuy nhiên, để có được giấy chứng nhận này cũng không dễ dàng, khi năng lực tài chính và sự am hiểu về Cites của các cơ sở chăn nuôi còn giới hạn. Việc xây dựng trang trại chăn nuôi đạt tiêu chuẩn Cites để được cấp quota xuất khẩu cá sấu cũng đã được một số chủ trang trại tính đến. Bà Nguyễn Thị Nho, chủ trang trại nuôi cá sấu Đáng Nho, xã Tân Phong (huyện Giá Rai), băn khoăn: “Thực hiện theo tiêu chuẩn quy định của Cites để được cấp quota xuất khẩu cá sấu ai cũng muốn. Nhưng với khoản chi phí đầu tư lên đến hàng chục tỉ đồng mà không thể chắc chắn có được chứng nhận Cites là rất mạo hiểm”.
Để đạt chuẩn của Cites, cơ sở chăn nuôi phải có khả năng thực hiện theo 15 tiêu chí và phải đầu tư dài hạn hàng chục tỉ đồng để thực hiện những quy định trong chăn nuôi về: quy mô chuồng trại, vệ sinh môi trường, nguồn cá giống bố mẹ (tự nhiên), quy trình nuôi và sinh sản, thế hệ cá khi xuất bán... Ngoài ra, cơ sở nuôi còn phải bỏ ra một khoản chi phí lớn cho các nhân viên của Cites ở nước ngoài vào thẩm định.
Để tháo gỡ khó khăn, ngành nông nghiệp tỉnh Bạc Liêu đang có kế hoạch hướng dẫn, hỗ trợ người chăn nuôi theo quy định của Cites. Ngành nông nghiệp tỉnh sẽ tăng cường liên kết với các tỉnh, thành trong khu vực tìm đầu ra cho con cá sấu; liên kết các cơ sở chăn nuôi cá sấu trong tỉnh trong việc tổ chức nuôi và tìm đầu ra, nhằm hạn chế rủi ro khi thị trường biến động...
T.TÂM-LƯ DŨNG
Tín hiệu vui ở vùng tôm Thạnh Phú
Nguồn tin: CT, 12/7/2007
Ngày cập nhật: 13/7/2007
Vùng đất cuối cù lao Minh gồm các xã Mỹ An, An Thạnh, An Thuận, An Điền, An Qui, An Nhơn, Giao Thạnh, Thạnh Hải, Thạnh Phong, là nơi nuôi tôm sú quảng canh rộng lớn của huyện Thạnh Phú, với diện tích trên 9.000ha. Vụ nuôi tôm đầu năm 2007, Thạnh Phú tiếp tục trúng mùa, được giá. Sau nuôi tôm sú quảng canh, hầu hết nông dân ở vùng nước lợ của huyện này đang chuyển sang nuôi tôm càng xanh.
Đầu tư ít, lời nhiều!
Qua phà Cầu Ván, tôi đến xã Giao Thạnh, nơi hầu hết dân nuôi tôm sú quảng canh tại đây vừa trúng mùa, trúng giá. Tôi ra ấp 1 của xã Giao Thạnh, một ấp nằm giáp sông Cổ Chiên. Trước năm 1995, khi Giao Thạnh chưa triển khai dự án 1.000ha nuôi tôm của Bộ Thủy sản (dự án thí điểm ở ĐBSCL lúc đó), tại ấp 1 và các ấp khác của xã này đều là đất làm ruộng, đất hoang hóa, không có kinh cấp thoát nước như bây giờ; đời sống của người dân ở đây rất nghèo, hệ thống giao thông nông thôn đi lại khó khăn, đường điện về đây cũng chưa có. Thế nhưng, chỉ vài năm sau khi dự án 1.000 ha nuôi tôm tại xã Giao Thạnh được triển khai, đời sống, kinh tế của hầu hết người dân nơi đây đã bắt đầu đổi thay từ con tôm, nhiều ngôi nhà tường lần lượt mọc lên thay cho những ngôi nhà lá lụp xụp ngay sát bên đường dẫn vào ấp 1 trước đó. Từ một xã nghèo nhưng hiện nay Giao Thạnh là xã có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất tại huyện Thạnh Phú... Ông Nguyễn Văn Nguyên, Bí thư Chi bộ ấp 1, Trưởng ban quản lý vùng nuôi tôm ấp 1 - Giao Thạnh, nói: “Không chỉ riêng ở ấp 1 của chúng tôi mà tại các ấp kế bên, các xã kế cận như An Nhơn, An Điền, Thạnh Hải, Thạnh Phong... đều vừa trúng mùa tôm - ông nhấn mạnh - Nhưng là nuôi tôm quảng canh chớ chẳng phải nuôi bán công nghiệp hay công nghiệp đâu. Nuôi tôm công nghiệp chỉ mới bắt đầu vào vụ hồi đầu tháng 5-2007, còn nuôi quảng canh, người ta thả nuôi quanh năm suốt tháng, thu hoạch hết đợt này đến đợt kia...”.
Người dân Thạnh Phú trúng mùa tôm.
