Sản lượng tôm nuôi tăng 33,3% so với năm 2006
Nguồn tin: BĐ, 10/10/2007
Ngày cập nhật: 11/10/2007
Năm 2007, tỉnh Bình Định đã thả nuôi 2.359 ha tôm ở cả 2 vụ, tương đương diện tích thả nuôi năm 2006. Đến nay, diện tích tôm nuôi cả 2 vụ đã thu hoạch xong, với tổng sản lượng đạt trên 2.400 tấn, tăng 33,3% so với sản lượng năm 2006. Các địa phương có năng suất tôm nuôi đạt cao là: Phù Mỹ (đạt 3,65 tấn/ha), Hoài Nhơn (3 tấn/ha); cá biệt một số ao nuôi tôm trên cát ở Phù Mỹ và Công Lương (Hoài Nhơn) năng suất đạt trên 10 tấn/ha.
Ngoài ra, thực hiện chủ trương đa dạng hóa đối tượng nuôi trồng, nhiều vùng nuôi tôm thường xuyên xảy ra dịch bệnh ở các huyện Tuy Phước, Phù Mỹ, Quy Nhơn đã chuyển sang nuôi các đối tượng thủy sản khác. Đến nay, toàn tỉnh đã có 1.405 ha mặt nước nuôi cá, cua, hàu và các loài nhuyễn thể khác với hình thức nuôi xen, nuôi chuyên, kết hợp.
Ngọc Thái
Cẩm Xuyên, Thạch Hà (Hà Tĩnh): “Chết” một dự án “tái sinh vùng đất chết”
Nguồn tin: KTVN, 10/10/2007
Ngày cập nhật: 11/10/2007
Đã bao đời nay trên 5.000 ha cát trắng ven biển hai huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà (Hà Tĩnh) vẫn "trơ gan" cùng nắng lửa, gió Lào.
Đầu năm 2003, một Việt kiều từ Mỹ về ôm mộng "tái sinh vùng đất chết" bằng dự án nuôi tôm trên cát. Dân nghèo của tỉnh nghèo mừng, tưởng sẽ được đổi đời... Ai ngờ, sau gần 5 năm dự án "chết" trên vùng "đất chết"!.
Cho tới giờ, đã qua 4 năm 8 tháng người dân vùng biển hai huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà vẫn còn nhớ như in ngày khởi công "công trường" nuôi tôm công nghiệp trên cát của Công ty Công nghệ Việt-Mỹ.
Ngày đó, 15/2/2003 trống dong, cờ mở, có đủ mặt quan khách các huyện về, tỉnh xuống, dân thì... đông như trẩy hội. Tại buổi lễ, Giám đốc Công ty, ông Đinh Đức Hữu dõng dạc tuyên bố: "Dự án đầu tư nuôi trồng, chế biến thuỷ sản và du lịch biển 19/5 tại Hà Tĩnh thực sự là một dự án lớn, không những về qui mô mà còn mang một ý nghĩa kinh tế - chính trị - xã hội sâu sắc đối với một tỉnh nghèo miền Trung".
Vẽ bức tranh xa rời thực tế
Dự án nuôi tôm Việt-Mỹ có nguồn vốn đầu tư 750 tỷ đồng, thời gian thực hiện 5 năm: 2003-2008. Với diện tích qui hoạch 2.000 ha, chạy dọc ven biển 5 xã thuộc 2 huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên.
Trước khi bắt tay vào thực hiện, công ty đã dựng lên một mô hình rất hoành tráng, dự án nuôi tôm công nghiệp khép kín từ A đến Z, gồm các khu: nuôi tôm giống, cá giống có công suất 200 triệu con/ năm; khu chế biến thức ăn tôm, cá; khu nuôi trồng công nghiệp; khu chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
Chưa hết, tại đây còn có cả một quần thể du lịch sinh thái biển và trung tâm ứng dụng công nghệ thông tin - thương mại điện tử quốc tế. Với dự án nuôi tôm trên cát, vùng "đất chết" không chỉ hồi sinh mà còn trở nên giàu có. 20.000 lao động sẽ có công ăn việc làm, với mức thu nhập 1 triệu đồng/ người/tháng.
Quy hoạch là vậy, nhưng không phải một lúc Hà Tĩnh bàn giao luôn 2.000 ha đất cho chủ đầu tư. Mà theo ông Nguyễn Doãn Sáng, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, dự án làm đến đâu tỉnh bàn giao đất đến đó.
Năm 2003 tỉnh cấp giấy quyền sử dụng đất cho 344,52 ha, công ty đã chính thức đưa vào sử dụng 300 ha, trong đó có 180 ao nuôi tôm (tương đương 200 ha), số diện tích còn lại được dùng làm hồ chứa và xử lý nước, trạm bơm điện; kênh mương cấp, thoát nước và hệ thống đường nội đồng... Sau hơn 3 tháng thi công, ngày 19/5/2003 hơn 300 triệu con tôm sú đã được thả xuống ao, mang theo niềm hi vọng lớn của chủ dự án và cả người nuôi trồng.
Tuy vậy, thực tế lại phũ phàng, không như ý muốn chủ quan của con người. Hai năm đầu đi vào thực hiện dự án, công ty gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Trước hết, do không có kinh nghiệm, công ty đã thả toàn bộ tôm sú xuống ao, do thiếu nguồn nước ngọt nên con tôm không thể phát triển, càng nuôi càng teo tóp lại. Do đó năng suất thấp, sản lượng kém..., dẫn đến thua lỗ đậm.
Kế hoạch năm 2003 đặt ra mức doanh thu khoảng 30-35 tỷ đồng, nhưng thực tế chỉ đạt 50% (16 tỷ đồng). Năm 2004 còn tệ hại hơn, chỉ đạt doanh thu 14 tỷ đồng/kế hoạch 30 tỷ đồng.
Rút kinh nghiệm thất bại, năm 2005 công ty chuyển từ công nghệ nuôi tôm sú sang công nghệ nuôi tôm he chân trắng. Rất đáng tiếc, mọi sự cố gắng của công ty vẫn không cứu vãn được tình thế. Năm 2005 dự kiến doanh thu 45 tỷ và năm 2006 dự kiến 60 tỷ đồng, nhưng không có năm nào vươn tới con số dự kiến. Thua lỗ triền miên.
Mùa hè năm 2007 về lại "công trường" nuôi tôm Việt-Mỹ như đi giữa cánh đồng hoang, tuyệt nhiên không một bóng người. Chỉ có những thửa tôm trống trải, vài căn nhà lá đứng sững sờ giữa bãi cát trắng trưa hè. Đồng tôm không người, tìm vào "đại bản doanh" của dự án. Đi khắp trụ sở chỉ có 3 người, chức vụ cao nhất là ông bảo vệ. Ông nói mà như xua đuổi khách: "Các sếp đi vắng hết, muốn gặp mấy ngày nữa xin mời các anh trở lại"(!).
Hậu họa lại nhà nông gánh chịu!
Ông Nguyễn Doãn Sáng cho biết, tính đến hết tháng 7/2007 Sở Tài nguyên và Môi trường đã phải thu hồi 288/344,52 ha đất của dự án. Nguyên nhân là do đất không sử dụng trong một thời gian dài. Thời gian sắp tới, số diện tích đất còn lại của dự án (56,52ha) nếu không có hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ thu hồi nốt!
