Nuôi cá lăng nha: Một vốn bốn lời
Nguồn tin: ĐN, 10/08/2007
Ngày cập nhật: 12/8/2007
Cá lăng nha là một đặc sản được nhiều người ưa thích. Trước đây, loại cá này chủ yếu được đánh bắt, khai thác từ các sông, hồ trong tự nhiên nhưng gần đây ông Phạm Văn Hùng ở ấp Suối Quýt, xã Cẩm Đường (huyện Long Thành) đã đưa vào nuôi thử nghiệm thành công cá lăng nha trong ao...
Năm 2006, được sự hướng dẫn của Trạm Khuyến nông Long Thành, ông Hùng bắt đầu nuôi thử nghiện cá lăng nha. Trên 1.500m2 ao, ông thả 2 ngàn con cá giống loại 4 - 5cm/con. Sau 10 tháng, cá lăng nha có trọng lượng từ 0,8 - 1kg/con và tỷ lệ sống là 80%, được bán 70 ngàn đồng/kg, trừ chi phí còn lời 50 triệu đồng (gấp 6 lần so với nuôi các loại cá khác). Ông Hùng cho biết: "Cá lăng nha sau khi chế biến, thịt chắc, mùi vị thơm ngon nên có thể chế biến thành những món ăn hấp dẫn, được rất nhiều nhà hàng đặt mua. Có thời kỳ trên thị trường lượng cung không đủ cầu, cá lên tới giá 120 ngàn đồng/kg mà vẫn không có hàng để bán". Theo tính toán của các kỹ sư thủy sản, thì cá lăng nha có thể sống trong ao với mật độ 3-4 con/m2 mà vẫn phát triển bình thường. Cá có chu kỳ nuôi khoảng 10 tháng, tính đến khi thu hình quân sử dụng 2 kg cá mồi được gần 1 kg cá thương phẩm.
Theo ông Hùng, nuôi cá lăng nha không mấy khó khăn, vì cá rất ít khi bị bệnh, chỉ cần có nguồn nước dồi dào và tuân thủ theo đúng một số quy trình kỹ thuật là có thể thành công. Ông nói: "Cá lăng nha thích sống sạch. Vì thế, trước khi nuôi cá lăng nha phải tiến hành tháo hết nước trong ao, vét bùn, phát quang bụi rậm quanh bờ để phòng rắn phá hoại cá nuôi; bón vôi để khử trùng với liều lượng 7kg/100m2, sau khi bón vôi phơi ao 5 ngày rồi mới cho nước vào ao".
Ông Hùng cho biết, thức ăn cho cá lăng nha chủ yếu là cá tạp và cá biển được băm nhỏ. Khi cá còn nhỏ một ngày cho cá ăn hai lần vào lúc sáng sớm và buổi tối. Cá lăng nha có tập tính ăn mạnh về đêm nên lượng thức ăn buổi tối bằng 2/3 tổng số. Khi cá lớn cho ăn một lần vào buổi tối và có thể nuôi bổ sung cá tạp như: mè, trắm, rô phi để làm thức ăn trực tiếp cho cá trong ao. Định kỳ 3 tháng người nuôi phải bón vôi quanh bờ một lần theo lượng 5kg/100m2 và thường xuyên rải vôi nơi cho cá ăn hàng ngày để diệt trừ mầm bệnh phát sinh.
Hương Giang
Sông Cầu (Phú Yên): Hơn 3.000 lao động có việc làm từ nghề trồng rong sụn
Nguồn tin: Phú Yên, 12/8/2007
Ngày cập nhật: 12/8/2007
Huyện Sông Cầu hiện có gần 1.000 hộ trồng rong sụn ở các khu vực ven biển với tổng diện tích hơn 250ha, tăng 130 ha so với năm 2004. Sản lượng rong sụn ở Sông Cầu từ đầu năm đến nay đạt 110 tấn.
Hiện rong sụn khô có giá 8.000- 9.000 đồng/kg, nhiều hộ có thu nhập cao từ nghề này. Theo phòng Kinh tế huyện Sông Cầu, nghề nuôi rong sụn ở địa phương này đã giải quyết việc làm cho trên 3.000 lao động.
KIỀU BA
Nông dân Cà Mau phá mía non để nuôi tôm
Nguồn tin: SGGP, 11/08/2007
Ngày cập nhật: 11/8/2007
Hàng chục hộ nông dân xã Trí Lực (huyện Thới Bình, Cà Mau) đã chặt bán gần 100ha mía non để xả nước mặn vào nuôi tôm. Do giá đường, giá mía năm ngoái quá thấp, thậm chí thua lỗ nên nghi ngại năm nay tái diễn lại tình cảnh trên, đành bán mía non.
Nơi đây là vùng nguyên liệu chủ yếu của Nhà máy đường Thới Bình và là vùng ngọt hóa, nếu phong trào bán mía non nuôi tôm này phát triển mạnh, nguy cơ thiếu hụt mía nguyên liệu và phá vỡ hệ sinh thái ngọt sẽ trở thành sự thật.
T.M.T.
Hậu Giang: Triển vọng của cá thác lác còm
Nguồn tin: CT, 10/8/2007
Ngày cập nhật: 11/8/2007
Cá thác lác và cá thác lác còm (còn gọi là cá còm, cá Nàng Hai) có phẩm chất thịt ngon, có giá trị kinh tế cao trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, cá còm được người nuôi ưa chuộng hơn vì cùng thời gian nuôi nhưng cá có trọng lượng gấp 10 lần cá thác lác mà giá cả lại chênh lệch không bao nhiêu. Hiện nay, nhu cầu nuôi cá còm ở ĐBSCL và các tỉnh, thành miền Đông Nam bộ, Nam Trung bộ rất lớn nhưng nguồn cung cấp cá giống vẫn còn hạn chế, dù loài cá này đã được nghiên cứu sinh sản nhân tạo thành công.
Cải tiến kỹ thuật sản xuất cá giống
Đi tham quan một vòng trại cá, anh Lâm Minh Nguyên, Trưởng Trại cá Thạnh Hòa (xã Thạnh Hòa, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang) vừa chỉ cho tôi xem từng bể cá bột nhỏ li ti đến bể cá giống gần 2 tháng tuổi, vừa giải thích kỹ thuật thay nước, cách cho cá ăn... Cơn mưa chiều làm không khí của trại cá rộng khoảng 2,5 ha càng thêm mát mẻ và thoáng đãng. Ở ao kế bên, tiếng nói cười râm ran của gần chục người đang nạo vét và bắt cá. Anh Nguyên cho biết, họ đang cải tạo ao để chuẩn bị chuyển cá giống từ bể xuống, tập cho cá ăn thức ăn tự chế để thích nghi với môi trường nuôi của người dân khi xuất bán. Do cá giống khi nuôi trong bể chỉ ăn trứng nước và trùn chỉ nên khi chuyển đổi môi trường nuôi lên cá thịt, cá thích nghi chậm và tỷ lệ lớn không đồng đều. Từ phản hồi của người nuôi, trại cá mạnh dạn cải tiến chất lượng con giống bằng cách thực hiện thêm một công đoạn trước khi xuất bán là tập chuyển mồi cho cá giống trong ao đất. Nhờ vậy, chất lượng con giống và uy tín của trại ngày càng được nâng cao.
Trại cá Thạnh Hòa được thành lập năm 2004, là đơn vị chuyên sản xuất và cung ứng nguồn cá thác lác còm giống cho các cơ sở nuôi ở ĐBSCL và một số tỉnh, thành khu vực Đông Nam bộ, Nam Trung bộ. Trại cá là đơn vị trực thuộc của Công ty Cổ phần Thủy sản và Xuất Nhập khẩu Côn Đảo (Vũng Tàu). Khi đề tài “Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá thác lác” do tiến sĩ Trần Ngọc Nguyên, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, làm chủ nhiệm, thực hiện thành công, công ty đã thành lập trại cá Thạnh Hòa với sự tư vấn về kỹ thuật của Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ, nhằm sản xuất cá thác lác giống. Năm 2005, khi nhu cầu nuôi cá còm tăng mạnh, trại tập trung sản xuất cá còm. Anh Phan Văn Thành, Trưởng Phòng Bảo vệ nguồn lợi và Khuyến ngư, Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ, cho biết: “Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá còm tương tự như cá thác lác: nuôi vỗ cá bố mẹ và tiêm kích dục tố, vuốt lấy trứng của cá cái, lấy tinh sào, tiến hành cho thụ tinh, sau đó mang đi ấp. Sau khi ấp 5-7 ngày (tùy nhiệt độ), trứng nở. Cá bột được ương thành cá giống với thời gian thích hợp. Chúng tôi đã có những cải tiến để qui trình sản xuất cá giống ngày càng tốt hơn”.
Theo anh Thành, để quá trình tái phát dục (lần sinh sản thứ 2 trở đi) của cá bố mẹ được nhanh hơn, chế độ thức ăn là rất quan trọng. Vì vậy, cần nuôi vỗ tích cực đàn cá bố mẹ sau khi chấm dứt kỳ sinh sản đầu tiên đến khi sinh sản lần thứ 2. Nhờ vậy, thời gian tái phát dục của cá bố mẹ được rút ngắn chỉ còn 1 tháng rưỡi so với 2 tháng trước đây. Thay nước tích cực cũng là một điểm cải tiến nổi bật của qui trình ương nuôi cá giống. Nước trong bể ương nuôi được thay từ 50% đến 100% so với 30% trước đây. Nước được thay nhiều hơn nhưng mức nước trong bể được hạ thấp hơn khoảng 50%. Cách làm này vừa tiết kiệm được lượng nước sử dụng, vừa đảm bảo được năng suất và tỷ lệ sống của cá cao hơn.
Nhờ cải tiến qui trình sản xuất mà trại cá Thạnh Hòa ngày càng nâng cao năng suất và chất lượng con giống, mở rộng qui mô sản xuất. Năm 2005, với 16 bể ương, trại chỉ sản xuất khoảng 500 ngàn con giống; đến năm 2006, trại nâng số bể ương lên gấp đôi và sản xuất được 1,2 triệu con giống. Hiện nay, trại đã có 40 bể ương và từ đầu năm 2007 đến nay, trại đã xuất ra thị trường khoảng 1 triệu con giống. Anh Lâm Minh Nguyên, Trưởng Trại cá Thạnh Hòa, cho biết: “Chúng tôi đã nhân rộng mô hình sản xuất bằng cách cung cấp cá bột và hướng dẫn kỹ thuật ương cá giống cho những hộ dân xung quanh và khuyến khích họ cùng tham gia sản xuất cá giống. Sau đó, trại thu mua lại cá giống của dân và tiến hành nuôi trong ao đất để chuyển đổi thức ăn cho cá và xuất bán ra thị trường. Tuy vậy, vẫn không đủ cung cấp cho thị trường. Lý do chủ yếu là cá còm có sức sinh sản thấp nên các trại cá giống ngại sản xuất”.
Triển vọng
Sở dĩ cá thác lác còm được người nuôi ưa chuộng là vì cá có trọng lượng lớn, giá bán lại cao. Cùng thời gian nuôi từ 10-12 tháng, cá thác lác chỉ nặng trên 100gr nhưng cá còm lại nặng tới 1 kg mà phẩm chất thịt cũng tương đương với cá thác lác. Hiện nay, thương lái thu mua cá còm với giá khoảng 35.000 đồng/ kg, chỉ thua cá thác lác khoảng 5.000 đồng. Điểm khác biệt nổi bật giữa 2 loài là trên thân cá còm có những chấm đen còn cá thác lác thì không.