Kỹ sư Lâm Văn Hoàng, Phó phòng Thủy sản huyện Thạnh Phú, cho biết bình quân mỗi hộ trong huyện nuôi tôm quảng canh với diện tích khoảng 2ha, mỗi ha thả từ 20.000 -30.000 con giống và sau 4 tháng sẽ thu hoạch. Vụ nuôi tôm quảng canh đầu năm 2007 vừa thu hoạch (thả nuôi sau Tết Nguyên đán) đạt từ 250 - 300 kg/ha (35-50 con/kg) và tôm được giá: 90.000 -100.000 đồng/kg. Nhìn chung trên toàn huyện, nuôi tôm quảng canh, nuôi tôm xen rừng có hiện tượng tôm chết do bị bệnh đốm trắng khi tôm nuôi được 35 -50 ngày tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ tôm chết trong ao nuôi không nhiều, diện tích có tôm chết rải rác nên mức độ thiệt hại không đáng kể. Trong 6 tháng đầu năm 2007, chỉ riêng nuôi tôm quảng canh ước sản lượng thu hoạch đạt 1.760 tấn.
Lợi thế của nuôi tôm quảng canh là chi phí đầu tư không lớn, thức ăn được tận dụng từ thiên nhiên, giá con giống thả nuôi thường rẻ phân nửa so con giống nuôi công nghiệp. Ví như hiện nay, trong khi con giống nuôi công nghiệp phải ngoài 50.000 đồng/thiên thì con giống nuôi quảng canh (thế hệ F2, F3) chỉ khoảng 20.000 - 25.000 đồng/thiên. Ông Nguyễn Văn Cang, một nông dân nuôi tôm quảng canh ở xã An Điền, chặt lưỡi: “Lớn thuyền, lớn sóng..., nuôi tôm công nghiệp mau phất nhưng cũng lắm rủi ro. Thực tế nhiều nơi cho thấy, giờ đây, môi trường nuôi tôm công nghiệp đã khó bền vững rồi! Nuôi tôm quảng canh tuy thu hoạch... lai rai, nhưng chắc ăn, đó là chưa kể thu hoạch thêm nhiều loại cá khác trong ao nuôi như cá đối, cá rô phi, cá chẻm và nhất là cua biển thả nuôi chung... Chỉ riêng cá, trong diện tích nuôi tôm quảng canh gần 3ha của tôi, hàng năm cũng kiếm thêm vài chục triệu đồng. Đặc biệt nuôi tôm quảng canh gần như không sử dụng hóa chất và nuôi được quanh năm suốt tháng...”.
Tôm càng xanh bơi vào... nước lợ
Mỹ Hưng là xã nằm sát bên xã Mỹ An, xã An Thạnh nhưng đây thuộc vùng ngọt hóa của huyện Thạnh Phú. Tương tự chuyện xảy ra ở Cà Mau, trước năm 2000, nhiều nông dân trong vùng ngọt hóa Mỹ Hưng đã tự ý bửa đê, dẫn nước mặn vào nuôi tôm sú nhưng giấc mơ “độc đắc” ấy đã không thành. Nhiều nông dân sau đó trắng tay. May thay, con tôm càng xanh đã kịp thời trở lại... Bí thư xã Mỹ Hưng Trần Văn Hữu nhớ lại: “Sau khi nuôi tôm sú trong vùng ngọt hóa thất bại, bắt đầu từ năm 2003, dân Mỹ Hưng chuyển dần sang nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa. Do môi trường nuôi thích hợp, hầu hết các hộ nuôi tôm càng đều trúng. Đến năm 2004, diện tích nuôi tôm càng tại xã tăng lên trên 350 ha và hiện nay là trên 450ha”. Nông dân Lê Văn Chiến ở ấp Thạnh Hưng, Mỹ Hưng, cho biết thêm: “Nuôi tôm càng xanh khoảng 4 tháng là có thể thu hoạch. Tôm nuôi tháng đầu, tôi cho tôm ăn bằng thức ăn cong nghiệp, từ tháng thứ hai trở đi cho tôm ăn bằng thức ăn gia súc nấu trộn với con ruốc. Ngoài ra, nơi chân nền cấy lúa còn là nguồn thức ăn dồi dào cho tôm và ngược lại, thức ăn cho tôm thải xuống ao đã tạo thành chất mùn giúp cây lúa phát triển nhanh, tươi tốt. Mặt khác, cây lúa tạo cho nước trong ruộng không quá nóng, là môi trường thích hợp giúp tôm càng chóng lớn”. Liên tiếp trong 3 năm qua, với diện tích 1,5ha ruộng lúa của mình, hàng năm anh Chiến đều lời trên 50 triệu đồng từ con tôm càng... ôm cây lúa.
Nhưng nuôi tôm càng xanh đâu chỉ ở vùng nước ngọt mà nó vẫn phát triển tốt trong môi trường nước có độ mặn từ 0%o (phần ngàn) đến 12%o (phần ngàn), tức những nơi trong năm có khoảng 6 - 7 tháng nước lợ như tại xã Mỹ An, An Thạnh, An Thuận, An Điền... Chính vì vậy, Thạnh Phú đã triển khai dự án nuôi tôm càng trong ruộng lúa tại các xã nói trên từ hơn năm qua, nâng diện tích nuôi tôm càng tại huyện hiện nay lên đến 2.400ha. Chủ tịch UBND huyện Thạnh Phú Lê Văn Gặp cho biết: “Sau khi thu hoạch tôm sú của vùng tôm lúa và tôm quảng canh, những xã thuộc vùng nước lợ thả nuôi tôm càng xanh luân vụ với tôm sú đạt kết quả khả quan. Đây là mô hình mà mới đây Sở Thủy sản Bến Tre đã tập huấn để nhân rộng cho các xã thuộc vùng nước lợ của huyện Ba Tri và Bình Đại”.