Vẫn theo ông Sáng, Công ty Công nghệ Việt-Mỹ, không có năng lực tài chính, thể hiện qua việc đền bù đất, giải phóng mặt bằng, không chấp hành nghiêm túc việc nộp phí nước thải. Theo một cán bộ của công ty, tính đến năm 2005 đã đầu tư vào dự án gần 200 tỷ đồng, trong đó vay ngân hàng 18 tỷ. Hai năm nay việc đầu tư vào dự án lịm dần, nợ các ngân hàng tăng thêm, chỉ riêng một Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Tĩnh còn 9 tỷ đồng.
Ông Bùi Tùng Phong, Giám đốc Sở Thuỷ sản Hà Tĩnh thì cho rằng: "Đây là một dự án có nhiều ước mơ, nhưng điều kiện ít. ý định thì lớn mà trình độ lại kém. Dự án này thất bại là điều không tránh khỏi"!
Là người trong nghề ông Phong nêu dẫn chứng, để đáp ứng nhu cầu nước ngọt cho 1 ha tôm nuôi trên vùng đất cát cần 16.000- 27.000 m3/vụ. Nếu thay nước nhiều lần cần số lượng gấp đôi. Để 2.000 ha trở thành cánh đồng tôm 2 vụ/năm phải cần tới 100 triệu m3 nước ngọt. Lấy đâu ra "hồ" nước này, khi vùng biển Hà Tĩnh luôn ở trong tình trạng khát nước ngọt cho người, gia súc và cây trồng?
Ngay từ đợt thu hoạch tôm đầu tiên (9/2003) công ty này đã khai thác tài nguyên nước trái phép với 35 giếng khoan, độ sâu 20-30 mét gây sụt, lún, trượt lở đất. Năm 2005, chuyển đổi từ công nghệ nuôi tôm sú sang công nghệ nuôi tôm he chân trắng sử dụng nước biển hoàn toàn, công ty lại chuyển từ sai lầm này sang sai lầm khác.
Do hệ thống xử lý nước thải kém, kênh cấp, thoát nước, bờ bao được trải bằng tấm vải chống thấm nhưng bị rách, thủng nhiều chỗ không được thay thế, do đó nước mặn thấm vào đất, gây nhiễm mặn đất và nước ngầm, gây ô nhiễm môi trường, làm chết cây cối, hoa màu, ngấm cả vào giếng nước ăn của dân quanh vùng nuôi tôm.
Từ năm 2005, nhiều hộ dân ở xã Thạch Trị (Thạch Hà) đã phải kêu cứu lên huyện, lên tỉnh; phải đi xa vài cây số gánh nước về ăn. Dự án "chết", Công ty Công nghệ Việt-Mỹ rồi sẽ "nhổ neo", còn hậu hoạ ô nhiễm môi trường nhà nông gánh không biết đến bao giờ?
Hồ Khánh Thiện
Nuôi lươn mùa nước nổi
Nguồn tin: NNVN, 09/10/2007
Ngày cập nhật: 10/10/2007
Bình Chánh là một trong 5 xã vùng sâu của huyện Châu Phú (An Giang). Mỗi khi mùa nước nổi về người dân lại tất bật làm bồn nuôi lươn.
Anh Phan Thanh Cảnh, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Chánh cho biết: Mùa lũ năm 2007, toàn xã có 46 hộ nuôi lươn trong bồn đất lót tấm bạt ni- lông (so với năm trước tăng gấp đôi), diện tích 630 m2, thả nuôi 2.175 kg lươn giống. Đây là mô hình vừa dễ làm, nhẹ vốn đầu tư, nhưng hiệu quả kinh tế cao. Nông dân tận dụng nguồn thức ăn ốc bươu vàng hoặc cá. Âëp Bình Phước và Bình Thạnh có lung sen, lung ấu. Lũ về, cá thường tập trung ở các lung trũng trên nên tạo thành nguồn tài nguyên dồi dào trong việc săn bắt cá mồi. Hai bên bờ kênh 7 nhỏ bà con tập trung nuôi lươn, nuôi cá trong vèo và đăng quầng trên chân ruộng. Những hộ dân có khả năng còn đào ao, đào hầm thả cá.
Trên con lộ liên ấp Bình Phước, chúng tôi đi cùng với cán bộ xã Bình Chánh, được biết: “Mùa lũ năm 2000 đến nay bà c Thường cho lươn ăn vào lúc chạng vạng, đến 21 giờ thì kiểm tra thức ăn, để hôm sau điều chỉnh cho phù hợp. Lươn ăn tạp nhưng ở thì sạch, thông thường 3 đến 4 ngày phải thay nước bồn một lần. Chọn giống lươn xúc ủ hoặc đặt lợp, đặt trúm. Không mua lươn bị xiệc điện hoặc lươn từ nơi khác về nuôi dễ bị sốc nước.
Con ấp Bình Phước vừa khai thác nguồn lợi thuỷ sản, vừa kết hợp chăn nuôi cá lóc, cá rô phi, hoặc nuôi tôm, nuôi lươn. Năm 2007, toàn xã có 61 bồn đất tấn bạt ni – lông nuôi lươn thì ấp Bình Phước đã chiếm hơn một nửa. Có nhà nuôi từ 2 đến 4 bồn. Đến bồn lươn của anh Nguyễn Phi Hùng, ngụ tổ 17, ấp Bình Phước, anh cho biết: Tôi đã nuôi lươn được 2 năm. Năm trước, tôi học xong lớp hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi lươn tại xã về mua 10 kg lươn giống nuôi thử nghiệm, với giá 22.000 đồng/kg. Sau 6 tháng thu hoạch được 50 kg lươn thịt, bán giá từ 25.000 đồng đến 58.000 đồng/kg, lời hơn 1 triệu đồng. Mùa lũ năm nay, tôi mở rộng mô hình ra 3 bồn, thả nuôi 40 kg lươn giống. Hiện, lươn nuôi được hơn 1 tháng, ăn mỗi ngày từ 6 đến 7 kg ốc ruột.
Anh Lê Hữu Bắp, ngụ tổ 17, ấp Bình Phước, trước đây, mỗi khi lũ về, anh thường giăng câu, bủa lưới. Thấy ốc bươu vàng nổi đầy mặt nước anh tận dụng về làm thức ăn cho cá. Nhưng năm 2005, giá cá lóc bấp bênh, anh chuyển sang nuôi 40 kg lươn giống. Sau vụ nuôi gần 6 tháng, anh bán với giá 60.000 đồng/kg, lời trọn 9 triệu đồng. Hiện anh đang tiếp tục mở rộng diện tích nuôi. Anh tâm sự: “Các mô đất trong bồn ni – lông phải có nhiều khe hở cho lươn bò, phía trên chỉ trồng cây rau muống, tai tượng. Không trồng lục bình, nước mau dơ. Còn anh Nguyễn Thành Trung, tổ 10, ấp Bình Chơn, năm ngoái thả nuôi 2 bồn (90 m2) 100 kg giống. Sau hơn 4 tháng thu hoạch được 350 kg, bán hơn 12 triệu đồng.