Có giá trị kinh tế cao, lại dễ tiêu thụ nên cá còm giúp người nuôi cải thiện đáng kể thu nhập. Ông Nguyễn Thanh Quang, nhà ở gần trại cá Thạnh Hòa, bộc bạch: “Nhà tôi chỉ có gần 2 công ruộng, tôi phải làm phụ hồ thêm mới tạm đủ lo cho gia đình. Năm 2006, tôi bắt đầu ương cá còm giống trong 9 bể nuôi với sự hướng dẫn kỹ thuật của trại cá. Một năm tôi ương được 4 đợt, mỗi đợt khoảng 1 tháng rưỡi với 40 ngàn con giống, thu lợi được khoảng 12 triệu đồng. Trại cá nhận bao tiêu sản phẩm nên có đầu ra ổn định, kinh tế gia đình tôi nhờ đó mà khá lên”. Ông Quang là một trong hơn 10 hộ dân ương nuôi cá giống được trại cá Thạnh Hòa bao tiêu sản phẩm.
Hiện nay, mô hình nuôi cá còm thương phẩm chưa phổ biến nhiều ở Cần Thơ mà phát triển chủ yếu ở các tỉnh, thành khác. Năm 2006, Phòng Kinh tế huyện Vĩnh Thạnh chuyển giao kỹ thuật và hướng dẫn một số hộ dân trong vùng nuôi cá thác lác còm thương phẩm. Cá đã được thu hoạch vào tháng 5-2007, các hộ nuôi đều đạt năng suất và lợi nhuận cao. Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ mới triển khai thử nghiệm mô hình nuôi cá thương phẩm tại một hộ dân ở huyện Cờ Đỏ. Nếu thành công, chi cục sẽ tổ chức nhân rộng.
Ngoài nuôi cá giống lên cá thịt, cá còm còn có thể nuôi ghép với các loài cá khác. Sau vụ lúa đông xuân và hè thu, đa số người dân ở huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ không trồng lúa vụ 3 mà thả cá ngoài đồng, tận dụng lúa chét để nuôi cá, chủ yếu là cá chép, cá mè vinh, mè trắng. Năm 2006, Liên trạm Thủy sản Ô Môn- Cờ Đỏ hỗ trợ 40% con giống cá thác lác còm cho hộ ông Nguyễn Phúc Ánh ở ấp 8, xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, thử nghiệm mô hình nuôi ghép cá còm với cá chép, mè vinh. Sau khi thu hoạch, chỉ tính riêng cá còm, ông thu lợi khoảng 7 triệu đồng. So với chỉ nuôi cá chép với mè vinh, mô hình nuôi ghép cá còm cho lợi nhuận gấp đôi. Năm 2007, có thêm một hộ thực hiện mô hình nuôi ghép này là chị Trần Thị Nga, ở ấp 5, xã Thới Hưng. Anh Lư Tuấn, Trưởng Liên trạm Thủy sản Ô Môn- Cờ Đỏ, cho biết: “Đây là mô hình mà Chi cục thủy sản đang khuyến khích người dân thực hiện. Tuy chỉ mới bắt đầu nhưng mô hình rất có triển vọng nhân rộng trong thời gian tới vì dễ làm và lợi nhuận cao”.
Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ cá thác lác còm thương phẩm trong và ngoài nước vẫn rất cao mà nguồn cung lại có hạn. Do đó, triển vọng khai thác tiềm năng kinh tế của loài cá này là rất lớn.
LỆ THU
Thành phố Hạ Long đang mất rừng ngập mặn do nuôi trồng thủy sản
Nguồn tin: SGGP, 10/08/2007
Ngày cập nhật: 10/8/2007
So với đầu năm 2006, diện tích rừng ngập mặn (RNM) ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã giảm gần 430ha (chỉ còn 476,8ha so với 903,41ha). Tại các phường Cao Xanh, Hà Khánh, Hà Khẩu, Tuần Châu..., diện tích RNM gần như bị “xóa sổ” hoàn toàn. Diện tích RNM bị thu hẹp chủ yếu do người dân phá rừng để nuôi trồng thủy sản không theo quy hoạch; đổ đất lấn biển để xây dựng nhà cửa…, trong khi TP hiện chưa có cơ chế khuyến khích người dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng.
THỤY KHUÊ
Bình Định: Đầm Trà Ổ kêu cứu
Nguồn tin: BĐ, 9/8/2007
Ngày cập nhật: 10/8/2007
Đầm Trà Ổ (còn gọi là đầm Châu Trúc), nằm ở phía Đông Bắc huyện Phù Mỹ, là một trong những đầm, phá lớn của tỉnh Bình Định. Đây là một vùng đầm đa dạng về môi trường, môi sinh; cùng nguồn lợi thủy sản (NLTS) dồi dào, phong phú. Tuy nhiên, qua nhiều năm khai thác đánh bắt thủy sản theo kiểu tận diệt, môi trường sinh thái của đầm đã bị phá vỡ, dẫn đến nhiều hệ lụy xấu.
Do khai thác NLTS không theo một quy hoạch nào, mạnh ai nấy làm; nhiều ngư dân chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt, tranh thủ khai thác, đánh bắt thủy sản bằng nhiều loại nghề cấm… hệ sinh thái của đầm đã suy giảm trầm trọng.
Đầm Trà Ổ. Ảnh: Đào Tiến Đạt
* Cạn kiệt nguồn lợi
Ông Lê Xuân Tâm, ở xã Mỹ Châu, một người có thâm niên làm nghề đánh bắt thủy sản trong đầm Trà Ổ, cho biết: “Diện tích ruộng ở khu vực này không có bao nhiêu, các ngành nghề phụ thì ít, bà con chủ yếu sống nhờ vào việc khai thác, đánh bắt thủy sản trong đầm. Nhờ đó, cuộc sống được ổn định, có tích lũy. Hơn 5 năm trở lại đây, NLTS trong đầm bị cạn kiệt, đời sống của bà con khó khăn hơn. Nguyên nhân chủ yếu làm giảm đáng kể NLTS là do chất độc từ các loại thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp tích tụ lại trong đầm; đồng thời việc khai thác thủy sản bằng xung điện đã tận diệt các giống loài thủy sản ở đây”. Được biết, hiện có đến trên 200 hộ tiếp tục dùng xung điện khai thác thủy sản trong đầm, chẳng những tận diệt NLTS mà còn làm cho môi trường sinh thái suy giảm nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều người còn tự do khai thác ở các khu vực bãi đẻ, nơi sinh sống tập trung của các loài thủy sản còn bé, dẫn đến việc con cá, con tôm không kịp sinh sản, phát triển…
* Cứu đầm là cứu dân
Theo số liệu điều tra của Chi cục Bảo vệ NLTS tỉnh trong năm 2006 tại 650 hộ làm các nghề truyền thống trên đầm, so với năm 2000, sản lượng chình từ nghề đăng sáo giảm 90%; cá (nghề lưới) giảm 50%; tôm (nghề thả dẹp) giảm 84%... Như vậy, chỉ có các hộ làm nghề cấm là có thu nhập, còn các hộ làm nghề truyền thống thì rất khó khăn; nhiều hộ đã bỏ nghề, đi làm thuê, làm mướn kiếm sống.
Đầm Trà Ổ có chu vi khoảng 20 km, được xem là cái rốn thu nước của toàn lưu vực phía Bắc của huyện Phù Mỹ gồm 7 xã. Trong đó có 4 xã giáp ranh với đầm là: Mỹ Châu, Mỹ Đức, Mỹ Thắng và Mỹ Lợi. Đầm Trà Ổ nổi tiếng về NLTS có giá trị kinh tế cao, như: chình, tôm, cua, rạm, cá các loại. Đặc biệt là giống chình mun quý hiếm chỉ có ở đầm Trà Ổ, đã nổi tiếng cả nước từ bao lâu nay. Con tôm trong đầm cũng có tiếng là ngon để làm ra món “bún tôm Châu Trúc” đặc sắc…
Có thể thấy, những bất cập trong việc khai thác NLTS đầm Trà Ổ là: Chưa quy hoạch khu vực cụ thể cho từng loại nghề; một số nghề phát triển tự phát, không được khuyến cáo, kiềm chế, đã làm ảnh hưởng đến NLTS; việc giao khoán diện tích mặt nước cho các hộ hành nghề đăng sáo chưa quy định cụ thể về nguyên tắc đảm bảo hiệu quả và tính bền vững…
Hiện nay, Chi cục Bảo vệ NLTS tỉnh đang triển khai đề tài nghiên cứu phục hồi hệ sinh thái đầm Trà Ổ. Đây là việc làm rất cần thiết, song không thể chờ đề tài hoàn thành rồi mới “cứu” đầm. Chính quyền các địa phương ven đầm cần thật sự vào cuộc một cách quyết liệt hơn, bằng cách thường xuyên phối hợp với các lực lượng chức năng tăng cường tuyên truyền công tác bảo vệ NLTS đến từng hộ ngư dân; đồng thời tổ chức kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn và xử lý nghiêm đối với các trường hợp dùng xung điện khai thác thủy sản. Quy hoạch cụ thể từng khu vực khai thác bằng các loại nghề phù hợp và cấp giấy phép khai thác thủy sản cho từng loại nghề khai thác trên đầm. Các hội, đoàn thể ở cơ sở nên vận động bà con ngư dân trực tiếp hưởng lợi từ đầm Trà Ổ cùng tham gia bảo vệ NLTS trong đầm để có thể khai thác bền vững, bảo đảm cuộc sống lâu dài của bà con…
Bùi Xuân Sang
Cà Mau nói “không” với thủy sản nhiễm tạp chất
Nguồn tin: NLĐ, 9/8/2007
Ngày cập nhật: 10/8/2007
Phú Yên: Nuôi tôm thẻ chân trắng ở cửa sông Đà Nông - Được mùa, mất giá
Nguồn tin: Phú Yên, 8/8/2007
Ngày cập nhật: 9/8/2007
Hơn 90% hộ nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng lạch Sông Ngoạn nằm ven cửa sông Đà Nông (huyện Đông Hòa) thu hoạch được mùa với năng suất 5- 9 tấn/ha, cao nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, niềm vui của người nuôi tôm không được trọn vẹn, bởi giá tôm giảm khiến thu lãi chưa cao.
NĂNG SUẤT, SẢN LƯỢNG TÔM THẺ ĐẠT CAO
Tôm thẻ được mùa nhưng mất giá – Ảnh: N.L
Vùng nuôi tôm thẻ chân trắng ở lạch Sông Ngoạn đã thu hoạch rộ. Hơn 90% trong tổng số khoảng 100 hộ nuôi ở đây đã đạt sản lượng cao. Chủ tịch UBND xã Hòa Hiệp Nam (Đông Hòa) Lương Văn Khạng cho biết, bước đầu bà con đã đầu tư hình thành được vùng nuôi tôm thẻ chân trắng tập trung ở lạch Sông Ngoạn với hiệu quả kinh tế mang lại tương đối cao. Điều này cho thấy, con tôm thẻ có thể nuôi thay thế được con tôm sú vốn liên tục bị dịch bệnh ở ven cửa sông Đà Nông. UBND xã sẽ vận động, khuyến khích bà con phát triển các vùng nuôi tôm thẻ tập trung như ở lạch Sông Ngoạn, đồng thời có giải pháp quản lý, ngăn chặn tình trạng nuôi tôm thẻ theo kiểu “da beo” nằm xen lẫn với ao hồ nuôi tôm sú như lâu nay dễ phát sinh dịch bệnh.
Theo ông Nguyễn Văn Hạ, đặc điểm của con tôm thẻ là nuôi được ở mật độ dày, tôm có sức đề kháng cao, ít bị bệnh… nên năng suất, sản lượng đạt cao. Mặt khác, nuôi tôm thẻ chân trắng hoàn toàn không cần sử dụng các hóa chất, kháng sinh… để kích thích hay phòng bệnh tôm. Do vậy, tôm thẻ nuôi ở đây không có dư lượng kháng sinh, đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu.