PHAN LỮ HOÀNG HÀ
ĐBSCL: Ồ ạt đào ao nuôi cá tra
Nguồn tin: TN, 12/07/2007
Ngày cập nhật: 12/7/2007
Đó là một trong những vấn đề được tập trung thảo luận tại hội nghị 6 tháng đầu năm 2007 do Bộ Thuỷ Sản tổ chức ngày 9.7 ở An Giang. Theo nhiều đại biểu, hiện cơn sốt đào ao nuôi cá tra của người dân nhiều tỉnh ĐBSCL đã lên cao độ kéo theo nhiều hệ lụy: Giá cả thất thường, ô nhiễm môi trường, người nuôi cá sử dụng các chế phẩm không được phép...
Địa phương than trời
Hiện giá cá thương phẩm là 14.000 - 15.500đ/kg, có thời điểm vọt lên trên 17.000 đồng/kg. Sức hấp dẫn từ con cá tra dễ nuôi, lợi nhuận cao đã làm bùng phát phong trào người người, nhà nhà đào ao nuôi cá tra. Từ đầu năm đến nay tại 4 tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long người dân đã tự phát đào ao nuôi cá với diện tích gần 1.000 ha. Tình trạng này không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà còn phá vỡ quy hoạch tại các địa phương vừa nêu.
Các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long đã quyết liệt ngăn cản nhưng cũng chẳng “hạ nhiệt” nổi. Ông Lê Minh Hoan, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp nhận định cơn sốt tự phát này đã đến mức không quản lý được. Xung đột đã xảy ra giữa người dân và nhà nước về chuyện thuê đất bãi bồi, giữa người nuôi cá và người làm nông nghiệp do nguồn nước ô nhiễm. Theo ông Hoan, Bộ Thuỷ Sản nên sớm vào cuộc quy hoạch vùng nuôi, chậm ngày nào thì sông Tiền, sông Hậu càng “chết chừng đó” vì theo ông Hoan, hai con sông này đã tới ngưỡng chịu đựng rồi.
Theo Bộ Thủy sản, sản lượng cá ba sa, cá tra năm 2005 là 375.500 tấn, sang năm 2006 đã nhảy vọt lên 825.000 tấn. Diện tích thả nuôi trong 6 tháng đầu năm 2007 là 3.642 ha, trong đó An Giang có 1.160 ha, Cần Thơ 1.067 ha, Đồng Tháp 1.080 ha... Số lượng nhà máy chế biến tại ĐBSCL là 49, tổng công suất chế biến trên 570.000 tấn/ năm.
Ông Phan Văn Danh, Chủ tịch Hiệp hội thủy sản An Giang nhận định: Tình trạng người dân ham lời nên tự phát đầu tư nuôi cá khiến địa phương lúng túng không đối phó kịp. Công suất của các nhà máy chế biến hiện cũng đã vượt nguồn nguyên liệu tới 1,5 lần. Ông Danh kiến nghị Bộ Thủy sản cần sớm điều chỉnh, quy hoạch vùng nuôi cá phổ biến cho người dân biết.
Công khai đơn vị, cá nhân sử dụng chế phẩm nuôi cá gây hại
Ông Ngô Phước Hậu, Phó Chủ tịch Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP) thì cảnh báo việc giá cá tăng như hiện nay không phải chuyển biến tốt, mà là do thiếu nguồn nguyên liệu, thiếu con giống. Ông Hậu lưu ý tình trạng đã phát hiện trong một số cá thu mua được có chất Malachite Green, lọai hoá chất giúp tăng trọng cá, nếu để lọt lọai cá này vào những lô hàng xuất khẩu thì “chỉ có nước chết”.
Nhiều đại biểu kiến nghị ngành chức năng phải hướng dẫn người nuôi nên sử dụng chế phẩm nào, bởi đây là chuyện sống còn của ngành thuỷ sản; nên công khai các đơn vị, cá nhân vi phạm sử dụng chế phẩm nuôi cá gây hại sức khoẻ.
Nhiều ý kiến đề nghị Bộ Thủy sản sớm ban hành tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho cá tra nuôi ao vì hiện chỉ có tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho cá tra, ba sa nuôi trong bè. Cần nhất phải sớm có quy hoạch phát triển sản xuất cá tra, cá ba sa tại các tỉnh ĐBSCL, làm cơ sở xây dựng qui hoạch của mỗi tỉnh và thực hiện việc bình ổn giá.
Bộ Thủy sản cần hỗ trợ các tỉnh ĐBSCL thiết lập hệ thống cảnh báo môi trường và dịch bệnh; tăng cường công tác đào tạo và tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn và tăng cường ngân sách đầu tư thoả đáng cho nhu cầu đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ làm công tác khuyến ngư; hỗ trợ cho các địa phương về mặt kỹ thuật trong công tác huấn luyện, đào tạo nghề cho ngư dân.
Thanh Dũng
Bình Định: Tràn dầu gây thiệt hại gần 3 tỉ đồng cho người nuôi tôm
Nguồn tin: LĐ, 12/07/2007
Ngày cập nhật: 12/7/2007
(LĐ) - Sở TNMT tỉnh, ngày 11.7 cho biết, đã có thống kê thiệt hại do sự cố tràn dầu từ 11.2 - 13.4; theo đó, 2 cơ sở nuôi tôm trên cát ven biển Bình Định bị thiệt hại 2,8 tỉ đồng. Lực lượng chức năng và người dân đã thu gom được 30,5 tấn dầu vón cục, vận chuyển đến Trung tâm ƯÁng cứu sự cố tràn dầu miền Trung để xử lý.