Hầu như những hộ nuôi lươn ở Bình Chánh không có đất sản xuất, đa phần tận dụng đất trước nhà làm bồn nuôi lươn, vốn đầu tư không nhiều. Nhưng để giúp nông dân có vốn sản xuất xã cũng đã thành lập tổ liên kết đề nghị ngân hàng giải ngân. Hy vọng rằng mô hình nuôi lươn mùa lũ đạt hiệu quả sẽ được nhân rộng, giúp cho việc khôi phục lại việc chăn nuôi mùa lũ được thành công, nhiều hộ sẽ khá lên - anh Cảnh, Phó Chủ tịch xã Bình Chánh, nói.
Phụng Tiên
Tuy An (Phú Yên): Thả nuôi 1.150 lồng tôm hùm
Nguồn tin: PY, 9/10/2007
Ngày cập nhật: 10/10/2007
Đến nay người nuôi tôm hùm ở huyện Tuy An đã thả nuôi được 1.150 lồng tôm hùm, trong đó chỉ có 20 lồng nuôi tôm hùm thịt, còn lại 1130 lồng nuôi tôm ương với số lượng hơn 200.000 con từ nguồn con giống do ngư dân khai thác tại địa phương.
Theo phòng Kinh tế huyện Tuy An, hiện nay địa phương này đã có 455 hộ với 840 lao động làm nghề nuôi ươm tôm hùm giống, 100 hộ với 200 lao động làm nghề nuôi tôm hùm thịt và 760 hộ với 2.370 lao động làm nghề khai thác tôm hùm giống.
KHẮC NHO
Khởi động chương trình phòng chống khẩn cấp dịch bệnh tôm hùm
Nguồn tin: PY, 9/10/2007
Ngày cập nhật: 10/10/2007
Thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) Cao Đức Phát, hiện nay, Cục Quản lý chất lượng an toàn thực phẩm và vệ sinh thú y (NAFIQAVED) cùng Viện Nghiên cứu thủy sản (NCTS) 3 Nha Trang, Trường Đại học Nha Trang đã thành lập tổ công tác để phối hợp với sở thủy sản các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Định, Ninh Thuận triển khai chương trình phòng chống khẩn cấp dịch bệnh tôm hùm.
Tôm hùm nuôi đạt trọng lượng từ 0,3 - 0,4kg ở vịnh Xuân Đài (huyện Sông Cầu) bị bệnh chết hàng loạt
Theo tiến sĩ Nguyễn Thị Xuân Thu, Viện trưởng Viện NCTS 3 Nha Trang, trước tiên tổ công tác điều tra tìm tác nhân gây bệnh trong thời gian sớm nhất và áp dụng các biện pháp phòng chống khẩn cấp, xây dựng tài liệu hướng dẫn kỹ thuật nuôi, phòng trị bệnh, tập huấn cho dân và cơ quan quản lý địa phương đồng thời đề xuất các chính sách quản lý, phát triển nuôi tôm hùm. Cục NAFIQAVED cũng đã gửi thư tới các tổ chức thế giới như OIE, NACA, SEAFDEC, Australia mô tả bệnh và xin ý kiến tư vấn hỗ trợ.
Trong vòng 2 tháng, tổ công tác sẽ điều tra tổng thể môi trường, dịch bệnh, quản lý sức khỏe tôm hùm nuôi ở 4 tỉnh miền Trung. Tổ công tác trực tiếp mời chuyên gia nước ngoài khảo sát bệnh và tham khảo ý kiến của các chuyên gia về kỹ thuật nuôi, các biện pháp phòng trị bệnh cho tôm hùm. Tổ công tác thực hiện phiếu điều tra hiện trạng bệnh tôm hùm xảy ra tại xã Xuân Thọ 1, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Người nuôi tôm báo cáo chi tiết về mật độ thả giống/m2, kích cỡ giống thả, vị trí đặt lồng cách bờ, cách đáy, cách mặt nước, nguồn giống, sử dụng loại thức ăn nào, thời gian nuôi, thời điểm bệnh bắt đầu xuất hiện và thời điểm bệnh bùng phát trên các lồng nuôi, môi trường nước có gì thay đổi từ trước khi xảy ra bệnh 1 tháng đến khi tôm chết… Cục NAFIQAVED chịu trách nhiệm trước Bộ NN- PTNT về tổng hợp số liệu điều tra, xây dựng báo cáo, tài liệu phòng chống bệnh tôm.
Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (BVNLTS) Phú Yên Nguyễn Văn Do cho biết, tôm hùm đen mang, long hở đầu, đỏ thân, đầu to, sum/hà bám ngoài vỏ… với tỷ lệ mắc bệnh thấp, tác hại không lớn. Tuy nhiên, bệnh đục thân (tôm sữa) trên tôm hùm đang tiếp tục bùng phát ở hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên với tỷ lệ tôm chết từ 15 – 40% số lượng lồng nuôi, gây thiệt hại nặng cho người nuôi. Triệu chứng lâm sàng của tôm bệnh là đốt giáp đầu ngực màu trắng đục, sau lan dần xuống các đốt dưới, hoại tử gan, tụy với dịch màu trắng sữa, hôi thối. Khi xuất hiện dấu hiệu bệnh đục thân, tôm hùm bỏ ăn và chết sau 2 – 5 ngày. Sau khi sử dụng các loại kháng sinh Doxycyline, Enrocine OSSI-C, Vime N333, vitamin, tôm không chết, nhưng sau 2 tuần đến 1 tháng bệnh tái phát. Do vậy, việc tìm ra các giải pháp để phòng chống dịch tôm hùm đang rất khẩn thiết. Chi cục BVNLTS tỉnh sẽ phối hợp và tạo điều kiện để tổ công tác triển khai nhiệm vụ tại các vùng nuôi tôm hùm trong tỉnh, đồng thời vận động người nuôi tôm hùm cung cấp thông tin tôm bệnh kịp thời, chính xác, tham gia xây dựng chương trình phòng chống dịch bệnh… Sau khi tổ công tác xác định được các giải pháp phòng chống bệnh tôm, chi cục sẽ phổ biến nhanh cho bà con áp dụng. Trước mắt, để ngăn chặn bệnh tôm hùm phát sinh lây lan ở các vùng nuôi, chi cục khuyến cáo bà con không nên sử dụng thức ăn nguồn gốc ở vùng có bệnh, quản lý chất thải, thức ăn dư, vệ sinh lồng bè, hạn chế di chuyển lồng, đặt lồng cách đáy ít nhất 0,8m.
NGUYÊN LƯU
Nuôi cá rô đồng: mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao
Nguồn tin: ĐN, 9/10/2007
Ngày cập nhật: 10/10/2007
Trong nhiều năm qua, tại xã Tân Hạnh, thành phố Biên Hoà, mô hình nuôi cá rô đồng đã được người dân quan tâm đầu tư và đã cho những kết quả đáng khích lệ. Nhiều hộ nông dân đã thoát nghèo vươn lên làm giàu một cách chính đáng, tiêu biểu là hộ ông Nguyễn Hoàng Vĩnh.