Từ năm 2001, cũng như hầu hết các vùng nuôi tôm ở ven cửa sông Đà Nông, vùng nuôi tôm khoảng 50 ha ở lạch Sông Ngoạn luôn bị dịch bệnh tôm sú hoành hành, gây thiệt hại nặng cho người nuôi. Trước thực trạng này, bà con đành bỏ trắng nhiều ao đìa, đi làm thuê ở nhiều nơi để trang trải nợ nần, lo cho cuộc sống gia đình. Đến năm 2004, một số bà con mới mạnh dạn đầu tư cải tạo lại ao đìa ở lạch Sông Ngoạn và chuyển sang nuôi con tôm thẻ chân trắng. Ông Trần Văn Việt, một người nuôi tôm thẻ ở đây, cho biết: “Thời gian đầu, đa số bà con chưa nắm vững kỹ thuật nuôi tôm thẻ nên năng suất đạt thấp, chỉ huề vốn hoặc thu lãi rất ít. Vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, năm nay bà con đồng loạt thả tôm thẻ nuôi trong 3 tháng đạt năng suất từ 5 – 9 tấn/ha, cao nhất từ trước đến nay. Riêng gia đình tôi thả nuôi 1,5ha tôm thẻ, thu hoạch đạt sản lượng trên 14 tấn…”.
TÔM HẠ GIÁ, MẤT 10 TRIỆU ĐỒNG/1TẤN
Mặc dù được mùa nhưng niềm vui của người nuôi tôm không được trọn vẹn, bởi giá tôm liên tục “rớt” xuống thấp. Ông Nguyễn Văn Hạ cho hay: “Trong khi chi phí vật tư, thức ăn, con giống… tăng cao, thì giá tôm thẻ chỉ bán được 38.000 đồng/kg (cỡ tôm 100 con/kg); giá bán xô trung bình 44.000 đồng/kg, giảm 10.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Do giá tôm hạ nên tôi thu hoạch trên 6 tấn tôm thẻ chỉ thu lãi được 80 triệu đồng”. Tính ra, mỗi tấn tôm mất thu 10 triệu đồng nên đa số người nuôi tôm thẻ bị thiệt hại. Ông Trần Văn Việt phân tích: chỉ tính năng suất tôm ở mức thấp nhất là 5 tấn/ha, vụ này bà con nuôi tôm ở trong vùng lạch Sông Ngoạn mất đứt nguồn thu 2,5 tỉ đồng!
Thu hoạch tôm thẻ ở ven sông Đà Nông - Ảnh: N.L
Có thể nói phong trào nuôi tôm thẻ chân trắng ở ven cửa sông Đà Nông nói riêng và ở nhiều vùng nuôi khác tại Phú Yên nói chung đang phát triển mạnh cả về quy mô diện tích, năng suất, sản lượng. Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ tôm thẻ còn nhiều bấp bênh với giá cả có nhiều biến động bất thường. Tình trạng được mùa, mất giá và ngược lại luôn lặp lại ở nhiều vụ nuôi vừa qua, gây “đau đầu” cho người nuôi. Để nghề nuôi tôm thẻ vừa phát triển bền vững, vừa mang lại nguồn lợi kinh tế cao, nhằm “cứu” dần các cánh đồng tôm sú bị dịch bệnh tràn lan và bỏ trắng trong thời gian dài, đòi hòi phải có sự gắn kết giữa nhà quản lý – nhà khoa học – nhà kinh doanh và người nuôi tôm. Trên cơ sở đó cải tiến phương pháp nuôi phù hợp với chi phí thấp nhất; đồng thời nâng cao chất lượng tôm, tìm kiếm thị trường xuất khẩu tôm thẻ với giá cả tiêu thụ ổn định, lâu dài.
NGUYÊN LƯU
Tường tỉ phú
Nguồn tin: TT, 08/08/2007
Ngày cập nhật: 8/8/2007
Cái dạ dày bị cắt 3/4, các bác sĩ ái ngại khuyên nên lo trước hậu sự đi chứ không sống quá được một năm. Ấy thế mà giờ đây con người đó không những không chết mà lại trở thành tỉ phú.
Mảnh đất Đại Đồng nằm cách trung tâm xã Cương Gián (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) 5km là một xã nghèo. Cái đầm hơn 10ha nằm bên con sông Mỹ Dương đổ một phía về biển là nguồn sống duy nhất cho người dân kiếm từng con cua, con ốc. Rồi cái đầm bỏ hoang vì chả có ai tìm được cái ăn nữa. Thế rồi có nhiều buổi trưa nắng, ông nông dân Phạm Văn Tường cứ lẩn ra cái đầm nhìn ngó. Cả thôn cứ nghĩ “cái lão đau dạ dày dở hơi”. Ông muốn biến nó thành đầm tôm. Thế rồi ước mơ của ông tan biến khi các bác sĩ Bệnh viện đa khoa Nghệ An bảo bệnh dạ dày của ông không nên điều trị làm gì, nên đưa về nhà càng sớm càng tốt.
Ba năm điều trị, mảnh đất hương hỏa cũng phải bán tống bán tháo. Bốn đứa con với người vợ hằng ngày ra biển bắt con nghêu con sò. “Nhiều lúc muốn cắn lưỡi cho xong chuyện nhưng thấy vợ con động viên nên cố sống” - ông Tường tâm sự.
Ba năm bệnh đã cướp đi hai mảnh vườn bé nhỏ và 12 triệu đồng vay mượn từ ngân hàng, làng xóm... Tháng 6-2000, khi vợ con ông đang mò cá ngoài biển thì nhận được tin xấu. Vừa về đến nhà thấy mọi người vây quanh, tưởng rằng người chồng, người cha đã về thế giới bên kia. Nào ngờ có người phát hiện ông còn thở. Một lần nữa người vợ Ngô Thị Lý quyết tâm đưa chồng ra Hà Nội. Thế là hơn một tháng chạy vạy được 3 triệu đồng, hai vợ chồng khăn gói lên đường ra Hà Nội. Cũng lại cái lắc đầu ái ngại nên đưa về càng sớm càng tốt.
Xuất viện về, ông gọi cả nhà đến ngồi bên giường mình để bàn kế hoạch mà mình đã ấp ủ từ lâu. “Các con cố gắng thay bố đắp cho bằng được con đê ngăn sóng dài 2km trong bốn tháng này. Nếu chết bố cũng phải cùng các con làm bằng được con đê rồi bố mới đi”.
Hơn một năm trời, sáu con người quần quật bất kể mưa nắng hay dông bão. Khi chỉ còn 300m nữa là xong thì cũng là lúc cơn bão số 5 năm 2003 tràn vào Hà Tĩnh. Hai con sóng cao hơn 4m đã xóa tan tành công sức của gia đình hai năm qua.
Số tiền nợ lên tới gần 1 tỉ đồng nhưng ông Tường vẫn không nản. Quyết là làm, ngay ngày hôm sau ông tiếp tục lên quĩ tín dụng và quĩ hỗ trợ cùng đi cầu cứu gia đình, anh em, bạn bè.
Rồi cái đầm cũng hoàn thành và kế đó là những trận thua lỗ do tôm chết. Tưởng chừng như bỏ cuộc vì số nợ đã quá lớn. Năm 2005 ông thay đổi giống nuôi tôm chân trắng. Cái quyết định cuối cùng này lại chính là con đường sống. Trong hai năm liền những vụ trúng tôm liên tiếp khiến ông ngây ngất. Số nợ 2,3 tỉ đồng được xóa sạch. Hiện có 15 người trong thôn làm việc thường xuyên cho ông với mức lương tháng 1,5 - 2 triệu đồng.
Giờ đây ông Tường chẳng những không chết mà còn giàu có. Hỏi ông nghĩ gì về cuộc đời mình, ông nói gọn gàng: “Đã làm thì phải quyết liệt. Bế tắc nào cũng có giải pháp”.
PHẠM MINH THÙY
Để sản phẩm cá tra Việt Nam luôn được tín nhiệm
Nguồn tin: CT, 7/8/2007
Ngày cập nhật: 8/8/2007
ĐBSCL: Con cua… “xua” con tôm!
Nguồn tin: SGGP, 07/08/2007
Ngày cập nhật: 8/8/2007
Nuôi cua lấy thịt (vỗ béo), nuôi cua gạch xuất khẩu đang là nghề hái ra tiền của ngư dân ĐBSCL. Nuôi cua tuy không siêu lợi nhuận bằng nuôi tôm sú nhưng hiệu quả kinh tế “ăn chắc”...…
Mê cua như điếu đổ!
Nuôi cua thịt (vỗ béo) và nuôi cua gạch xuất khẩu đang là nghề hái ra tiền.
Đây đang là câu chuyện thời sự ở vùng ngập mặn ven biển ĐBSCL. Sau nhiều vụ nuôi tôm thất trắng, người dân Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh…”đổ nợ”, ngán ngẩm con tôm bèn quay trở lại nuôi cua. Thạc sĩ Phạm Minh Truyền, Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư Trà Vinh, cho biết: Nghề nuôi cua biển vốn là nghề truyền thống của người dân các huyện vùng ven biển ĐBSCL.
Trước đây, bà con nuôi cua theo hình thức quảng canh: đào ao ở các tuyến rừng, dùng lá dừa nước kết lại, bao xung quanh cho cua không thể đi và lấy nước vào (những con nước rong), cua con sẽ theo nước vào ao – đầm, sau đó đóng cống để giữ lại cua con và cua sẽ tự tìm thức ăn trong tự nhiên mà phát triển. Cách nuôi này, thời gian thu hoạch 10 đến 12 tháng, hiệu quả kinh tế không cao. Chính điều đó, hầu hết bà con chuyển sang nuôi tôm sú, làm cho nghề nuôi cua biển mai một, không phát triển.
Từ năm 2005, thông qua dự án “Phát triển và bảo vệ các vùng ngập nước ven biển tỉnh Trà Vinh” do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ, Trung tâm Khuyến ngư Trà Vinh xây dựng nhiều mô hình nuôi cua biển ở 7 xã thuộc 3 huyện Duyên Hải, Cầu Ngang và Châu Thành. Qua thực tế 3 vụ nuôi thử nghiệm, hiệu quả kinh tế vượt hẳn sự mong đợi của người nuôi và các nhà khoa học.
Anh Trần Hữu Chí (xã Long Hòa, huyện Châu Thành), người tiên phong tham gia mô hình nuôi cua thử nghiệm, hồ hởi kể: “Với diện tích 2.000m2 , tôi thả 1.400 con cua giống (kích cỡ từ 30 – 40 con/kg). Qua 4 tháng nuôi, cua đạt chuẩn 250gr đến 300gr/con, tỷ lệ hao hụt khoảng 20%. Sản lượng cua thương phẩm thu hoạch trên 250kg. Bình quân giá cua thịt 50.000 đến 80.000đ/kg, cua gạch 90.000 đến 140.000đ/kg, thu được 16 triệu đồng, trừ chi phí 6,3 triệu đồng, lợi nhuận hơn 9 triệu đồng. Chỉ với 2.000m2, bỏ ra 1 đồng vốn, thu lãi 1,5 đồng lời, “ăn đứt” con tôm sú, lại ít rủi ro, quá hấp dẫn. Nếu đầu tư theo quy mô công nghiệp, 1ha thu nhập từ 80 đến 100 triệu đồng nhưý chơi”.
Ở vùng đồng láng xã Đôn Xuân, Đôn Châu (huyện Trà Cú), Long Hòa, Hòa Minh (huyện Châu Thành), nghề nuôi cua lấy thịt đang “lên ngôi”. Nông dân Lê Văn Công ấp Bà Nhì, xã Đôn Xuân (Trà Cú) sau nhiều vụ tôm thua trắng tay, chuyển sang nuôi cua “thắng đậm” liền 3 vụ, giờ thì anh “mê” con cua như điếu đổ.