Đ.T.K
Phú Xuân (Huế): Nuôi tôm thất bát, cả xã mắc nợ
Nguồn tin: SGGP, 11/07/2007
Ngày cập nhật: 12/7/2007
Chuyện vay vốn ngân hàng để nuôi tôm sú một thời đã giúp người dân nghèo xã Phú Xuân, huyện Phú Vang (TT-Huế) thoát nghèo, nhen nhóm hy vọng làm giàu. Tuy nhiên, những năm gần đây, cũng chính việc nuôi tôm sú đã làm hầu hết những hộ dân ở vùng đất này “khuynh gia bại sản”, nợ nần như chúa chổm. Hiện người nuôi tôm cả xã nợ ngân hàng với số tiền kỷ lục 27 tỷ đồng, chưa kể số nợ mà người dân vay nóng ở ngoài…
Nuôi tôm như đánh bạc với trời
Anh Võ Mãnh, thôn Xuân Ổ, xã Phú Xuân ngày đêm túc trực tại hồ tôm mong vớt vát để trả nợ ngân hàng
Dẫn tôi đi trên triền đê vắng, anh Võ Mãnh (thôn Xuân Ổ) chỉ tay về những hồ tôm như cảnh chợ chiều. Trước đây, vào mùa này người ra đồng tôm tấp nập, ai cũng háo hức vì lúc đó con tôm là “vàng”. Sau vụ thu hoạch, trừ tất cả các khoản chi phí, mỗi hécta nuôi tôm bà con cũng lãi từ 30 - 40 triệu đồng. Nhiều gia đình phất lên, xây nhà, mua xe máy chạy nườm nượp ra hồ tôm. Câu chuyện cổ tích về làm giàu từ con tôm ở xã Phú Xuân giờ đã không còn, mà thay vào đó là nỗi lo không biết bao giờ mới trả hết nợ.
Gia đình anh Mãnh là điển hình, bao nhiêu vốn liếng đổ dồn vào hồ tôm, sau 5 vụ tôm liên tục bị bệnh và mất mùa, gia đình anh điêu đứng. Năm nay, gia đình anh đầu tư gần 100 triệu đồng nuôi 3 hồ tôm 1,5ha. Đầu vụ, tôm bị bệnh chết mất một hồ, bây giờ anh túc trực ngày đêm chăm sóc mong vớt vát chút đỉnh. Hiện gia đình anh đang nợ ngân hàng 200 triệu đồng.
Ông Phạm Sự, 69 tuổi, 10 năm nuôi tôm đối với ông thật sự là một canh bạc lớn. Gia đình ông nuôi 2ha ở khu vực Đồng Hàn. Nhiều năm liên tục được mùa, nhờ tôm ông đã có nhà cửa khang trang và chu cấp đầy đủ cho hai đứa con đang học đại học tại TPHCM. Đầu năm 2004, năm đánh dấu thất bại của người nuôi tôm ở Phú Xuân, gia đình ông đã thế chấp sổ đỏ nhà, sổ đỏ hồ tôm. Từ đó đến nay năm nào tôm cũng thất bát. Hiện tại, ông Sự nợ ngân hàng 200 triệu đồng.
Ở thôn Xuân Ổ còn có rất nhiều người bị gọi là các “sâu nợ”. Anh Nguyễn Bắc, Phó Chủ tịch UBND xã Phú Xuân cho biết, hiện tại đã có gần 99% người nuôi tôm ở thôn Xuân Ổ, Đồng Hàn đã thế chấp nhà cửa, hồ tôm vào ngân hàng. Hộ nuôi tôm Phạm Đức tâm sự: “Không có nhà thì tui ra đầm ở thôi chứ biết mần răng, phóng lao thì phải theo lao, ngân hàng không cho vay nữa thì chúng tôi vay nóng ở ngoài, giờ không thể bỏ được”.
Tan tành giấc mộng làm giàu
Bây giờ đang là thời điểm chuẩn bị thu hoạch tôm nhưng đặt chân đến Phú Xuân hỏi chuyện nuôi tôm ai cũng méo mặt lắc đầu, chán ngán. Ông Võ Văn Cho, Chủ tịch UBND xã Phú Xuân cho hay: Toàn xã có diện tích nuôi trồng tự nhiên là 500ha, trong đó có 360ha hồ tôm cao triều. Từ năm 1998 - 2000, những hộ nuôi tôm sú theo mô hình quảng canh thành công. Từ đó theo định hướng của xã và huyện, người dân phát triển nuôi tôm sú thay thế những chân ruộng kém hiệu quả ở vùng ven phá.
Ông Ngô Văn Toàn, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp - Phát triển nông thôn TT-Huế, cho biết: Những hộ nuôi tôm nếu thật sự thua lỗ vì điều kiện khách quan, nếu có nhu cầu vốn chính đáng, ngân hàng sẽ xem xét giải quyết để tiếp tục cho vay trong điều kiện “có thể”. Riêng về việc khoanh nợ, ngân hàng chưa có cơ chế để thực hiện.
Năm 2003, toàn xã nuôi 160ha, sau vụ thu hoạch trúng đậm, người dân tiếp tục vay vốn ngân hàng, mở rộng diện tích nuôi. Nhưng năm 2004, tôm bị bệnh đốm trắng chết hàng loạt và năm 2005 cũng vậy. Đến năm 2006, người nuôi tôm đã rơi vào tình cảnh lao đao do không thể tiếp tục vay ngân hàng, 112ha hồ tôm cao triều bị bỏ hoang do thiếu vốn.