Từng là công nhân làm thuê cho một trại cá giống lớn ở tỉnh Cà Mau nên sau khi về Đồng Nai lập nghiệp, ông Vĩnh cũng biết đôi chút về quy trình chăn nuôi, nhân giống và chăm sóc cá sao cho hiệu quả và đạt năng suất. Ông kể lại, năm 1981 ông bắt tay vào nuôi cá các loại, nhưng làm mãi cũng chỉ đủ ăn mà không giàu lên được. Suy nghĩ mới biết do mình chưa tính toán kỹ hiệu quả kinh tế những giống cá mình đang nuôi nên hiệu quả kinh tế không cao. Nghĩ rồi ông chuyển sang nuôi cá rô đồng, một chủng loại hoang dã để nuôi chung với một số chủng loại cá khác. Để chọn được giống tốt, ông cất công đi tận chợ cầu ông Lãnh để tìm mua được 10 kg cá giống về cho sinh sản ra 2 triệu con cá bột. Sau đó ông thả toàn bộ số cá xuống ao diện tích 6.000m2, ban đầu cá còn bé ông cho cá ăn bằng cám nhuyễn và bột cá lạc, sau đó ông cho cá ăn lúa ngâm đã nảy mầm. Bằng cách chăm sóc này, năm 2000 ông thu được hơn 10 tấn cá. Với kết quả trên ông vẫn chưa hài lòng và rồi ông chuyển sang nuôi cá theo mô hình bán công nghiệp (tức nuôi bằng ao đất, nhưng cho ăn bằng thức ăn công nghiệp và thả 70 con cá giống/m2). Kết quả sản lượng năm sau cũng trên diện tích 6.000m2 ông thu được 35 tấn cá. Thấy hiệu quả kinh tế mỗi lúc mỗi thấy rõ, ông tích cực mở rộng thêm diện tích chăn nuôi cá rô lên 3,5 héc ta. Với cách nuôi này một năm ông Vĩnh thu hai vụ cá, lợi nhuận một năm trên 300 triệu đồng.
Từ mô hình làm ăn hiệu quả của gia đình ông Vĩnh, nhiều người dân trong vùng quan tâm đã được ông hỗ trợ cả về kỹ thuật lẫn con giống để phát triển sản xuất trên 12 hécta thành công. Ngoài ra, mô hình của gia đình ông còn là địa điểm nghiên cứu, tham quan học tập của những tỉnh bạn, những trường đại học, người dân trong tỉnh và là điểm cho trung tâm Khuyến nông tỉnh tổ chức hội thảo khoa học. Và cũng từ năm 2006, để tạo điều kiện cho xã Tân Hạnh phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, Trung tâm khuyến nông Đồng Nai đã hỗ trợ thành lập Câu lạc bộ nuôi trồng thủy sản năng suất cao gồm 15 thành viên với diện tích nuôi trồng là 35 hécta. Câu lạc bộ này ra đời nhằm mục đích xây dựng một mô hình chăn nuôi theo quy trình khép kín, trong đó Câu lạc bộ tự cung cấp con giống, tổ chức hội thảo nhóm chăn nuôi, thực hiện các biện pháp kỹ thuật và xây dựng thương hiệu.
Gia Bảo
Hà Giang: Hiệu quả từ dự án nuôi thử nghiệm cá chiên lồng
Nguồn tin: Hà Giang, 22/09/2007
Ngày cập nhật: 9/10/2007
Trong những năm qua, nhằm tìm kiếm các giải pháp xoá nghèo cho hội viên, Hội LHPN tỉnh đã xây dựng được một số dự án phát triển kinh tế hộ gia đình khá hiệu quả. Mô hình thử nghiệm nuôi cá Chiên lồng là một trong dự án như thế.
Cá chiên là loại cá hoang dã quý hiếm, thịt thơm ngon, có giá thành cao. Hiện nay, lài cá này bị khai thác đánh bắt quá mức nên số lượng tại các sông suối ngày càng cạn kiệt dần. Vậy nên, nuôi cá Chiên không những đem lại thu nhập cho người dân mà còn góp phần bảo vệ một loài cá qúy hiếm của vùng nhiệt đới Đông Nam Á. Xuất phát từ mục tiêu trên, Hội Phụ nữ tỉnh đã tiến hành xây dựng mô hình nuôi thử nghiệm cá Chiên lồng với sự hỗ trợ kinh phí của Đại sứ quán Phần Lan tại Hà Nội. Dự án "Nuôi thử nghiệm cá Chiên lồng" được triển khai thực hiện từ tháng 12.2005 với 20 hộ gia đình hội viên Hội phụ nữ tham gia. Số hộ gia đình này đa phần sinh sống ven các sông, suối, tập trung tại xã Việt Lâm (Vị Xuyên) và Tân Thành (Bắc Quang). Để mô hình đạt hiệu quả, BQL đã tổ chức thực hiện nghiêm túc từ việc chọn địa điểm đặt lống cá, bố trí nguồn vốn đến tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho người dân... Nhờ đó, người dân từ chỗ khá mơ hồ về loài cá này cũng như cách thức nuôi đã nhận thức được việc làm của mình không chỉ là nghề tăng thu nhập cho gia đình mà còn góp phần bảo vệ một loài cá quý của địa phương. Cùng đó, kiến thức và kỹ năng nuôi cá lồng của các hộ dân tham gia dự án nâng lên rõ rệt.
Mục tiêu của dự án là hỗ trợ cho phụ nữ nghèo, dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, BQL dự án cũng xác định phải chọn những người ham thích và biếtlàm kinh tế cùng tham gia mô hình với phương châm “lấy nông dân dạy nông dân”. Sau khi hoàn tất việc chọn địa điểm, BQL dự án đã tiến hành ký kết hợp đồng thực hiện mô hình thử nghiệm với 20 hộ gia đình. Mỗi hộ được dự án cho vay 2.200.000đ. Ngoài ra, dự án còn đầu tư cho mỗi hộ 3.800.000 đ không thu hồi nhằm khuyến khích các hộ mạnh dạn tham gia mô hình. Về phía các hộ nông dân phải chịu trách nhiệm làm lồng cá. Mặc dù được triển khai từ cuối 2005 nhưng do nguồn cá giống phải thu mua gom của những người đánh bắt trên sông nên phải mất gần 8 tháng mới đủ số lượng con giống cung cấp cho các hộ nuôi. Đến nay, lượng cá Chiên nuôi chủ yếu đạt thời gian trên dưới 1 năm. Đánh giá sơ bộ cho thấy các hộ nuôi từ 70 đến 100 con/lồng đã đạt từ 0,5 đến 0,8 kg/con, tổng sản lượng trung bình từ 40-70kg/lồng. Trong đó có 9 hộ đạt sản lượng 120 kg/lồng, mỗi con nặng từ 1-1,5 kg.
Để nuôi cá Chiên lồng, việc hướng dẫn người dân kỹ thuật nuôi, cách thức bảo vệ lồng cá đến việc tạo nguồn thức ăn cho cá là vô cùng quan trọng. Các khóa tập huấn đã cung cấp cho nông dân các kiến thức, kỹ năng vàchuyên môn cần thiết về nuôi cá Chiên lồng theo chu trình sinh trưởng của cá. Với phương pháp học đi đôi với hành, các lớp tập huấn còn trình diễn các thao tác kỹ thuật để người không biết chữ cũng có thể nhìn nhận và áp dụng. Truyền đạt kinh nghiệm của gia đình, anh Nguyễn Văn Hoán, một chủ hộ tham gia dự án cho biết: Cá Chiên ưa thích thức ăn động vật nhưng thực tế là nấu cám ngô, gạo, sắn thật dẻo, trộn với các loại thức ăn động vật như ốc, giun… rồi cho cá ăn cũng lớn rất nhanh. Bên cạnh đó, gia đình nào chăn nuôi gia súc thì tận dụng phân nuôi giun quế, chủ động thức ăn cho cá. Chính nhờ cách làm này, các hộ tham gia nuôi thử nghiệm cá Chiên lồng đều đảm bảo nguồn thức ăn cho cá. Không những thế, để tận dụng nguồn thức ăn thừa của cá Chiên, các hộ tham gia mô hình đều nuôi kết hợp với các loại cá cho thu hoạch nhanh hơn như: Trắm cỏ, rô phi, chép… bằng cách chia lồng thành hai ngăn, ngăn cá Chiên nằm ở đầu dòng chảy, ngăn các loại cá khác nằm phía cuối dòng chảy. Chính cách làm này đã góp phần tạo thu nhập nhanh hơn cho người nông dân. Đồng thời, đảm bảo năng suất 100- 120 kg cá/ lồng và cho thu nhập trên 20 triệu đồng/ lồng. Hiện nay, sơ bộ hoạch toán cho thấy các lồng nuôi cá Chiên đều có lãi từ 40- 50 % tổng giá trị vốn đã đầu tư.