Những tín hiệu vui
Hiện nay, nông dân các huyện ven biển của tỉnh Trà Vinh đang bước vào vụ thu hoạch 5,3 triệu cua giống thả nuôi vụ 1 trên diện tích mặt nước 580ha, sản lượng cua thương phẩm đạt hơn 758 tấn. Cua được mùa, trúng giá - cua loại 1 từ 80.000đ/kg đến 120.000đ/kg - nhưng vẫn không đủ hàng cung cấp cho thị trường TPHCM và xuất khẩu. Hiệu quả kinh tế mang lại từ nghề nuôi cua biển trên 31,3 tỷ đồng, góp phần cải thiện đáng kể đời sống 4.000 người dân vùng ngập mặn ven biển.
Khoa Thủy sản của Trường Đại học Cần Thơ và Trung tâm Giống thủy sản Trà Vinh đã sản xuất thành công cua biển giống nhân tạo để cung cấp cho người nuôi. Riêng Trung tâm Giống thủy sản Trà Vinh còn chuyển giao công nghệ sản xuất cua biển giống cho các trang trại sản xuất tôm sú giống trong tỉnh. Đây là tín hiệu vui, giải pháp lâu dài, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững nghề nuôi cua biển nhiều tiềm năng vốn còn bỏ ngỏ thời gian qua.
Đình Cảnh
Hải Dương: sinh sản thành công loại cá hoa quế quý hiếm
Nguồn tin: Hai Duong, 7/8/2007
Ngày cập nhật: 7/8/2007
Năm nay, người cựu chiến binh Trần Văn Đạt ở thôn Trung Hà, xã Nam Trung, huyện Nam Sách đã bước sang tuổi 70 nhưng còn rất khoẻ, vẫn “ăn sóng nói gió” lăn lộn với nghề thuỷ sản: Nuôi cá, cho cá sinh sản. Thời gian đối với ông thật là quý!
Gần 20 năm làm nghề nuôi cá thịt và làm cá giống truyền thống, từ chỗ chỉ có hơn 1 ha ao, nay ông đã có một cơ ngơi rộng lớn. Ngoài 8 ha điều tiết nước để thả các loại cá thịt, cho cá đẻ, ông còn đầu tư trên 500 triệu động xây dựng một xưởng chế biến thức ăn cho cá, mua xe tải, xe đông lạnh chở cá đi giao cho khách hàng ở một số tỉnh, thành như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng và Hà Nội… Hai năm gần đây, ông đã mang sản phẩm vào bán tại thành phố Hồ Chí Minh, xuống tận các tỉnh Đồng bằng Nam Bộ. Không kể số nhân công trong gia đình, ông còn có một đội ngũ công nhân giúp việc khá lớn, với khoảng 20 người. Đội ngũ công nhân này đã được ông đào tạo có bài bản về chăm sóc cá thịt, làm cá giống.
Trong khu vực làm cá giống có nhiều công nhân còn rất trẻ, họ có trình độ văn hoá, được giao theo dõi đàn cá bố mẹ, cho cá ăn, nghe cá quẫy, biết được chu kỳ sinh sản để phối giống, trăn trở, hồi hộp khi cá vật đẻ… Họ là những người có tâm huyết với nghề và luôn thực hiện theo đúng quy trình mà ông Đạt đã dày công thu thập qua sách vở, qua kinh nghiệm thực tế, qua học tập từ các kỹ sư thuỷ sản ở Trung tâm Quốc gia giống thuỷ sản nước ngọt miền Bắc. Từ chỗ chỉ chuyên nuôi cá truyền thống như: Cá chép, cá quả, cá trắm cỏ… những năm gần đây ông đã chuyển hướng sang đầu tư nuôi cá hoa quế.
Năm 2001, được biết Trung tâm Quốc gia giống thuỷ sản nước ngọt miền Bắc đang thực hiện đề tài cấp Bộ về nuôi cá hoa quế tại Việt Nam, ông đã chủ động liên hệ nhờ tư vấn giúp đỡ và dày công tìm hiểu kỹ thuật nuôi loại cá này. Ông Đạt cho biết: Loại cá hoa quế cực kỳ khó tính, bởi nó luôn ăn các loại cá khác nhưng lại không ăn cá chết. Khi ấp nở mới mở miệng đã ăn ngay cá bột khác. Trong quá trình nuôi, quan trọng nhất là phải đảm bảo đủ thức ăn cho cá cả về số lượng và kích cỡ phù hợp với mồm cá, nếu không tỷ lệ hao hụt rất lớn vì chúng sẽ quay sang ăn thịt lẫn nhau. Để có 1 kg cá thịt phải chi phí từ 4-5 kg thức ăn. Do vậy, muốn nuôi được cá hoa quế đòi hỏi người nuôi không những phải có kỹ thuật mà còn phải có đầu tư lớn. Từ ao ao thả cá bố mẹ đến công đoạn ấp nở đều phải phối hợp nhịp nhàng giữa điều tiết nước, cung cấp nguồn thức ăn, phân đàn kịp thời và đặc biệt là phải luôn đề phòng cá to ăn cá nhỏ. Loại cá hoa quế cần nhiều ôxy trong nước và thích hợp ở nhiệt độ từ 17-210C. Mỗi cặp cá bố mẹ sinh từ 4-5 vạn trứng, cho ấp, nở, gột, chăm sóc 3 tháng mà tỷ lệ sống thường chỉ đạt 35-40%.
Ấp ủ đề tài này, ông Đạt đã bao đêm thức trắng, đôi mắt thâm quầng, mệt mỏi bởi nhiều lúc quên ăn, chấp nhận hao công tốn của và mọi thất bại. “Có công mài sắt có ngày nên kim”, đầu năm 2004 ông đã cho sinh sản thành công cá hoa quế. Thế là ông dành hẳn 10 sào ao để nuôi cá hoa quế. Đến nay, ông đã có thể cung cấp hàng triệu con cá hoa quế cho khách hàng. Chỉ cần giống cấp 2 dài 4 cm/1 con là ông đã bán với giá 4.500 đồng mà vẫn không có giống để bán. Giá cá thịt đông lạnh ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là 80.000 đồng/1 kg, có lúc lên tới 120.000 đồng/kg.
Theo KS Nguyễn Mạnh Tấn, Phó Giám đốc Trung tâm Quốc gia giống thuỷ sản nước ngọt miền Bắc, Chủ nhiệm đề tài nuôi cá hoa quế tại Trung tâm cho biết, hiện nay ông Trần Văn Đạt là một trong số ít người ở nước ta cho sinh sản thành công giống cá này.
Không chịu dậm chân tại chỗ, ông Đạt còn đang thí nghiệm cho sinh sản các loại cá có giá trị kinh tế rất cao như cá lăng vàng và cá song bảo thạch (trên thị trường bán đến 20.000 đồng/con)...
Ông cũng là người rất khiêm tốn, chân tình với bạn hàng. Đặc biệt, đối với những chủ trang trại nhỏ chăn nuôi thuỷ sản ở quê ông thì ông chẳng tiếc công, tiếc của, luôn thăm nom, tư vấn, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao kỹ thuật, sẵn sàng chia sẻ khó khăn, cấp giống, vốn và bao tiêu sản phẩm cho họ.
Đến trang trại của ông Trần Văn Đạt mùa xuân này, ngắm nhìn những ao nuôi cá nối tiếp nhau, những hàng chuối đang trổ lá non tơ trên bờ ao, nghe tiếng cá quẫy, ngắm những đàn cá lội tung tăng hứa hẹn một mùa bội thu ở trang trại của người cựu chiến binh già có một thời cầm súng bảo vệ quê hương, đất nước.
(Trần Kim Hạnh - Sở KH&CN Hải Dương)
Xây dựng 6 mô hình nuôi thủy sản
Nguồn tin: Vinh Long, 7/8/2007
Ngày cập nhật: 7/8/2007
Nhằm tăng thu nhập cho nông dân và từng bước cắt giảm, diện tích lúa sản xuất vụ 3, huyện Mang Thít đã hỗ trợ 3 mô hình nuôi cá rô đồng vụ Hè Thu và Thu Đông ở xã Long Mỹ.
Mỗi mô hình được hỗ trợ 70% chi phí cá giống với số tiền là 900.000 đồng. Cùng lúc, ngành chức năng tỉnh, cũng đã đầu tư 3 mô hình nuôi cá trên ruộng lúa ở xã Hòa Tịnh, có tổng diện tích là 1,5 ha. Để đảm bảo hiệu quả các mô hình trên đây, Mang Thít đã tổ chức chuyển giao KHKT về nuôi cá rô đồng và một số loại thủy sản khác cho gần 100 nông dân 2 địa phương nói trên; trong đó có các hộ đăng ký thực hiện mô hình này.
Được biết, sau các mô hình nuôi cá này, Mang Thít sẽ nhân rộng trên địa bàn vào năm 2008.
Những người thương binh trên đầm hoang bàu Cái - La Gi (Bình Thuận)
Nguồn tin: ND, 5/8/2007
Ngày cập nhật: 6/8/2007
Ðó là Hợp tác xã dịch vụ nuôi trồng thủy sản 27-7 Tân Hải ở xã Tân Tiến, thị xã La Gi (Bình Thuận). Từ tổ hợp tác ban đầu do tám thương binh, cựu chiến binh thành lập, đến khi phát triển thành hợp tác xã, cũng có đến 70% số xã viên là thương binh. Những người lính còn mang trên mình vết thương thời chiến, lại tiếp tục "xung phong" chiến đấu với nghèo khó trong sự khâm phục của bà con địa phương.
Hôm chúng tôi đến Hợp tác xã dịch vụ nuôi trồng thủy sản 27-7 Tân Hải (viết tắt là HTX 27-7) đúng dịp cao điểm HTX thu hoạch cá vụ nuôi năm 2007. Chiếc điện thoại bàn không dây thỉnh thoảng lại reo vang và đầu dây bên kia là các "lái cá" điện vào đặt hàng. Căn cứ vào số lượng đặt mua, chiều đến, HTX tổ chức thu hoạch vừa đủ, rồi vây nhốt lại trong ao, đến sáng sớm hôm sau, người mua vào chở cá đi bán khắp vùng. Nhiều thương lái từ Long Khánh, Xuân Lộc (Ðồng Nai) cũng đã đặt mua tại đây mỗi chuyến vài ba tạ đến hàng tấn cá.
Mở đầu câu chuyện, anh Bùi Tấn Phúc, thương binh hạng 4/4, thành viên ban Quản trị HTX 27-7, nhớ lại: Khi biết anh em xin khai hoang khu vực bàu Cái để làm trang trại, không ít người dè bỉu "Mấy ông thương binh này điên". - Kể ra họ cũng có lý, bởi vì nếu khu vực này "ngon ăn" thì đâu còn đến lượt chúng tôi - Anh Phúc tiếp tục pha trò.
Khu vực bàu Cái ở xã Tân Tiến có diện tích hơn 100 ha, là một túi nước tự nhiên mọc đầy lau sậy, cỏ năng, cỏ lác và sình lầy. Khai hoang bàu Cái để sản xuất mà không có giải pháp công trình hợp lý, nước từ bàu sẽ chảy tràn lan, gây ngập úng cục bộ cho cả khu vực lân cận. Có lẽ vì khó như thế, nên bàu Cái đã "ngủ yên" cho mãi đến đầu năm 2002, được những người thương binh "đánh thức".
Anh Võ Văn Nháy, thương binh hạng 4/4, Chủ nhiệm HTX 27-7, cho biết: "Ðầu tháng 3-2002, tám anh em cựu chiến binh ở địa phương, trong đó có bảy người là thương binh từ hạng 4/4 đến hạng 2/4, đã quyết chí thành lập tổ hợp tác, làm đơn xin chính quyền khai hoang gần 49 ha ở khu vực bàu Cái lập trang trại trồng sen và nuôi cá nước ngọt. Yếu tố đầu tiên "kích thích" chúng tôi là gần cả 100 ha mặt nước bị bỏ hoang, phí quá. Nhưng cốt lõi là chúng tôi muốn tạo dựng "cơ nghiệp" để cùng cưu mang nhau, vì nghĩa tình đồng đội và vì ai cũng nghèo. Ðến giữa tháng 4-2004, chúng tôi quyết định "nâng cấp" tổ hợp tác thành HTX 27-7. Kể từ đó, chúng tôi quyết tâm theo đuổi dự án".