Bước vào vụ mới 2007, xã đã vận động bà con nuôi hết điện tích trước đây, xã cũng đã đầu tư 30 triệu đồng để làm sạch hồ, khuyến cáo bà con trong xã phải “để mắt tới” với những hồ tôm năm trước bị nhiễm bệnh; đồng thời kết hợp cơ quan chức năng mở 4 lớp tập huấn kỹ thuật nuôi tôm cho bà con xã viên. Tuy nhiên, vào vụ nuôi được chừng 1 tháng, tôm bị bệnh và chết hàng loạt khiến người dân lâm vào cảnh hoang mang, có 40ha hồ nuôi tôm phải bỏ hoang giữa chừng do dịch bệnh.
Dịch bệnh đốm trắng trên con tôm khiến người nuôi tôm xã Phú Xuân lao đao. Hơn nữa, nước thải từ nông nghiệp bị ô nhiễm thuốc trừ sâu là thảm họa cho môi trường vùng nuôi tôm: nguồn nước ở khu vực Cầu Long (vùng tiêu nước cho 3 xã Thủy Thanh, Phú Mỹ, Phú Hồ) thải ra đều đổ về vùng nuôi tôm xã Phú Xuân. Thế nhưng hiện vẫn chưa có giải pháp nào để khắc phục. Theo ông Cho, vùng nuôi tôm xã Phú Xuân không có ao lắng để xử lý nước, còn lấy nước trực tiếp ngoài phá thì độ an toàn rất thấp. Để khắc phục khó khăn trước mắt, chính quyền địa phương phải vận động người dân ở vùng xảy ra dịch không nên nuôi tôm mà nuôi xen canh cá rô phi, cá kình, cá mú… để duy trì sản xuất.
Người dân Phú Xuân đang mong chờ các giải pháp của ngân hàng để gia hạn nợ, đồng thời làm sao tìm được một giống vật nuôi khác thích hợp với vùng đất cát để bà con ổn định cuộc sống, xóa được nợ trong tương lai.
Phan Lê
Giá thủy hải sản khô tăng mạnh
Nguồn tin: NLĐ, 11/7/2007
Ngày cập nhật: 11/7/2007
Ngành thủy sản ĐBSCL: Càng phát triển càng... lúng túng
Nguồn tin: TT, 10/07/2007
Ngày cập nhật: 11/7/2007
TT (An Giang) - Phát biểu tại hội nghị thủy sản khu vực ĐBSCL tổ chức ở An Giang hôm qua 9-7, Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc thừa nhận công tác qui hoạch, quản lý thủy sản trong vùng ĐBSCL chưa hiệu quả, diện tích nuôi cá tra phát triển mạnh vượt tầm kiểm soát.
“Càng phát triển thì cả bộ lẫn các địa phương đều gặp lúng túng trong quản lý và điều hành”. Chất lượng con giống, ô nhiễm môi trường, dư lượng kháng sinh, giá sản phẩm... là những vấn đề đáng quan ngại nhất.
Hiện nay nguy cơ “dội chợ” sản phẩm thủy sản từ Nhật, Nga là rất lớn. Do vậy Bộ trưởng Ngọc nói: “Cương quyết xử lý các hành vi vi phạm đối với các doanh nghiệp gian lận thương mại. Doanh nghiệp nào vi phạm sẽ cấm tham gia xuất khẩu trong thời gian dài (ít nhất là sáu tháng) và xử lý công khai”.
Trong sáu tháng đầu năm 2007, diện tích nuôi cá tra vùng ĐBSCL đã lên đến trên 3.634ha, vượt so với cuối năm 2006 là 1.256ha, đạt sản lượng 380.489 tấn. Bộ trưởng đề nghị các địa phương có biện pháp hạn chế tình trạng phát triển nóng như hiện nay.
QUANG VINH
Bạc Liêu: Hơn 82 ha tôm nuôi chết do ''sốc nước''
Nguồn tin: NLĐ, 10/07/2007
Ngày cập nhật: 11/7/2007
(NLĐO) - Do ảnh hưởng của đợt mưa dầm kéo dài nhiều ngày bởi áp thấp nhiệt đới gây ra, (từ 1-7 đến 7-7-2007) đã làm cho hơn 82 ha nuôi tôm trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu chết, ước giá trị thiệt hại cho người nuôi tôm lên đến gần 500 triệu đồng.
Theo TTXVN, tính từ đầu năm đến hết tháng 6-2007, thiệt hại do tôm nuôi chết trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu là 827 ha. Số tôm nuôi bị chết nhiều nhất là tại các huyện Hồng Dân, Phước Long.
B.T.L
Hạn chế mở rộng diện tích nuôi cá basa ở ĐBSCL
Nguồn tin: TTXVN, 10/07/2007
Ngày cập nhật: 10/7/2007
Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản Tạ Quang Ngọc yêu cầu các sở thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long cần có những biện pháp hợp lý để hạn chế việc mở rộng diện tích nuôi cá tra, basa tự phát của người dân.
Tại hội nghị bàn về sản xuất và tiêu thụ cá tra, basa, diễn ra tại An Giang ngày 9/7, Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc cũng đã đề nghị các sở kiên quyết đình chỉ hoạt động những doanh nghiệp vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản; rà soát, quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản, đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt những quy định về môi trường.