Qua thực tế trên có thể khẳng định đây là một mô hình phát triển kinh tế hộ gia đình hiệu quả, cho thu nhập bền vững. Không những thếmô hình thử nghiệm nuôi cá Chiên lồng của Hội Phụ nữ tỉnh còn góp phần nâng cao nhận thức và tăng cường kiến thức của nông dân địa phương về việc bảo tồn giống cá quý hiếm và môi trường sinh thái của chúng; cung cấp nguồn thực phẩm quý cho người tiêu dùng cũng như cung cấp nguồn giống cá bố mẹ phục vụ cho mục đích sinh sản nhân tạo sau này. Mặc dù qui mô dự án không lớn nhưng với những gì mà nó đem lại đã góp phần để người dân thấy rõ hiệu quả của nghề nuôi cá lồng, một nghề không mới ở Hà Giang nhưng không mấy ai dám mạnh dạn đầu tư phát triển. Từ ảnh hưởng của dự án này, tính đến nay, toàn tỉnh đã phát triển trên 100 lồng cá các loại, bước đầu khai thác nguồn lợi thủy sản sẵn có của địa phương.
Tuy nhiên, đa phần người nông dân tỉnh ta chỉ quen canh tác trên cạn nên rất dè dặt trước một nghề sông nước như nghề nuôi cá lồng. Bên cạnh đó, nghề này cũng đòi hỏi người nuôi phải có những am hiểu nhất định về sông nước, dám mạnh dạn đầu tư... Do đó, để mô hình được mở rộng, trở thành một nghề xóa nghèo bền vững của tỉnh thì các cấp, các ngành cần có những tác động cụ thể hơn nữa để người nông dân được tiếp cận thêm nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển thủy sản, nhất là nuôi các loại cá quý hiếm của địa phương đang có nguy cơ cạn kiệt dần như cá Chiên, kết hợp với việc bảo vệ môi trường nước và giúp người dân mạnh dạn tiếp cận các nghề mới cho thu nhập cao...
Yến Khanh
Sắm ca nô đi thăm... cá
Nguồn tin: SGGP, 09/10/2007
Ngày cập nhật: 9/10/2007
Giữa lúc thiên hạ chưa ngớt bàn tán ì xèo xung quanh chuyện các “vua cá” ở cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ) rủ nhau ôm tiền bán cá mua xe hơi đời mới bạc tỷ, thì nay mấy ông vua này lại chê xe, chuyển sang sắm ca nô cao tốc để tiện… đi thăm ao nuôi cá.
Chiếc ghe tam bản vừa nổ máy định băng qua sông Hậu thì ông Tám lái đò vội lật đật giảm ga, quay mũi vào bờ. Liền theo đó, một chiếc ca nô cao tốc phóng vụt qua, sóng vỗ ầm ầm, nước văng tung tóe. Ông Tám chắt lưỡi, than: “Chút xíu nữa là nguy với nó, ca nô của mấy ông đại gia nuôi cá tra trên cồn, ngày nào cũng phóng vèo vèo dậy sóng như vậy đó”.
Chê xe hơi... sắm ca nô
Ông Võ Minh Phương đang chăm sóc ca nô 85 mã lực
Nhắc chuyện sắm ca nô của mấy ông “vua cá”, ông Lê Văn Huấn, Phó Chủ tịch UBND xã Tân Lộc, nói ngay: “Phương tiện đi lại hiện đại này mới xuất hiện ở cù lao hồi năm 2006. Tới nay cả xã đã có 22 chiếc có động cơ từ 60 mã lực trở lên, trong đó có 2 chiếc máy 115 mã lực, 5 chiếc 60 mã lực, còn lại là máy 85 mã lực. Nhiều nhất là ấp Lân Thạnh với 10 chiếc. Hiện tại còn nhiều chủ ao cũng đang muốn sắm ca nô…”.
Ông Huấn đi cùng chúng tôi đến nhà ông Võ Minh Phương, chủ 2 chiếc ca nô ở ấp Phước Lộc. Trong con mương nhỏ bên bờ rạch chợ Tân Tây, 2 chiếc ca nô của ông Phương đang nằm trú nắng, chiếc lớn 6 chỗ ngồi, máy Yamaha 85CV chạy xăng, chiếc nhỏ máy 40CV chạy dầu diesel. Vừa lau chùi chiếc máy Yamaha bóng dợn, ông Phương cười khà khà: “Bây giờ ca nô cao tốc là số 1 ở cù lao này. Chỉ có nó mới cặp được vào các ao cá ven sông Hậu, xe hơi đời mới máy lạnh làm sao ra được bờ ao?”. Ông Phương kể: Chiếc ca nô đầu tiên ở Tân Lộc do ông Trần Phước Đời ở ấp Lân Thạnh tậu khoảng giữa năm 2006, máy diesel 40CV. Sau đó các đại gia nuôi cá ở Tân Lộc bắt đầu đua nhau sắm ca nô vì phát hiện loại phương tiện di chuyển này vừa sang trọng vừa tiện lợi để đi thăm các ao nuôi cá ven sông Hậu.
Những “đại gia ca nô” ở Tân Lộc cho biết vỏ tàu bằng composite được đặt mua ở Cà Mau, còn động cơ thì đặt mua của chi nhánh Yamaha Kiên Giang. Tuy nhiên, phần lớn ca nô ở Tân Lộc đều gắn động cơ đã qua sử dụng nên giá tương đối rẻ: chiếc 60CV giá khoảng 65 triệu đồng, 85CV giá 75 triệu, 115CV giá khoảng 140 triệu đồng. “Siêu sao” trong làng ca nô Tân Lộc là chiếc 115CV hàng nhập khẩu “đập thùng” nguyên chiếc giá hơn 10.000 USD của ông Sơn, chủ hiệu buôn Lộc Phát từ thị trấn Thốt Nốt qua cù lao mua đất nuôi cá. “Hiện nay, Tân Lộc có cả trăm chủ ao cá nên nhu cầu mua sắm ca nô làm phương tiện đi lại khá lớn. Bằng chứng là trên địa bàn Thốt Nốt đã xuất hiện 2 điểm bán ca nô ở xã Trung Kiên và xã Thới Thuận”, Phó Chủ tịch Huấn cho biết. Tuy nhìn nhận ca nô là phương tiện đi lại tối ưu nhưng các đại gia nuôi cá ai cũng ngán ca nô “uống xăng” như… uống bia. “Ca nô rẻ hơn xe máy lạnh nhưng tốn xăng kinh hồn. Chiếc 60CV chạy 100km hết 25 lít xăng, chiếc 85CV “uống” 30 lít và chiếc 115 ngốn 35 lít là giá chót. “Lúc đầu tôi sắm chiếc 115CV nhưng nuốt xăng dữ quá nên tôi bán, mua lại chiếc 85CV”, ông Phương nói.