Mất gần ba năm do gặp một số trở ngại phát sinh và do thủ tục, giấy tờ, đến giữa tháng 7-2004, UBND tỉnh Bình Thuận có quyết định chính thức giao đất cho HTX 27-7 đầu tư làm trang trại với diện tích 42 ha, thuê đất trong 20 năm. Năm 2006, HTX được UBND tỉnh Bình Thuận chấp thuận chuyển từ hình thức cho thuê đất sang giao đất có thu tiền sử dụng đất. Ðể có tiền thực hiện dự án, tám thành viên của HTX đã vay mượn nhiều nơi, góp vốn mỗi người 30 triệu đồng. Từ nguồn vốn ban đầu 240 triệu đồng, HTX bắt tay ngay vào cải tạo ao đìa.
Với ý chí, quyết tâm và cả sự táo bạo của những người thương binh, vùng đầm lầy hoang hóa hồi nào, giờ đã trở thành khu nuôi cá nước ngọt với tổng diện tích mặt nước hơn 37 ha. Ðến HTX 27-7, rảo bước trên những con đường đất thẳng tắp trong khu vực sản xuất với những ao nuôi nối tiếp nhau, có ao rộng hơn 10 ha, chúng tôi tin các anh sẽ thành công.
Cuối tháng 8- 2005, HTX thả nuôi thử nghiệm lứa cá đầu tiên gồm 11 chủng loại với hơn một tấn con giống, tương ứng với kinh phí gần 200 triệu đồng, nhưng kết quả đạt được không như mong muốn. Tuy vậy, các anh cũng đã "thu hoạch" được ít nhiều kinh nghiệm ban đầu. Xác định được chủng loại cá phù hợp nhất là rô phi đơn tính, vụ tiếp theo, các anh thả nuôi quảng canh hơn 32 ha ghép cùng giống cá chép, số diện tích còn lại, thả nuôi một ít cá lóc và nuôi thử nghiệm cá thác lác.
Năm 2006, HTX thu hoạch hơn 78,5 tấn cá, doanh thu được gần 690 triệu đồng, thu lợi nhuận gần 172 triệu đồng. Vụ năm nay, chỉ mới thu hoạch khoảng 40% diện tích nuôi, nhưng HTX cũng đã đạt doanh thu gần 60 triệu đồng. Sau khi thu hoạch hết cá, HTX sẽ tiếp tục cải tạo khu vực nuôi với dự trù kinh phí gần 1,5 tỷ đồng, làm tiền đề tính chuyện làm ăn lớn hơn từ vụ kế tiếp.
HTX 27-7 hiện có 18 xã viên và 70% trong số này là thương binh, bảo đảm việc làm cho lao động xã viên với mức thu nhập ổn định 1,2 triệu đồng/người/tháng; tạo thêm việc làm theo thời vụ cho hàng chục lao động trong vùng với mức thu nhập khoảng một triệu đồng/ tháng. Ngoài ra, HTX 27-7 còn đầu tư làm đường giao thông, kéo điện thắp sáng phục vụ khu vực dự án và giúp một số hộ dân trong khu vực có điều kiện giao lưu, sinh hoạt thuận lợi hơn.
"Mọi việc chỉ mới bắt đầu, nhưng giá trị đất, tài sản có trên đất của HTX chúng tôi đã tăng nhanh. Dứt khoát, từ năm 2010 trở đi, HTX chúng tôi sẽ có lợi nhuận lớn" - Không giấu niềm vui, Chủ nhiệm Võ Văn Nháy cho chúng tôi biết như vậy. Không chỉ tập trung vào việc nuôi trồng thủy sản, HTX 27-7 đang tính toán quy hoạch, tiếp tục cải tạo lại khu vực dự án, mở thêm hướng kinh doanh dịch vụ du lịch. Tính toán như vậy là có cơ sở, vì cả khu vực bàu Cái này gần như nằm trọn trong cụm du lịch Ngảnh Tam Tân - Dinh Thầy, Thím đã được thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận quy hoạch phát triển.
Câu chuyện giản dị tại khu đầm hoang có tên bàu Cái ở xã Tân Tiến, thị xã La Gi (Bình Thuận) trở nên hấp dẫn hơn, vì được những người thương binh tiếp tục viết thêm những trang mới.
DƯƠNG HỒNG LÂM
Nuôi cá lóc trên hồ nổi
Nguồn tin: ĐNai, 03/08/2007
Ngày cập nhật: 5/8/2007
Ông Phạm Trọng Đại ở ấp III, xã Phước Thái, huyện Long Thành từng nổi tiếng với mô hình nuôi cá trê và ba ba đem lại lợi nhuận cao. Gần đây, ông còn được nhiều người biết đến qua mô hình nuôi cá lóc bông trên hồ nổi với mật độ tương đối dày.
15 năm về trước, gia đình ông về Phước Thái khi vùng đất này còn hoang vu, ít người sinh sống. Đất đai và nguồn nước nơi này bị nhiễm mặn và phèn cao nên chăn nuôi trồng trọt rất khó khăn phải sau nhiều ngày tính toán và thử qua nhiều mô hình chăn nuôi, trồng trọt, ông đi đến quyết định đầu tư theo nghề nuôi cá từ năm 1992 với mô hình nuôi cá trê và ba ba. Với mô hình này, mỗi năm từ 4.000 m2 ao, ông Đại thu trên 20 tấn cá trê và ba ba, lãi khoảng 200 triệu đồng. Từ một hộ khó khăn, nhờ nuôi cá đến nay, gia đình ông đã trở thành một hộ giàu có được nhiều người tìm đến học hỏi kinh nghiệm.
Mới đây, ông lại tiếp tục nuôi thành công giống cá lóc bông trên hồ nổi bằng phương pháp nuôi công nghiệp. Ông Đại cho biết: "Đầu năm 2007, tôi nuôi thử nghiệm khoảng 30 ngàn con cá lóc giống, loại 1.000 con/kg trên ba hồ nổi với diện tích 570m2... Sau 4 tháng, từ 3 hồ nổi, tôi thu được 8 tấn cá lóc, bình quân mỗi con nặng khoảng 600 gram". Nếu tính theo giá thị trường hiện nay (khoảng 26 ngàn đồng/kg cá lóc bông), ông thu được trên 200 triệu đồng, trừ mọi chi phí, ông còn lãi tới 80 triệu đồng. Theo ông, thời gian để nuôi một lứa cá mất khoảng 4 tháng, như vậy 1 năm sẽ nuôi được 2 lứa cá và mức lãi có thể đạt khoảng 160 triệu đồng. Ông Đại cho biết: "Cá lóc bông có khả năng thích nghi với nhiều môi trường sống. Phước Thái là vùng nguồn nước nhiễm mặn và phèn cao nhưng cá vẫn sinh trưởng và phát triển bình thường".
Tuy nhiên, để nuôi cá lóc bông trên hồ nổi đạt hiệu quả, theo ông mỗi ngày phải thay nước từ 1 đến 2 lần và thay vào lúc 7-8 giờ sáng là tốt nhất. Cần bơm nước lên cao, sau đó cho chảy từ từ xuống hồ, vì như thế sẽ tạo thêm được ôxy dưới hồ. Với mực nước hồ sâu khoảng 80 cm có thể nuôi cá lóc bông với mật độ 50 con/m2. Cá giống không nên thả một đợt mà nên chia thành hai đợt thả gối nhau. Nếu chăm sóc tốt, có thể nuôi được 2 vụ rưỡi/năm với mật độ là 70 con/m2. Quy trình xây dựng hồ cũng khá đơn giản. Chỉ cần xây cao khoảng 1,2 - 1,5m, bốn xung quanh và đáy lát xi măng để luôn đảm bảo nguồn nước. Riêng đáy hồ rải một lớp bùn khoảng 15cm để tránh sây sát cho cá. Cá lóc bông nuôi dạng công nghiệp rất hiếm khi mắc bệnh nhưng nếu nuôi mật độ cao, thì 5 ngày nên cho cá uống thuốc chống nấm và ghẻ một lần. Giữa hai vụ nghỉ ngâm hồ khoảng 5 - 10 ngày, trước khi đưa vào nuôi vụ mới phải vệ sinh hồ sạch sẽ. Trường hợp nguồn nước lấy từ sông ngòi vào không đủ điều kiện nuôi cá, thì có thể dùng bằng nước giếng.
Theo tính toán của ông Đại, để được 1 kilôgam cá lóc thương phẩm bán ra thị trường cần đầu tư khoảng 16 - 18 ngàn đồng để mua giống, thức ăn và công chăm sóc... Nếu cá bán ra mức từ 20 ngàn đồng/kg trở lên, thì người nuôi sẽ có lãi. Nhưng theo một số thương nhân buôn bán cá lóc tại các chợ cho biết, cá lóc luôn được thị trường tiêu dùng ưa chuộng, vì có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng nên đầu ra tương đối ổn định.
Hiện nay ông Đại đang tiến hành xây dựng mới và chuyển dần một số ao nuôi cá trê sang nuôi cá lóc bông theo dạng công nghiệp và tăng dần mật độ lên. Vì theo ông, nuôi cá lóc bông có thể cho lãi gấp 2 - 3 lần so với cá trê. Được biết, mô hình nuôi cá lóc trên hồ nổi của ông Đại đang được Trạm khuyến nông huyện Long Thành chọn nhân rộng và làm điểm đến học tập kinh nghiệm cho nhiều hộ nông dân trong huyện.
Hương Giang
Sông Tiền, sông Hậu oằn mình gánh chịu ô nhiễm
Nguồn tin: VOV, 05/08/2007
Ngày cập nhật: 5/8/2007
Theo Chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây Nam bộ, các nguồn chất thải trong nuôi trồng thuỷ sản ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long hàng năm thải ra 450 triệu mét khối bùn thải và chất thải chưa được xử lý.
Riêng chất thải nuôi cá tra và cá ba sa trên 2 triệu tấn/ năm. Các chất này là do thức ăn dư thừa, thối rữa bị phân huỷ, các chất tồn dư trong sử dụng hoá chất, thuốc kháng sinh, vôi… tạo thành chất độc trong môi trường nước. Đặc biệt, chất thải ao nuôi công nghiệp có chứa trên 45% Nitrogen và 22% chất hữu cơ khác vượt mức cho phép, làm mất cân bằng sinh thái trong nuôi trồng thuỷ sản dẫn đến cá tra, cá ba sa chết hàng loạt trên diện rộng vừa qua ở Đồng bằng Sông Cửu Long.
Dù đang ở mùa mưa, mực nước ở các sông luôn cao nhưng dọc theo bờ kênh Bò Ót, kênh Bà Chiêu, kênh Thắng Lợi 2, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ, mỗi ngày hàng chục máy bơm nước đều chạy hết công suất để kịp đủ nước lấy vào ao nuôi cá tra khi nước ngoài kênh còn đầy, để nguồn nước bị ô nhiễm. Nước bơm vào kênh bê tông được đào âm qua mặt lộ, có chiều dài từ 300 đến 500 mét chảy vào ao nuôi, hoà vào nước trong ao để làm giảm mức ô nhiễm từ nguồn thức ăn dư thừa. Cùng với việc lấy nước vào ao, mỗi hồ đều trang bị thêm một máy bơm được đặt trong ao bơm nước thoát ra dòng kênh. Cứ thế hộ này đưa nước ra, hộ khác bơm nước vào ao nuôi. Tất cả đều cùng chung 1 dòng kênh.