Từ đầu năm đến nay, phong trào nuôi cá tra, basa phát triển mạnh tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Tổng diện tích nuôi trồng ở 9 tỉnh, thành phố trong vùng gồm An Giang, Ðồng Tháp, Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng và Cần Thơ hiện đạt trên 3.600ha, vượt hơn 1.250ha so với cuối năm ngoái. Năng suất cá cho thu hoạch bình quân đạt từ 50-80 tấn/ha. Cá biệt một số vùng nuôi ở Cần Thơ, do thay nước thường xuyên và có hệ thống quạt khí, năng suất đạt hơn 300 tấn/ha/vụ.
Toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 70 nhà máy chế biến cá tra, basa với tổng công suất chế biến khoảng 1,5 triệu tấn/năm./.
Một cơn bão mạnh đang hoành hành ngoài biển
Nguồn tin: Lao Động, 10/07/2007
Ngày cập nhật: 10/7/2007
Phát triển ào ạt cá tra, ba sa ở ĐBSCL : Cá và người tranh giành… nước sạch!
Nguồn tin: SGGP, 10/07/2007
Ngày cập nhật: 10/7/2007
Phát biểu tại hội nghị bàn giải pháp sản xuất, tiêu thụ và an toàn vệ sinh thủy sản được tổ chức hôm qua (9-7) tại An Giang, ông Lê Minh Hoan, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, nói một câu khiến cả hội trường sửng sốt: “Cá và người đang tranh giành… nước sạch!”.
Diện tích tăng nhanh, ô nhiễm tràn lan!
Đào hồ nuôi cá tràn lan, thiếu quy hoạch gây ô nhiễm môi trường.
Ông Lê Minh Hoan thừa nhận: “Hiện Đồng Tháp rất băn khoăn về tính bền vững của con cá tra, ba sa. 6 tháng đầu năm 2007, nông dân đã nuôi trên 1.080 ha cá tra, sản lượng khoảng 83.000 tấn. Diện tích nuôi mới và nuôi tự phát không ngừng tăng. Nhiều khu đất bãi bồi đã xảy ra sự xung đột giữa người nuôi với nhau. Đặc biệt, nguồn nước là một bức thiết”.
Khảo sát thực tế nhiều khu vực nuôi cá ở Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang, Vĩnh Long… tình trạng ô nhiễm môi trường đã đến mức báo động. Nơi nào nuôi cá là có mùi hôi nồng nặc từ thức ăn, phế phẩm, thuốc… khiến nguồn nước dơ bẩn không sử dụng được. Tại xã Thới Thuận (Thốt Nốt, Cần Thơ), hàng loạt hộ “kêu trời” vì nguồn nước ô nhiễm. Ông Võ Văn Đệ, đại gia nuôi cá ở Thới Thuận, thừa nhận: “Chỉ một con kênh, mọi thứ đều tuôn hết xuống đó không ô nhiễm mới là chuyện lạ? Chỉ cần vài hộ đưa chất thải từ đáy ao và nguồn nước có hóa chất ra sông thì cả xóm hết mong xài nước?”.
Ông Nguyễn Văn Thạnh, Giám đốc Sở Thủy sản An Giang, đặt vấn đề: “Tại sao đến nay, Bộ Thủy sản và các ngành liên quan không khảo sát cụ thể 2 dòng sông Tiền và sông Hậu, xem khả năng cho phép nuôi thế nào. Song song đó, hỗ trợ ĐBSCL hệ thống cảnh báo môi trường dịch bệnh”. Trong lúc quản lý nhà nước tỏ ra lúng túng thì diện tích nuôi cá không ngừng gia tăng tràn lan ở nhiều nơi.
Vụ Nuôi trồng thủy sản (Bộ Thủy sản) đưa ra con số giật mình: Năm 1999, sản lượng cá tra, ba sa chỉ khoảng 86.700 tấn, đến năm 2006 vọt lên trên 825.000 tấn và dự kiến năm nay đạt 1 triệu tấn. Tốc độ phát triển chóng mặt trên đã phá vỡ mọi quy hoạch của Bộ Thủy sản và các địa phương về cá tra, ba sa. Có điều, diện tích càng tăng thì môi trường càng xấu, tỷ lệ hao hụt càng cao (từ 10%-15%, nay tăng lên trên 30%).
Liên kết để phát triển bền vững!
Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc lo ngại: “Tình trạng dư lượng kháng sinh đang thật sự cản ngại đối với xuất khẩu thủy sản của VN. Ngăn chặn việc này là nhiệm vụ hàng đầu, cần làm gấp”. Ông Ngọc than phiền: Việc mua bán cá tra, ba sa đang diễn ra “tùm lum”, nhiều nơi có kháng sinh không quản lý được?
Đặc biệt, có nơi người nuôi cố gắng giảm giá thành đã lạm dụng những chất có dư lượng kháng sinh, điều này không thể chấp nhận được. Ngoài ra, có một số doanh nghiệp làm ăn gian dối, lén lút xuất khẩu sản phẩm thủy sản không đạt, gây ảnh hưởng uy tín ngành thủy sản. Ông Ngô Phước Hậu, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản VN, bức xúc: “Có thể tìm ra những đối tượng sử dụng kháng sinh như sau: Người làm giống dùng kháng sinh để cho cá khỏe, dễ bán. Cơ sở chế biến thức ăn muốn cho cá tăng trọng nhanh nên họ đưa chất kháng sinh vào; trong khi người nuôi cũng dùng để tăng trọng và tiết kiệm. Thương lái vì lợi nhuận nên bất chấp thủ đoạn và cuối cùng là nhà máy khi thiếu nguyên liệu cũng chấp nhận mua?