Chạy lụi
Thật bất ngờ là tất cả những ông đại gia ca nô ở Tân Lộc đều không có miếng giấy lận lưng khi điều khiển phương tiện giao thông thủy được xếp vào loại có độ nguy hiểm cao này: Không đăng ký, đăng kiểm, không có bằng lái… Chúng tôi hỏi chuyện học lái ca nô, ông nào cũng cười khà khà: Dễ ẹc, khi giao hàng thì nơi bán ca nô cử người đến dạy lái, sử dụng các bộ phận điều khiển, trong vòng 4-5 ngày là có thể lái. “Nếu máy móc trục trặc thì chỉ a lô một phát là có người tới kéo về sửa chữa. Nhưng chỉ dám chạy quanh quẩn từ nhà ra ao cá thôi, không dám đi đâu xa vì sợ CSGT bắt được thì chịu chết”.
Phó Chủ tịch Lê Văn Huấn cũng cho rằng, việc các ông chủ ca nô điều khiển phương tiện mà không có bằng lái, không đăng ký phương tiện là nguy hiểm. “May mà lâu nay chưa xảy ra tai nạn nghiêm trọng. Trước thực trạng này, mới đây huyện đã yêu cầu xã lập danh sách chủ ca nô để có giải pháp quản lý chặt chẽ”, ông Huấn nói. Trong khi đó những ông chủ ca nô ở Tân Lộc cho biết, họ cũng bức xúc cảnh “chạy lụi” vì ngoài chuyện đi thăm ao cá thì chiếc ca nô còn là phương tiện giao thông tiện lợi và không nguy hiểm như đi xe gắn máy trên bờ, đặc biệt là sử dụng ca nô đi lấy tiền bán cá thì an toàn nhất. Sở dĩ mấy ông chủ ca nô ở Tân Lộc phải chấp nhận cảnh chạy lụi, trốn chui trốn nhũi CSGT vì hiện nay ở Cần Thơ không có nơi nào dạy lái và cấp bằng lái ca nô. Quá bức xúc, những tháng đầu năm 2007, mấy ông chủ ca nô Tân Lộc rủ nhau ôm hồ sơ xuống Kiên Giang, qua Đồng Tháp… xin học thi lấy bằng nhưng không nơi nào nhận. Ai cũng nói, “hễ nhà nước mở lớp dạy lái, thi lấy bằng là đăng ký học liền” vì đã quá ngán cái cảnh có tiền mua sắm tài sản mà khi mang ra sử dụng cứ lén lén lút lút như… ăn trộm.
Mang chuyện “chạy lụi” của mấy ông ca nô Tân Lộc đến đội CSGT Công an huyện Thốt Nốt thì được thượng úy Huỳnh Ích Tân, phó đội trưởng, cho biết do đây là loại phương tiện giao thông mới xuất hiện trên địa bàn và không ai đăng ký nên chưa quản lý được. Tuy nhiên, Ban an toàn giao thông huyện đã nhận ra sự nguy hiểm này nên đang yêu cầu các xã thống kê số lượng, sau đó hướng dẫn các chủ ca nô làm thủ tục đăng ký đăng kiểm và huyện sẽ phối hợp các ngành chức năng mở lớp học lái, thi lấy bằng cho các chủ phương tiện.
P. Trương- A. Hùng
Hấp dẫn thịt cá sấu
Nguồn tin: KTVN, 08/10/2007
Ngày cập nhật: 9/10/2007
Nói đến cá sấu, nhiều người thường nghĩ tới bộ da đắt tiền của chúng dùng để sản xuất những mặt hàng thời thượng như: cặp da, giày da, ví da, thắt lưng da..., chứ ít ai biết được rằng thịt cá sấu rất ngon và bổ dưỡng.
Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, kể từ khi món ăn từ cá sấu trở thành thú ẩm thực của giới "sành điệu" thì ăn thịt cá sấu không còn quá xa lạ với người Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu khoa học trên thế giới cho thấy thịt cá sấu có giá trị dinh dưỡng cao, lượng đạm chiếm 21-22%, đồng thời có tác dụng chữa bệnh hen suyễn. Quá trình nấu chín, không làm mất các vi chất, axít amin trong thịt cá sấu.
Trong thịt cá sấu có 17 loại axit amin, đặc biệt chứa 7 loại axit amin mà cơ thể con người không tự tổng hợp được. Thịt cá sấu rất hữu ích nếu dùng để bồi dưỡng cho người bệnh, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em.
So với những loại thịt thông thường (lợn, gà, bò...), thịt cá sấu ít năng lượng và chất béo hơn, hàm lượng mỡ chỉ chiếm 1,4%, đồng thời chất khoáng nhiều hơn hẳn, chiếm tới 1,3%.
Những nghiên cứu khoa học cũng cho thấy: hệ miễn dịch của cá sấu hoạt động rất mạnh, giúp chúng tự chữa lành các vết thương rất nhanh chóng và ngăn chặn nguy cơ lây nhiễm các mầm bệnh. Dân gian thường sử dụng máu cá sấu để chế ra rượu huyết sấu, uống vào có tác dụng cung cấp nhiều ôxy và nhiều chất kháng sinh tự nhiên cho cơ thể.
Mật cá sấu dùng làm thuốc chữa bệnh suyễn, được đóng gói dưới dạng tươi hoặc sấy khô. Xương cá sấu phối hợp với một số loại dược thảo được dùng để nấu cao, tác dụng trị các chứng đau nhức khớp xương, biếng ăn, viêm xoang, tăng cường sức đề kháng cho người bệnh.
Tuy nhiên, do việc buôn bán thịt cá sấu được quản lý nghiêm ngặt, tất cả mọi sản phẩm thịt cá sấu lưu thông trên thị trường đều phải có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, nên số nhà hàng phục vụ các món ăn chế biến từ thịt cá sấu chưa nhiều.Địa chỉ nổi danh các món cá sấu ở Hà Nội là nhà hàng "Nhà tôi" ở đường Nghi Tàm.
Tại đây, thịt cá sấu tươi sống được chế biến thành nhiều món ăn phong phú, quyến rũ thực khách: xào lăn, om măng, tẩm sâm, súp da... Thực khách "khoái khẩu" nhất món steak chế biến theo kiểu châu Âu, ăn kèm khoai lang và bánh mì nướng giòn. Món gỏi cá sấu cũng vô cùng hấp dẫn, từng miếng thịt tươi sống, trắng hồng được thái lát mỏng dưa.
Ở Tp.HCM, rất nhiều nhà hàng và khách sạn quyến rũ thực khách nhờ món thịt cá sấu, nhưng lừng danh nhất là "Làng cá sấu Sài Gòn". Tại đây, Công ty cá sấu Hoa Cà hợp tác với nông dân, chăn nuôi cá sấu trong các trại ven sông Sài Gòn. Được nuôi dưỡng trong môi trường đảm bảo vệ sinh, gần gũi thiên nhiên, được cung cấp thức ăn tự nhiên, nên cá sấu lớn nhanh, có bộ da đẹp và thịt thơm ngon.