Ông Nguyễn Văn Đệ, ấp Thới Bình A, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt người có thâm niên trong nghề nuôi cá tra cho biết, ấp cho 56 hộ nuôi cá tra, nhưng chỉ có 30% hộ nuôi có ao lắng để xử lí bùn đáy ao, 70% hộ còn lại đều xả thẳng ra kênh. Lúc đó cả dòng kênh Thắng Lợi 2 nước đen ngòm, mùi hôi bốc lên nồng nặc, nhất là vào những ngày nắng gắt. Việc này diễn ra nhiều năm, vẫn không được cơ quan quản lí môi trường nhắc nhở. Ông Đệ bức xúc: “Bà con nuôi thì nước lớn ông này bơm lên, ông kia xả xuống, nước dưới đáy ao bơm ra đen sông luôn, nước dơ dữ lắm. Thực trạng hienẹ nay bà con nuôi rất đông, nhưng rủi ro rất lớn như về môi trường. Vì bệnh dịch đang lan tràn, cá bị bệnh bàng, 10 ao có 7 ao bị nhiễm, nên sợ nhất là bùn đáy ao rút thả ra sông”.
Khảo sát thực tế nhiều của Sở Tài nguyên và Môi trường tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang cho thấy tình trạng ô nhiễm môi trường ở những khu vực nuôi cá tập trung đã đến lúc báo động.
Tại tỉnh đầu nguồn Đồng Tháp, từ thị trấn Hồng Ngự theo tỉnh lộ 814 qua các xã Thường Lạc, Thường Thới Tiền, dọc 2 bên đường ao nuôi cá tra san sát, nhìn xuống ao nước đen ngầu mùi hôi nồng nặc. Tại ấp 5 xã Thường Lạc hàng chục hầm nuôi cá tra nằm cách con sông Sở Thượng 250 mét không nơi dẫn, thoát nước, nên mỗi hộ đều trang bị máy bơm cùng ống cao su đường kính cỡ 4 đến 5 tấc để bơm cấp, thoát nước. Tỉnh An Giang cũng tương tự như tỉnh Đồng Tháp. Không chỉ cá nuôi ở những vùng ven sông lớn, vùng nông thôn mà ngay tại xã Cù Lao Mỹ, Hoà Hưng cặp sát thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cũng bị nạn đào ao nuôi cá tra, làm phá vỡ cảnh quan, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trong khi đó thì dọc sông Tiền, sông Hậu như xã Tân Lộc, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ; xã Tân Lược, Tân Quới, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long… tất cả nước thải ô nhiễm và đáy ao bơm trực tiếp ra sông để ăn uống và sinh hoạt. Nuôi trồng thủy sản ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long đang bộc lộ nhiều vấn đề tồn tại và thiếu bền vững về nhiều mặt, ông Nguyễn Văn Thạnh, Giám đốc sở Thuỷ sản tỉnh An Giang cho biết: “Để ngăn chặn đào ao nuôi cá tự phát theo tôi cần có một giải pháp hữu hiệu đó là quy hoạch lại… Trong quy hoạch này không chỉ tỉnh An Giang, mà còn có vai trò của Bộ Thuỷ sản về quy hoạch chung cho Đồng bằng Sông Cửu Long. Như vậy các tỉnh dựa vào nền chung của Bộ để có điều chủng cho quy hoạch chung củâ từng tỉnh. Trong quy hoạch có đưa ra một số biện pháp và dự án để triển khai cụ thể về quy trình nuôi, cống, ao hầm… làm như vậy nó sẽ tác động lớn đến nghề nuôi theo chiều hướng bền vững, ổn định, phát triển”.
Trong lúc này ở Đồng bằng Sông Cửu Long giá cá tra, cá ba sa vẫn còn đứng ở mức cao, việc phát triển đào ao nuôi cá vẫn còn tiếp diễn. Và câu chuyện về con cá tra luôn là vấn đề thời sự từ nông thôn đến thành thị, trong những buổi tiệc hay trong quán sá bên đường ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Vì rằng, chỉ qua một vài vụ nuôi, trong thời gian ngắn, cá tra đã làm một số nông dân ở vùng nông thôn đã trở thành tỉ phú. Nhiều người sẵn sàng phá bỏ những vườn cây ăn trái chuyên canh đã gầy dựng hàng chục năm để tiếp tục mở rộng diện tích đào ao nuôi cá.
Trong khi đó chính quyền địa phương các tỉnh chỉ đưa ra những quy định chung chung, không có biện pháp chế tài vụ cụ thể xử phạt trường hợp nào gây ô nhiễm môi trường, mặc dù Luật Bảo vệ môi trường đã quy định rõ những hành vi gây ô nhiễm môi trường phải được phát hiện và xử lý nghiêm khắc. Còn lúc này Bộ Thuỷ sản vẫn loay hoay với chuyện quy hoạch vùng nuôi. Và sông Tiền, sông Hậu tiếp tục oằn mình gánh chịu hàng triệu chất thải bị ô nhiễm từ các ao đổ ra mỗi năm. Môi trường nước bị nhiễm đang là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến dịch bệnh làm cá chết hàng loạt. Nếu biện pháp này ngay từ bây giờ không được khắc phục kịp thời, thì người nuôi cá tra, cá ba sa sẽ trắng tay như nuôi tôm sú ào ạt không theo quy định thời gian qua ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long./.
PV
Hội nghị Sơ kết thực hiện đề án nuôi thử nghiệm cá nước lạnh
Nguồn tin: LĐ, 1/8/2007
Ngày cập nhật: 5/8/2007
Ngày 23 tháng 7 năm 2007, tại Văn phòng UBND tỉnh Lâm Đồng - số 4 Trần Hưng Đạo - Đà Lạt - đã diễn ra Hội nghị Sơ kết thực hiện đề án nuôi thử nghiệm cá nước lạnh trên địa bàn tỉnh, Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc và Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Huỳnh Đức Hòa chủ trì hội nghị.
Đến dự Hội nghị gồm có: cán bộ thuộc Bộ Thuỷ sản; Lãnh đạo HĐND, UBND Tỉnh; cán bộ Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thuỷ sản I, III; Lãnh đạo Sở Nông nghiệp & PTNT, Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Tài Chính, Sở Tài nguyên & Môi trường, Sở Khoa học & Công nghệ; Lãnh đạo UBND các huyện Lạc Dương, Lâm Hà, Đơn Dương, Đức Trọng, Bảo Lâm, thị xã Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt; Ngoài ra còn có sự tham gia của một số doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
Hội nghị đã đánh giá kết quả sau hơn một năm thực hiện, đề án đạt kết quả khả quan; thành công bước đầu của đề án đã mở ra hướng phát triển mới cho ngành chăn nuôi thuỷ sản nói riêng và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung. Đây là sự phát triển đúng hướng nhằm tạo ra sản phẩm đặc thù, có giá trị cao trong nuôi trồng thuỷ sản gắn với du lịch dịch vụ; khai thác được tiềm năng, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp, tổ chức, các nhân có năng lực về vốn, kỹ thuật công nghệ… đầu tư phát triển cá nước lạnh; góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp tại những địa phương có lợi thế về nguồn nước, đất đai khí hậu trên địa bàn tỉnh. Đồng thời đưa ra định hướng phát triển trong thời gian tới.
Tại Hội nghị này, UBND tỉnh Lâm Đồng cũng đã trao Bằng khen cho 03 tập thể và 05 cá nhân có thành tích xuất sắc thực hiện đề án cá nước lạnh trên địa bàn Tỉnh.
Công ty TNHH TMDV Diên Khánh tổ chức huấn luyện kỹ thuật nuôi tôm
Nguồn tin: Diên Khánh, 8/2007
Ngày cập nhật: 4/8/2007
Ngày 30/6 - 1/7/2007 công ty TNHH TM - DV DIÊN KHÁNH tổ chức huấn luyện kỹ thuật nuôi tôm cho một số hộ nuôi tôm và kỹ sư kỹ thuật trong trang trại nuôi tôm lớn. Đến huấn luyện có ông SOMSAK Giám đốc chuyên môn từ tập đoàn KASET CENTER THAILAND, ông SARAN Giám đốc kỹ thuật nuôi tôm người Thái lan.
Năm 2006 là năm mà diện tích ao nuôi tôm cũng như sản lượng tôm tăng nhiều hơn những năm trước đây. Các sản phẩm dịch vụ theo nghề như: ăn uống, thuốc phòng và trị bệnh, các vitamin, chất bổ sung cho tôm của các công ty khác nói chung và công ty DIÊN KHÁNH nói riêng cũng tăng lên đáng kể. Bên cạnh việc huấn luyện chuyển giao kỹ thuật của các chuyên gia nuôi tôm người Thai Lan, công ty cũng tổ chức trên 30 lượt hội thảo lớn tại các vùng nuôi tôm trọng điểm trong sáu tháng đầu năm 2007 và hạng loạt các buổi diễn thuyết kỹ thuật nuôi tôm đầu bờ trực tiếp bằng các phương tiện trang thiết bị hiện đại đến từ Thái Lan như: xét nghiệm miễn phí bệnh đốm trắng, bệnh còi MBV, định kỳ xem xét sức khoẻ tôm nuôi, kiểm tra và dự báo giúp bà con nuôi tôm trên từng vùng khác nhau, phòng các bệnh và dự đoán các loại ô nhiễm lây lan từ nguồn nước ao nuôi và ngăn chặn kịp thời các nguyên nhân xảy ra dịch bệnh hàng loạt.
Sắp tới đây công ty sẽ đa dạng hoá sản phẩm thêm và đưa ra một loại thức ăn tôm cao cấp KASETFEED. KASET FEED là loại thức ăn đã được nghiên cứu và thử nghiệm thành công trong nhiều vụ nuôi tôm tại Thái lan cũng như các nước khác. Các chuyên gia KASET CENTER THAILAND sẽ chuyển giao đến bà con, thức ăn được sản xuất theo công nghệ mới hấp chín bằng nhiệt độ hơi nước, có độ ổn định cao, phù hợp với tốc độ bắt mồi của tôm, giúp tôm tiêu hoá nhanh, phát triển tốt.
Các chuyên gia của tập đoàn KASET CENTER THAILAND cũng như các kỹ sư nuôi tôm của công ty DIÊN KHÁNH cho biết thêm: Thức ăn nuôi tôm tăng trọng KASET FEED là loại thức ăn có chất lượng phù hợp cho từng mật độ nuôi tôm và đặc biệt có nguồn dinh dưỡng đáp ứng được sự tăng trọng nhanh của tôm.
Bên cạnh các sản phẩm có chất lượng, công ty cũng đã sẵn sàng hơn 40 kỹ sư nuôi tôm làm việc ở các vùng nuôi tôm và trực tiếp đến hỗ trợ kỹ thuật nuôi tôm ở tận ao nuôi của bà con.
Được biết thương hiệu thức ăn nuôi tôm tăng trọng KASET FEED sẽ được đưa vào thị trường nuôi tôm Việt Nam vào trung tuần tháng 8/2007
LAM PHƯƠNG
Bán đảo Cà Mau: Đổ xô khai thác tôm sú “non”
Nguồn tin: SGGP, 03/08/2007
Ngày cập nhật: 4/8/2007
Đầu tháng 8-2007, các bệnh đốm trắng, đen mang và mòn đuôi tôm xảy ra mạnh ở 21.618ha nuôi tôm các huyện Phú Tân, Năm Căn, Đầm Dơi, Cái Nước, Trần Văn Thời (Cà Mau), chiếm 8,7% diện tích nuôi tôm toàn tỉnh.
Nguyên nhân do ảnh hưởng mưa nhiều làm cho những yếu tố môi trường biến đổi liên tục, đồng thời chất lượng con giống thấp kém, không sạch bệnh dẫn đến xuất hiện nhiều loại bệnh lây lan ở tôm nuôi.