Đáng lưu ý, những nhà máy nhỏ sơ chế, làm phi lê gia công… không qua hàng rào kiểm soát nên họ thường sử dụng kháng sinh để kiếm lời. Khi bị phát hiện họ bỏ chạy, không ai nắm được? Giải quyết việc này, cần có giải pháp đồng bộ và đề ra tiêu chuẩn cấm kháng sinh”.
Ông Nguyễn Như Tiệp, Cục phó Cục Quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thủy sản, nói: “Thủy sản VN đã nhiều phen lao đao về dư lượng kháng sinh, tới đây danh mục cấm sẽ dài thêm gây khó khăn cho việc xuất khẩu”. Theo Bộ Thủy sản, tới đây ngoài việc kiểm tra chặt chẽ các lô hàng, thì các doanh nghiệp (DN) vi phạm sẽ bị cấm xuất khẩu 3-6 tháng để kiểm tra lại nhà máy. Bộ kêu gọi cả cộng đồng từ DN, người dân đến chính quyền… cùng vào cuộc liên kết, phối hợp với tinh thần trách nhiệm cao mới mong ngăn được.
Ông Lê Minh Hoan đưa giải pháp: “Đồng Tháp dự định quản lý chất lượng và môi trường bằng cách khống chế diện tích. Theo đó, ai muốn nuôi cá tra phải có ít nhất 2 ha trở lên, bởi như vậy mới xử lý được môi trường. Những hộ ít đất thì phải liên kết lại và đăng ký hẳn hoi. Nếu làm được vậy, tình hình sẽ cải thiện”.
HUỲNH PHƯỚC LỢI
Sớm quy hoạch chi tiết vùng nuôi thủy sản đồng bằng sông Cửu Long
Nguồn tin: ND, 10/7/2007
Ngày cập nhật: 10/7/2007
Ngày 9-7, tại TP Long Xuyên (An Giang), Bộ Thủy sản tổ chức hội nghị chuyên đề các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với trọng tâm là bàn các giải pháp chỉ đạo, điều hành sản xuất, tiêu thụ cá tra, ba sa và việc bảo đảm an toàn vệ sinh sản phẩm thủy sản. Bộ trưởng Thủy sản Tạ Quang Ngọc chủ trì hội nghị.
Từ đầu năm đến nay, phong trào nuôi cá tra, ba sa phát triển mạnh tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tính đến cuối tháng 6-2007, chín tỉnh, thành phố như: An Giang, Ðồng Tháp, Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng và Cần Thơ có tổng diện tích nuôi là 3.642 ha, vượt so với cuối năm 2006 là 1.256 ha, sản lượng đạt được 380.489 tấn. Năng suất cá tra nuôi trong ao, hầm bình quân đạt từ 50 đến 80 tấn/ha.
Một số vùng nuôi ở Cần Thơ với ao có độ sâu 3 m, thả cá giống lớn, mật độ cao, thay nước thường xuyên và có hệ thống quạt khí đã đạt được năng suất hơn 300 tấn/ha/vụ, nếu nuôi hai vụ một năm thì có thể đạt năng suất khoảng 600 tấn/ha/ năm và thu được lợi nhuận hai tỷ đồng/ha/năm. Toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long có 70 nhà máy chế biến cá tra, ba sa với tổng công suất chế biến khoảng 1,5 triệu tấn/năm.
Bàn về giải pháp bền vững nuôi cá tra, ba sa tại đồng bằng sông Cửu Long, các đại biểu đề nghị Bộ Thủy sản sớm hình thành dự án thông tin nuôi trồng thủy sản toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long; khẩn trương quy hoạch chi tiết vùng nuôi thủy sản đồng bằng sông Cửu Long, có những quy định chi tiết về thiết kế ao nuôi; bản thân tỉnh Ðồng Tháp sẽ ban hành quy tắc hành xử trong nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ thủy sản, nhằm gắn đạo đức và trách nhiệm giữa người nuôi với doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.
Nhiều đại biểu không đồng ý việc đổ hết trách nhiệm sử dụng hóa chất và dư lượng kháng sinh cho người nuôi và nhà máy chế biến xuất khẩu, mà phải xem xét trách nhiệm của những doanh nghiệp sản xuất thức ăn và chế phẩm sinh học nuôi thủy sản có chứa những hóa chất và thuốc kháng sinh không theo quy định hiện hành.
Ðề nghị chính quyền địa phương quy định các cửa hàng bán thuốc thú y thủy sản phải công khai các danh mục thuốc cấm sử dụng; công khai trên phương tiện thông tin đại chúng các doanh nghiệp sản xuất thức ăn nuôi cá đã vi phạm dùng dư lượng kháng sinh.
Vụ Nuôi trồng thủy sản nhấn mạnh công tác chọn giống, quản lý đàn cá bố mẹ, hoàn thiện công nghệ sản xuất giống cá tra, ba sa chất lượng cao, hoàn thiện công nghệ xử lý nguồn nước cấp, nước thải và tăng khả năng tự làm sạch nước trong hệ thống nuôi, hoàn thiện biện pháp cải tạo nền đáy ao sau mỗi chu kỳ nuôi. Các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long thực hiện một cách thống nhất, đồng bộ các hoạt động về cung cấp giống, cung cấp thức ăn, thuốc thú y thủy sản, quản lý nước cấp, nước thải, quản lý dịch bệnh, quản lý cơ sở nuôi cá tra trên cơ sở đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc đề nghị các Sở Thủy sản tại đồng bằng sông Cửu Long phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong sáu tháng cuối năm 2007 có những biện pháp hợp lý nhằm giảm "sức nóng" mở rộng diện tích nuôi cá tra, ba sa một cách tự phát của người dân; kiên quyết đình chỉ hoạt động những doanh nghiệp vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản; rà soát, quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản, tuân thủ những quy tắc về môi trường.