Thịt cá sấu được Công ty cá sấu Hoa Cà nghiên cứu chế biến, phối hợp với nhiều loại dược thảo, hạt sen, tạo thành các món ăn ngon và có giá trị dinh dưỡng cao. Sản phẩm từ thịt cá sấu được chế biến sẵn, đóng gói và cấp đông, đang được nhiều khách hàng ưa chuộng, bán khá chạy hàng trong các siêu thị.
Giá bán của thịt cá sấu tuỳ theo từng phần thân thịt: như thịt nạc ở phần cổ cá sấu có giá bán 70.000 đồng/kg; thịt nạc đuôi cá sấu giá 112.000 đồng/kg; chà bông khô cá sấu 260.000 đồng/kg; khô cá sấu 220.000 đồng/kg...
Chu Khôi
Xã Hoài Thanh Tây: Anh Phạm Văn Cường thu lãi 50 triệu đồng từ nuôi cá nước ngọt
Nguồn tin: Bình Định, 8/10/ 2007
Ngày cập nhật: 8/10/2007
Trên diện tích 6.000m2 mặt nước, anh Phạm Văn Cường ở xã Hoài Thanh Tây (Hoài Nhơn) thả nuôi gần 40.000 con cá nước ngọt (gồm: cá chim trắng, diêu bông, rô phi…). Sau 7 tháng chăm sóc, vừa qua anh Cường đã thu hoạch đạt khoảng 13 tấn cá thương phẩm. Với giá thị trường hiện nay (từ 10.000 - 12.000 đồng/kg), sau khi trừ chi phí, anh thu lãi khoảng 50 triệu đồng.
Hiện nay, mô hình nuôi cá nước ngọt lúa - cá ở xã Hoài Thanh Tây đang được nhân rộng. Được biết, 9 tháng qua Hoài Thanh Tây đã cung cấp cho thị trường 85 tấn cá nước ngọt, chủ yếu các tỉnh phía bắc.
Thu Hà (Đài TT Hoài Nhơn)
Đồng bằng sông Cửu Long: Được mùa tôm vẫn mang nợ
Nguồn tin: QĐND, 07/10/2007
Ngày cập nhật: 8/10/2007
Hơn mười năm qua, các tỉnh ven biển khu vực Đồng bằng sông Cửu Long xác định thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó đi đầu là nghề nuôi tôm sú xuất khẩu. Nghề này từ quảng canh cải tiến đến công nghiệp và bán công nghiệp tạo nguồn nguyên liệu tại chỗ cho gần 30 nhà máy chế biến thủy sản, đã làm thay đổi bộ mặt của hàng chục xã ven biển. Vụ nuôi tôm sú năm 2007 các tỉnh trong khu vực đánh giá là ổn định và thuận lợi nhất trong vài năm qua, diện tích tôm nuôi bị thiệt hại rất thấp, giá tôm nguyên liệu tương đối ổn định. Tuy nhiên, phần lớn các hộ sau khi thu hoạch thì lợi nhuận rất ít, thậm chí có hộ thua lỗ.
Theo báo cáo của Sở Thủy sản Bạc Liêu toàn tỉnh có 95.000ha được thả tôm sú giống, trong đó 9.857ha nuôi theo mô hình công nghiệp và bán công nghiệp còn lại là quảng canh cải tiến. Đến nay đã có hơn 80% diện tích đã thu hoạch xong, năng suất bình quân cho mô hình cải tiến là 550kg/ha, còn mô hình công nghiệp và bán công nghiệp bình quân là 3-3,5 tấn/ha và chỉ có hơn 15% hộ nuôi bị lỗ vốn, còn lại từ hòa đến lãi. Còn theo số liệu của các tỉnh, tình hình nuôi tôm sú năm nay chuyển biến theo hướng tích cực, diện tích tôm nuôi thiệt hại ở mức khá thấp chiếm từ 15 đến 20%; chỉ có 16-18% hộ nuôi lỗ vốn và hơn 40% hộ lấy công làm lãi.
Nghề nuôi tôm ở ĐBSCL đã có những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước với mô hình luân canh lúa-tôm sú bền vững, có nghĩa là sử dụng tôm giống và thức ăn tự nhiên, năng suất chỉ đạt khoảng 250kg/ha. Nay mô hình này không còn phù hợp với nhiều rủi ro: tôm nuôi thường cho thu hoạch sớm còn sản xuất lúa luôn thất mùa do nước mặn kéo dài cây lúa sống èo uột. Trong những năm gần đây nghề này phát triển theo mô hình bán thâm canh công nghiệp (diện tích này không nhiều) và quảng canh cải tiến ít thay nước.
Anh Nguyễn Văn Là ở xã Hòa Tú, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng bức xúc nói: Còn nhớ mười năm trước đây, khi môi trường nước ổn định, bà con nơi đây đến vụ nuôi tôm đầu tư cải tạo không nhiều, chỉ việc mua con giống về thả, cho thức ăn viên chế biến loại rẻ tiền sau 3-4 tháng nuôi cho thu hoạch tôm đạt trọng lượng cao. Còn hiện nay thả tôm nuôi hơn 6 tháng mà cỡ tôm chỉ còn bằng nửa. Theo chiết tính, chi phí từ lúc đầu tư đến thu hoạch, giá thành một ki-lô-gam tôm sú thương phẩm không dưới 70.000 đồng. Trong khi đó cỡ tôm trên bán cho thương lái khoảng 45-50 nghìn đồng/kg. Chưa thu hoạch đã biết chắc lỗ.
Còn ông Trần Quốc Hương xã Tạ An Khương, Đầm Dơi, Cà Mau cho biết: Vụ nuôi tôm sú năm nay trên diện tích một ha, tôi thả 200.000 con giống. Đầu vụ thời tiết khá thuận lợi, hy vọng năm nay sẽ trúng mùa gỡ gạc lại những năm trước. Nhưng đằng này ngược lại, mừng chưa được bao lâu tôm phát bệnh liên tục. Bao nhiêu tiền bạc đổ vào ao nuôi tôm sú, sau 6 tháng nuôi tôm không lớn, thu hoạch gần 2 tấn, trừ chi phí lỗ 35 triệu đồng, nên đành mang thêm nợ.