Tình trạng tôm nuôi ở bán đảo Cà Mau bệnh, chết diễn ra trên diện rộng và đang có chiều hướng gia tăng. Hiện nông dân đổ xô khai thác tôm sú “non” kích cỡ nhỏ để bán vì sợ tôm bị nhiễm bệnh bất chấp giá bán ra thấp.
Cao – Tấn
Cá linh “giả”
Nguồn tin: BCT, 1/8/2007
Ngày cập nhật: 4/8/2007
Mặc dù chưa đến mùa lũ, nhưng từ đầu tháng 7 tới nay tại nhiều chợ ở TP Cao Lãnh (Đồng Tháp) đã có bán “cá linh” non với giá 55.000- 60.000 đồng/kg. Thoạt đầu, nhiều người lầm tưởng năm nay cá linh non có sớm. Song, sau vài ngày, một số bà nội trợ phát hiện “cá linh” được bán ở chợ là... cá linh giả! Theo nhiều người dân, đó chính là cá duồng con được các cơ sở ép cá giống ươm ra để bán với giá cao (do lúc cá duồng còn nhỏ rất giống cá linh non).
Chị Nguyễn Thị Ngọc ở phường 1, TP. Cao Lãnh đã mua “cá linh” non về ăn, cho biết : “ Cả nhà tôi rất thích ăn cá linh. Thấy ở chợ có bán “cá linh” non nên mua về chế biến thức ăn. Nhưng khi ăn thấy cá không được ngon như mọi khi...”. Còn Nga, một thợ nấu quán ăn có tiếng tại TP Cao Lãnh, bức xúc nói: “Hàng ngày đi chợ, thấy có bán các loại đặc sản đầu mùa là tôi mua ngay, dù giá khá cao, vì muốn quán mình luôn có các món ăn mới, ngon. Vừa qua, tôi cũng có mua cá “linh non” ở chợ về chế biến món ăn phục vụ cho khách. Thế nhưng, khi làm cá, nhìn kỹ không giống cá linh non: cá có đuôi màu đen, mình cá không được tròn như cá linh, vẩy có màu đen... Hỏi những người xung quanh, họ cho rằng đây không phải cá linh non. Là người nội trợ nhiều năm trong nghề mà tôi còn bị mắc lừa, không phân biệt được cá linh non thật hay cá linh non giả “.
Một số người đóng đáy ngang sông ở huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp) cho biết, thông thường vào khoảng tháng 8, khi mùa nước nổi bắt đầu mới xuất hiện cá linh non, cá thường xuôi theo dòng nước lũ từ thượng nguồn sông Mê Công đổ về sông Tiền, sông Hậu. Cá linh đầu mùa bán rất chạy, giá cao vì nhiều người thích ăn. Tuy nhiên, nhiều người dân nơi đây lấy làm ngạc nhiên khi chưa đến mùa lũ mà tại các chợ đã thấy có bán “cá linh” non.
Sự thật về “cá linh” non được ông Huỳnh Minh Tùng, Trưởng Ban Quản lý chợ TP Cao Lãnh, cho biết: “Các tiểu thương cũng thừa nhận đó chính là cá duồng con. Ngay từ buổi chợ đầu tiên có bán “cá linh” non, chúng tôi đã phát hiện nó là loại cá duồng con được một số cơ sở ép cá giống tại huyện Hồng Ngự ương ra và vận chuyển về cho các tiểu thương ở chợ TP. Cao Lãnh bằng cách để cá vào bọc nilon rồi bơm oxy vào để cá không chết”. Ông Tùng còn cho biết, buổi đầu chợ cá duồng con bán với giá 80.000 đồng/kg (cá làm sẵn ) vì người mua lầm tưởng là “cá linh” non. Tuy nhiên, những ngày qua cá duồng con giảm giá liên tục, do nhiều người tiêu dùng phát hiện được sự thật. Mặc dù cá “linh non” được bán ở chợ TP Cao Lãnh thời gian gần đây là cá giả, nhưng do việc mua bán từ sự thỏa thuận giữa người mua và người bán, cũng như chưa có trường hợp nào phản ánh đến Ban Quản lý chơ, nên không có cơ sở xử lý về việc gian lận trong thương mại. Ông Tùng cho biết thêm: “Đây là năm đầu tiên một số cơ sở ép cá giống lợi dụng vào đặc điểm giống nhau giữa cá duồng con và cá linh khi con nhỏ, đã ương cá duồng con đem bán để đánh lừa người mua nhằm thu lợi cho mình”.
Hiện nay, giá cá duồng con đã giảm mạnh, chỉ còn trên dưới 30.000 đồng/kg, thậm chí việc mua bán trở nên ế ẩm.
NGỌC TÂM
Bến Tre: giá tôm tăng gần gấp đôi so với mùa vụ năm ngoái
Nguồn tin: Vasep, 2/8/2007
Ngày cập nhật: 3/8/2007
Nông dân huyện Thạnh Phú, Bến Tre đang vào mùa vụ thu hoạch tôm sú. Năng suất tôm nuôi năm nay đạt cao hơn năm trước. Tôm nuôi quảng canh đạt từ 400-500 kg/ha. Tôm nuôi công nghiệp đạt từ 6-7 tấn/ha. Giá thu mua loại tôm từ 35-40 con/kg là 85.000-100.000 đ/kg; loại 25-30 con/kg là từ 120.000-130.000 đ/kg. So với mùa vụ năm ngoái, giá tôm tăng gần gấp đôi.
Phan Lữ Hoàng Hà
Bến Tre: cá bống tượng tăng 30.000 đồng/kg
Nguồn tin: Vasep, 2/8/2007
Ngày cập nhật: 3/8/2007
Tại cơ sở thu mua cá bống tượng Hải Vân, xã An Thuận, huyện Thạnh Phú, giá cá thu mua lên đến 360.000 đồng/kg cá loại I (cá đạt trọng lượng 0,5 kg/con trở lên); 350.000 đồng/kg cá loại II (cá trọng lượng từ 0,4 kg/con đến dưới 0,5 kg/con); và 200.000 đồng/kg cá trọng lượng từ 0,2 kg/con đến 0,3 kg/con. So với thời điểm đầu năm 2007, cá bống tượng tăng giá 30.000 đồng/kg. Cá bống tượng ăn rất ngon, là đặc sản được các nhà hàng lớn trong nước và nước ngoài ưa chuộng.
Cao Dương
Bến Tre: Sông Ba Lai đang bị lấp dần do phong trào nuôi cá da trơn
Nguồn tin: Bến Tre TV, 3/8/2007
Ngày cập nhật: 3/8/2007
Trước tình trạng tự phát đào ao nuôi cá da trơn ven sông Ba Lai, tác động bất lợi đến môi trường sống của cộng đồng, trong tháng 6/2007, UBND tỉnh Bến Tre đã ban hành các Chỉ thị số 13 và 14 nhằm chấn chỉnh công tác này. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng các cơ sở nuôi thủy sản vi phạm chỉ thị của UBND tỉnh vẫn chưa dừng lại.
Trong vai những người đi thuê đất nuôi cá, chúng tôi mới tiếp cận được khu vực có nhiều cơ sở đang xây dựng ao nuôi mới. Tại mỗi vuông đất đều có hàng chục chiếc máy bơm đang chạy hết công suất để hút bùn, đào đất. Mỗi máy đều có hệ thống ống dẫn trực tiếp, chuyển bùn đất ra sông Ba Lai, vừa tiện lợi, vừa không tốn diện tích mặt bằng làm bãi chứa. Các chủ cơ sở đều biết rằng, lấp sông là hành động vi phạm pháp luật nên đã lẩn tránh khi có đoàn kiểm tra. Bởi vậy, nhiều lần, các đoàn công tác của tỉnh đều không phát hiện các cơ sở này bơm bùn đất ra sông trong quá trình đào ao. Ngoài việc đổ bỏ một khối lượng lớn bùn đất, cản trở dòng chảy tự nhiên của sông Ba Lai, nguồn nước xả thải từ các ao nuôi thủy sản đang ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng đến nguồn nước sản xuất và sinh hoạt của người dân xung quanh. Người dân đã nhiều lần lên tiếng kêu cứu nhưng hậu quả chưa được khắc phục, còn chính quyền địa phương thì đành bó tay vì vượt phạm vi thẩm quyền cấp xã. Theo Nghị định 80/CP của Chính phủ và Thông tư 08 của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì, đối với các cơ sở nuôi thủy sản có quy mô mặt nước từ 10 ha trở lên, chủ dự án phải lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường và được UBND tỉnh phê duyệt; trường hợp diện tích ao nuôi dưới 10 ha thì chủ cơ sở phải làm giấy cam kết bảo vệ môi trường, được UBND cấp huyện xác nhận. Tuy nhiên, phần lớn các cơ sở đều chưa tiến hành thủ tục này, ngay cả việc chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất nuôi thủy sản cũng không được chấp hành tốt. Để nuôi cá công nghiệp với mật độ cao, các ao nuôi đều thiết kế độ sâu trung bình khoảng 3 m so với mặt nước biển. Như vậy, cứ một ha mặt nước ao nuôi sẽ có khoảng 3.000 m3 bùn đất đào lên và được giải quyết bằng cách đổ thẳng ra sông Ba Lai. Theo thống kê sơ bộ, dọc sông Ba Lai thuộc các huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri và Bình Đại hiện có khoảng 200 ha mặt nước đã và đang được xây dựng ao nuôi thì cũng đã và đang có một khối lượng bùn đất khổng lồ được đổ ra sông Ba Lai. Tương lai không xa, sông Ba Lai sẽ cạn dần nếu làn sóng đào ao thả cá cứ tiếp diễn. Trong khi tỉnh Bến Tre đang chắt chiu từng đồng vốn ngân sách để thực hiện Dự án nạo vét sông Ba Lai, biến nơi đây thành hồ chứa nước ngọt, cung cấp nước sản xuất và sinh hoạt cho hơn nửa triệu dân trong tỉnh, thì các doanh nghiệp nuôi thủy sản trong và ngoài tỉnh vì lợi ích kinh tế trước mắt đang sẵn sàng lấp sông Ba Lai – thực tế báo động này cần được sự ra tay kịp thời của các cấp chính quyền và các ngành chức năng.
Đồng Tháp: Người nuôi cá tra khổ vì nạn trộm cá
Nguồn tin: NLĐ, 02/08/2007
Ngày cập nhật: 2/8/2007
Gần một tháng nay, trên vùng đất bãi bồi nằm ven sông Tiền và sông Hậu thuộc địa bàn các huyện Lấp Vò và Lai Vung (tỉnh Đồng Tháp) xảy ra hàng chục vụ trộm cắp cá tra, gây bức xúc cho người dân nuôi cá. Bọn trộm ở địa phương và từ huyện Thốt Nốt (Cần Thơ) sang, dùng lưới đánh bắt trộm cá tra vào ban đêm.
Mặc dù nhiều chủ nuôi cá biết, đã rượt đuổi hoặc la lên cho chúng bỏ chạy, nhưng cũng không dám ra tay vì sợ bị trả thù bằng cách thả hóa chất hoặc thuốc độc hại làm ảnh hưởng đến ao nuôi cá.
Ngày 31-7-2007, ông Nguyễn Tấn Nhã, Phó Chủ tịch UBND huyện Lai Vung đã báo cáo lãnh đạo UBND tỉnh khi kiểm tra tình hình kinh tế-xã hội vùng Sa Đéc về tình trạng trộm cá tra diễn biến phức tạp trên địa bàn, gây ảnh hưởng đến người sản xuất.
Mỗi nhóm có từ 3-6 tên trộm, chúng ngang nhiên hoạt động từ 20 giờ tối đến 3 giờ sáng. Bọn trộm rất táo bạo, sử dụng lưới gân, dạo 5 mét, chiều dài từ 30-50 mét, mắt lưới có kích cỡ 10 cm, là loại lưới đánh bắt cá to từ 1 kg trở lên. Chúng thả lưới xuống ao nuôi và chỉ kéo qua là cá tra trong ao dính lưới hàng trăm con. Sau đó, chúng đưa cá lên tàu hoặc thuyền gần đó trong tư thế sẵn sàng nổ máy chạy mất.