Sản lượng cá tra, basa tăng đột biến
Nguồn tin: VNN, 09/07/2007
Ngày cập nhật: 10/7/2007
Theo Bộ Thuỷ sản, nửa đầu năm nay, sản lượng cá tra, basa nuôi tăng đột biến, ước đạt 400.000 tấn, tăng 100% so với cùng kỳ 2006. Các tỉnh phía Bắc và miền Trung cũng "rộ" lên phong trào nuôi cá tra.
Thay vì nuôi bè, giờ bà con nông dân ĐBSCL thường đào ao hầm nuôi cá tra, basa (ảnh nguồn VNN).
Bộ Thủy sản cho biết, con cá tra, ba sa nuôi tại các tỉnh ĐBSCL tiếp tục tăng trưởng nóng về sản lượng và giá trị trong 6 tháng đầu năm nay. Giá cá tăng lên mức 17.000-17.500 đồng/kg khiến người dân ồ ạt đầu tư, phát triển nuôi trên diện rộng. Mặt trái của sự phát triển quá nóng này là cá giống thiếu trầm trọng, giá thức ăn, vật tư chuyên dùng bị đội lên. Việc sử dụng hoá chất, kháng sinh cấm vẫn chưa được ngăn chặn triệt để.
Tình trạng ào ạt mở rộng diện tích, nuôi cá với mật độ cao, đưa năng suất lên 300-500 tấn/ha còn tác động tiêu cực đến môi trường, đòi hỏi phải có biện pháp quản lý mạnh, kịp thời chấn chỉnh.
Đáng lưu ý là tại các các tỉnh phía Bắc, miền Trung thử nghiệm nuôi cá tra, ba sa, bước đầu thành công. Kết quả, đã có mô hình nuôi cá tra đạt 80 tấn/ha (Hà Tây) 150 tấn/ha (Nghệ An). Thậm chí, tại Nghệ An, người dân đã chủ động sản xuất được cá giống và giữ cá tra bố mẹ qua mùa đông. Tuy nhiên, giá thành sản phẩm cao, sức cạnh tranh thấp và nếu phát triển mạnh sẽ gặp vấn đề chế biến tiêu thụ.
Toàn vùng ĐBSCL hiện có 70 nhà máy chế biến cá tra, basa, với công suất chế biến khoảng 1,5 triệu tấn/năm. Song, việc phát triển nhà máy chế biến lại chưa theo quy hoạch. Một chuyên gia Bộ Thuỷ sản nhận định, xu hướng tự phát trong sản xuất nguyên liệu và xây dựng nhà máy chế biến tiềm ẩn rủi ro cao do mất cân đối cung cầu về nguyên liệu và thị trường xuất khẩu, nguy cơ huỷ hoại môi trường các vùng nuôi.
Về xuất khẩu, trong tháng 5/2007, các DN Việt Nam đã xuất 27.700 tấn, kim ngạch đạt 79 triệu USD, tuy có giảm so với tháng trước nhưng vẫn tăng khá mạnh so với cùng kỳ năm 2006. Nhờ vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam 5 tháng đầu năm đã đạt gần 375 triệu USD, hoàn thành 37,5% dự báo về kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong năm nay (trên 1 tỷ USD).
Việc phía Nga siết chặt kiểm tra hóa chất trong các sản phẩm thủy sản nhập khẩu vào nước này đang tác động đáng kể đến giá trị kim ngạch. Cá tra, basa đang là mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tới Nga và Nga cũng là thị trường tiêu thụ mặt hàng này lớn nhất thời gian qua. Do đó, xuất khẩu cá tra, basa tới Nga và Ukraina đã giảm mạnh trong tháng 5/2007
Dự báo, trong thời gian tới cá tra, basa tiếp tục là mặt hàng quyết định tới tiến độ xuất khẩu nhóm hàng cá đông lạnh của Việt Nam.
Thống kê từ Bộ Thuỷ sản, 6 tháng đầu năm, xuất khẩu thuỷ sản đã đạt 1,648 tỷ USD, đạt gần 46% kế hoạch năm (3,6 tỷ USD) và tăng gần 17% so với cùng kỳ năm ngoái. Do vướng các quy định gắt gao về VSATTP nên Nhật Bản nhường vị trí đầu tiên về nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam cho EU, lùi xuống vị trí thứ ba. Hiện thị phần mới về nhập khẩu thuỷ sản là EU (24,4%), Hoa Kỳ (18,3%), Nhật Bản (17%), Hàn Quốc (7,4%), Nga (5,2%), Trung Quốc (5,1%), ASAEN (5,8%) và các nước khác (16,7%).
Đứng đầu về lượng vẫn là nhóm hàng cá đông lạnh chiếm 49% về lượng và 35% về kim ngạch. Tôm đông lạnh chiếm 16% về lượng và 39% về kim ngạch, mực đông lạnh chiếm 6,9% về lượng và 6,7% về kim ngạch.
Hà Yên
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.