12 hộ nuôi cá tra thịt ven bờ sông Tiền thuộc địa phận ấp Tân Bình, xã Tân Khánh Trung, huyến Lấp Vò, đều bị kẻ trộm vào bắt cá. Bình quân mỗi đêm, các hộ khu vực này bị bọn trộm bắt cá, thiệt hại từ 3-5 triệu đồng. Do giá cá tra hiện nay tăng lên gần 14.000 đồng/kg, nên bọn trộm càng ngày càng hoành hành.
Theo TTXVN
Thị trường tôm sú giống đồng bằng sông Cửu Long: Chất lượng bấp bênh
Nguồn tin: CT, 1/8/2007
Ngày cập nhật: 2/8/2007
Thời gian qua, diện tích nuôi tôm sú của khu vực ĐBSCL không ngừng phát triển. Tuy nhiên, phần lớn các cơ sở sản xuất tôm giống tại địa phương có quy mô nhỏ, xây dựng tự phát nên chưa thực hiện các quy trình sản xuất tôm giống sạch bệnh. Công tác kiểm tra phát hiện, xử lý tôm giống nhập tỉnh cũng còn nhiều bất cập. Do vậy, chất lượng tôm giống vẫn còn là nỗi lo của người dân.
THẢ NỔI VIỆC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG?
Theo Sở Thủy sản Bạc Liêu, cứ vào vụ nuôi tôm, nhu cầu tôm sú giống tăng nên giá cả cũng tăng theo. Hiện tôm sú giống sản xuất tại địa phương giá 40-50 đồng/con, cao hơn 5-10 đồng/con so với vụ trước; tôm sú nhập từ các tỉnh miền Trung kích cỡ nhỏ hơn nhưng được bán cùng giá. Hàng năm, Bạc Liêu cần trên 10 tỉ con tôm sú giống, nhưng năng lực sản xuất của khoảng 700 cơ sở sản xuất, kinh doanh giống tôm trên địa bàn tỉnh chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu. Còn lại, 60% lượng tôm sú giống từ nơi khác chở đến tiêu thụ. Kiên Giang có 31 cơ sở sản xuất tôm giống và 200 cơ sở ương vèo, song mới đáp ứng khả năng cung cấp con giống cho người nuôi khoảng 600 triệu con post/năm, tương đương 20% nhu cầu trong tỉnh. Số còn lại phải nhập từ nơi khác. Tôm sú giống hiện có giá bán 35-40 đồng/con post.
Từ đầu năm đến nay kết quả xét nghiệm trên 7.000 mẫu tôm tại Trung tâm Giống Thủy sản tỉnh Bạc Liêu cho thấy, tỷ lệ tôm giống mắc bệnh nguy hiểm khá cao. Có trên 3.000 mẫu tôm (khoảng 50%) bị nhiễm vi rút MBV (bệnh còi) và vi rút bệnh đầu vàng. Riêng tỷ lệ tôm giống nhiễm vi rút đốm trắng từ 7-9%. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do nhiều cơ sở sản xuất giống tại địa phương chưa thực hiện đầy đủ quy trình sản xuất tôm giống sạch bệnh, nên chất lượng con giống chưa cao; công tác kiểm dịch tôm giống nhập tỉnh chưa được chặt chẽ, vẫn còn nhiều trường hợp xe chở tôm vượt trạm... Mặc dù ngành thủy sản Kiên Giang đã kiểm tra được 70% lượng tôm giống nhập tỉnh (khoảng 2,1 tỉ con), nhưng tôm giống kém chất lượng, bán trôi nổi vẫn còn xuất hiện. Theo Chi cục Bảo vệ Nguồn lợi thủy sản - Sở Thủy sản Trà Vinh, từ đầu vụ nuôi tôm sú năm 2007 đến nay, nông dân trong tỉnh đã thả nuôi hơn 1,43 tỉ con tôm sú giống. Tuy nhiên, các trạm kiểm dịch của chi cục chỉ mới thực hiện kiểm dịch được 282 triệu con tôm giống, số lượng tôm giống nhập vào tỉnh chưa qua kiểm dịch chiếm tới 80,28%.
Vì vậy, nhiều hộ nuôi tôm mua nhầm tôm giống kém chất lượng, sau thời gian nuôi tôm chết hàng loạt. Ông Đàm Minh Chiếu, ở phường 2 thị xã Bạc Liêu, cho biết: “Tới vụ thả nuôi, tôi đến cơ sở giống khu vực Nhà Mát mua tôm sú giống về nuôi. Cơ sở nói lô tôm sú này được xét nghiệm đảm bảo sạch bệnh. Nhưng khi thả nuôi gần một tháng sau, tỷ lệ tôm chết trên 70% do bị bệnh còi, bệnh đốm trắng. Suốt 3 năm nay, tính cả gốc lẫn lãi tôi nợ ngân hàng trên 90 triệu đồng. Hiện tại gia đình tôi không có khả năng trả nợ, vì tôm chết liên tục trong mấy vụ liền. Tôi đã kêu giá bán miếng đất cạnh nhà gần 3 năm nay để có tiền trả cho ngân hàng nhưng chẳng thấy ai mua”. Đến nay, toàn tỉnh Trà Vinh có 284,3 triệu con tôm giống thả nuôi bị thiệt hại, chiếm 19,88% tổng số giống thả nuôi, phần lớn đều bị nhiễm các bệnh đốm trắng, đỏ thân và đầu vàng... Do đó đã làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng tôm thương phẩm phục vụ chế biến xuất khẩu.
NGƯỜI NUÔI GÁNH NẶNG RỦI RO
Ông Phan Trường Giang, Giám đốc Sở Thủy sản tỉnh Bạc Liêu, cho biết: Phần lớn các trại giống xây dựng với quy mô nhỏ, trang thiết bị chưa đáp ứng tiêu chuẩn ngành. Việc ứng dụng quy trình sản xuất tôm giống chất lượng cao chưa được phổ biến. Do các cơ sở kinh doanh giống tập trung ở phường Nhà Mát (TX Bạc Liêu) và thị trấn Gành Hào (huyện Đông Hải) được xây dựng tự phát, không theo quy hoạch ngành... nên chất lượng tôm giống còn nhiều hạn chế. Việc công bố chất lượng tôm giống, cũng như khai báo kiểm dịch trước khi xuất bán chưa được các cơ sở sản xuất tôm giống thực hiện nghiêm. Bên cạnh đó, tôm sú giống nhập tỉnh nhiều nhưng công tác kiểm tra chất lượng, kiểm dịch và xử lý tôm giống nhiễm bệnh còn nhiều hạn chế bất cập... Từ đầu năm 2007 đến nay, ngành thủy sản Bạc Liêu đã kiểm tra gần 600 xe tôm nhập tỉnh, với trên 300 triệu tôm sú giống, trong đó, phát hiện hàng chục triệu tôm giống không đạt chất lượng. Tuy nhiên, địa phương còn nhiều lúng túng, bất cập trong việc xử lý tôm giống nhập tỉnh không đạt chất lượng. Theo Chi cục Quản lý Chất lượng An toàn Vệ sinh và Thú y thủy sản, thông thường, tôm giống nhập tỉnh có giấy chứng nhận đạt chất lượng nơi xuất xứ. Khi nhập vào Bạc Liêu, địa phương xét nghiệm thấy bị bệnh còi, đỏ thân, đốm trắng... chỉ giữ lại và trả về địa phương, chứ chưa mạnh dạn xử lý theo quy định. Vì các phương tiện xét nghiệm của ngành thủy sản địa phương chưa đáp ứng yêu cầu. Thời gian qua, chỉ trường hợp tôm nhập tỉnh chưa đạt kích cỡ, ngành chức năng yêu cầu chủ tôm thuần dưỡng cho đạt chất lượng mới xuất bán. Bên cạnh đó, quy định về tiêu chuẩn của ngành, quy trình kiểm dịch chậm được sửa đổi, bổ sung, công tác phối hợp trong nội bộ ngành và cac cơ quan chức năng chưa chặt chẽ nên trong quá trình thực hiện còn nhiều lúng tung.
Một bất cập khác, dù tỷ lệ chất lượng tôm giống chưa cao nhưng chi phí xét nghiệm tôm giống rất cao. Mỗi mẫu tôm xét nghiệm hiện với giá 170.000 đồng. Để chọn lựa được mẫu tôm sạch bệnh, ngư dân phải chọn vài mẫu xét nghiệm mới có con tôm giống đạt tiêu chuẩn, nên chi phí này trở thành gánh nặng cho nhiều nông dân. Đó chưa kể đến chi phí xét nghiệm mẫu nước cũng cao không kém.
Để quản lý chất lượng tôm giống, thời gian tới, ngành thủy sản Bạc Liêu sẽ tăng cường kiểm tra, kiểm dịch chất lượng tôm giống. Hướng dẫn các cơ sở sản xuất con giống sản xuất theo quy trình sạch bệnh, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Trang bị máy móc, phương tiện hiện đại kiểm tra xử lý tôm nhập tỉnh chưa đạt chất lượng. Bên cạnh đó, tỉnh quy hoạch vùng sản xuất tôm giống tập trung, có chính sách hỗ trợ kỹ thuật, vốn... cho cơ sở đầu tư sản xuất giống với quy mô lớn. Tại Trà Vinh, UBND tỉnh này đã dành ngân sách đầu tư gần 1 tỉ đồng cho Chi cục Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản mua sắm trang thiết bị máy PCR để kiểm tra các bệnh trên tôm sú và trại trữ tôm giống bị nhiễm bệnh. Những cố gắng đó nhằm quản lý chặt hơn nguồn tôm giống xuất - nhập tỉnh, hạn chế rủi ro cho người nuôi tôm.
NHÓM PV
Bạc Liêu: Bất lực trước “nghêu tặc”
Nguồn tin: SGGP, 1/8/2007
Ngày cập nhật: 1/8/2007
Sáng 31-7, UBND huyện Hòa Bình (Bạc Liêu) cho biết: Chính quyền địa phương đang bất lực trước nạn “nghêu tặc” diễn ra trong hơn tuần qua với ít nhất 300 nguời từ địa phương khác đến đây mỗi ngày để khai thác nghêu giống trái phép. Tình trạng này diễn ra trong nhiều năm nay, vào mùa nghêu sinh sản, gây thiệt hại không nhỏ cho địa phương. Được biết, UBND tỉnh Bạc Liêu đã cấp phép cho ba hợp tác xã: Vĩnh Hậu, Thành Công (xã Vĩnh Hậu A); Đồng Tiến (xã Vĩnh Thịnh) tổ chức nuôi và khai thác nghêu thương phẩm trên bãi nghêu rộng trên 3.000ha này.
Cao Phong - Thế Đạt
Sông Cầu (Phú Yên): Tìm hướng phát triển nghề nuôi rong sụn
Nguồn tin: PY, 1/8/2007
Ngày cập nhật: 1/8/2007
Sáng 31/7, huyện Sông Cầu tổ chức hội nghị tổng kết nghề nuôi rong biển giai đoạn 2004-2007.
Đến nay, huyện Sông Cầu đã có 240ha nuôi rong sụn, sản lượng rong biển thương phẩm đạt trên 200 tấn khô/năm. Đây là một nghề mới mang lại hiệu quả kinh tế khá cho người dân ven biển.
Tại hội nghị, hầu hết các ý kiến cho rằng cây rong biển có khả năng phát triển mạnh ở Sông Cầu. Tuy nhiên, để làm được điều này, huyện cần phối hợp các ngành chức năng quy hoạch vùng nuôi, có cơ quan đầu mối hướng dẫn kỹ thuật cho dân từ khâu chọn giống đến chăm sóc, thu hoạch...
LÊ BIẾT
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.