Người nuôi tôm sú các tỉnh ven biển ĐBSCL sau một vụ nuôi thu hoạch được từ 30-40 triệu đồng gọi là trúng mùa. Nhưng tính lại chi phí đầu tư, con giống, thức ăn, lãi vay ngân hàng… còn lại chẳng là bao. Hình như việc tái đầu tư của người nuôi tôm sú không còn, chưa kể môi trường nước, thời tiết thay đổi, con giống chất lượng kém, dịch bệnh, chi phí sinh hoạt… nếu thất bại đành mang nợ. Họ lại tiếp tục cái vòng luẩn quẩn chạy đôn chạy đáo tìm ngân hàng hay tiếp cận nguồn vay ngoài để tiếp tục nuôi tôm, lại thiếu vốn, thiếu kiến thức khoa học-kỹ thuật… nên hiệu quả từ nuôi tôm sú không cao. Khi gặp bà con, chúng tôi được nghe nói hơn 70% diện tích tôm nuôi chậm lớn do môi trường bị ô nhiễm, đất nuôi tôm bị khai thác quá mức nên bị chai, tôm giống chất lượng không cao…
Một thực tế ở ĐBSCL là có đến hơn 80% hộ nuôi được tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại trên địa bàn, trong số đó cũng có tỷ lệ nợ quá hạn chiếm khá cao. Nguyên nhân hộ “chây lỳ” cố tình không trả nợ ngân hàng rất ít mà nguyên nhân chính là do thất mùa tôm liên tục hoặc có lãi chẳng là bao. Trước tình hình này, nhiều chuyên gia cho rằng cần có những giải pháp mạnh và tập trung để nhanh chóng xóa bỏ rào cản, tạo sự phát triển bền vững cho nghề nuôi tôm sú ở các tỉnh ven biển Tây Nam Bộ. Khẩn trương rà soát quy hoạch phát triển nuôi tôm sú kết hợp với lập các dự án đầu tư cụ thể, gắn với quy hoạch phát triển thủy lợi đồng bộ, đào tạo nghề, phát triển hệ thống cung ứng giống sạch bảo đảm chất lượng, thức ăn, chế biến và thị trường… Có như thế người nuôi tôm sú mới an tâm vươn lên làm giàu chính đáng, chứ không thể chỉ xóa đói, giảm nghèo như hiện nay.
PHƯƠNG NGHI
Tản mạn con ba ba với thể thao...
Nguồn tin: TT, 08/10/2007
Ngày cập nhật: 8/10/2007
Con ba ba trước nay vẫn được xem là động vật có giá trị cao về kinh tế và dinh dưỡng, kể cả khả năng chữa bệnh của thịt ba ba và những giai thoại xung quanh loài vật này.
Trong dân gian thì ba ba máu lạnh song bổ cả âm - dương, đặc biệt có sức mạnh phi thường, chả thế mà những thành viên trong “đoàn quân Ma” của Trung Quốc khi xưa luôn lấy hết giải chạy cự ly dài thế giới đã tập huấn ở Côn Minh và dùng máu ba ba trong thực đơn.
Con ba ba lại có nhiều giai thoại hay, kể từ sự tích cứu vật phóng sinh ở vùng Đan hồ An cảng bên Trung Quốc cho đến chuyện một viên tướng người Nùng do ăn ba ba núi mà đầu quân giết giặc lập nhiều công to. Ba ba là món ăn khoái khẩu, từ những món ba ba nấu thuốc bắc (đông trùng hạ thảo), lẩu sa tế, canh chua hay nấu chuối đậu giấm bỗng… đều hấp dẫn.
Thịt ba ba thật độc đáo, những bộ phận “độc” nhất của món ăn này là chân, tiết pha rượu, riềm và người viết đã nhiều phen thưởng thức các loại ba ba tứ xứ, lại được biết cựu tổng cục trưởng Tổng cục TDTT Lê Bửu là một người ghiền ba ba. Chính ông Bửu đã có ý tưởng làm sao tạo điều kiện để VĐV đỉnh cao của ta xơi món ba ba trước khi thi đấu quốc tế. Nhưng ăn ba ba cũng phải lựa chọn, cỡ dưới ba tháng tuổi thì còn quá bé, thịt ít và tanh không nên sử dụng mà phải là loại ba ba 12 tháng tuổi trở lên, nặng cỡ 1,4 - 1,5kg đến 2kg trở lên.
Vì thế, chúng tôi ngạc nhiên xen lẫn thú vị khi trên VTV1 hôm rồi có phóng sự mô tả bữa ăn ở Nhổn, VĐV chuẩn bị SEA Games 24 đã được xơi thịt ba ba. Hay quá, hết sức có lý, tuy nhiên nhìn đi nhìn lại, tôi ước tính mấy con ba ba đó nặng chỉ dưới 1kg là cùng và loại này tất là rẻ và kém giá trị. Băn khoăn, tôi điện hỏi ông giám đốc Nhổn và được biết việc này trung tâm đã giao cho một phó giám đốc trực tiếp lo rồi.
Tôi hỏi giá, được nghe có giá đặc biệt 330.000 đồng/kg! Cha chả, sao thế nhỉ? Vì tôi biết rõ giá thị trường mà. Cẩn thận, tôi lại điện cho ông Cấn Văn Nghĩa - giám đốc Sở TDTT Hà Tây, là một chuyên gia về ba ba. Ông Nghĩa cho hay giá thị trường vẫn như tôi biết, tại các chợ lớn ở Hà Nội xấp xỉ 280.000 đồng/kg, nhưng nếu mua từ gốc thì chỉ cỡ 150.000 -170.000 đồng/kg; nếu là thứ ba ba da trơn từ phía Nam đưa ra, giá sỉ chỉ xấp xỉ 100.000đ/kg. Ông cũng tỏ ý sẵn sàng chỉ dẫn trung tâm đến những điểm bán ba ba tại Hà Tây - “giá chỉ như thế, nếu mua nhiều còn rẻ hơn nữa đấy”.
Chẳng phải người hiếu sự, dù hoan hô và chia vui với sáng kiến “ba ba” của Nhổn, tôi vẫn lấy làm lạ, việc gì phải phân công cả một ông “phó” về chuyên môn lại đi lo cái chuyện bếp núc như thế, và về giá cả không có lẽ lại là vậy, trong khi vấn đề kinh phí cho SEA Games 24 đang được coi là chuyện nhức đầu?
AMA LÂM
Đi chợ thủy sản ngoại thành mùa lũ: Cá, tép, ốc... về ít, giá cao
Nguồn tin: BCT, 5/10/2007
Ngày cập nhật: 8/10/2007
Khoảng 10 ngày qua, ở các huyện đầu nguồn TP Cần Thơ bắt đầu bước vào mùa đánh bắt và mua bán các loại thủy sản mùa lũ (cá, tép, cua, ốc...). Năm nay, nước lũ lên chậm và nguồn cung nhiều loại thủy sản đang giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước. Dù vậy, hoạt động đánh bắt, mua bán và chế biến thủy sản mùa lũ ở ngoại thành cũng bắt đầu sôi động…
Cua, ốc cũng hút hàng
Hiện nay, hoạt động đánh bắt, thu mua, chế biến ốc bươu vàng và cua đồng sôi động nhất ở các huyện Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt... Mùa lũ năm nay, ốc bươu vàng và cua đồng mang lại thu nhập khá cho người dân vùng lũ. Ngoài việc trực tiếp đi đánh bắt, nhiều người còn có thu nhập nhờ tham gia vào các hoạt động thu mua, chế biến cua, ốc thành thức ăn cho gia cầm, gia súc, thủy sản và nguyên liệu xuất khẩu.
Cặp theo tuyến Quốc lộc 80 trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh đang có gần chục cơ sở thu mua cua, ốc và cá đã đi vào hoạt động. Hiện giá ốc bươu vàng (nguyên con) loại lớn, được nhiều cơ sở thu mua với giá 500 đồng/kg, ốc loại nhỏ (làm thức ăn cho tôm, vịt) giá 200-250 đồng/kg; cua đồng 500 đồng/kg. Đặc biệt, giá ốc đắng đã tăng từ 800-1.000 đồng/kg vào năm 2006, lên 2.000 đồng/kg; giá hến tăng từ 500 đồng/kg lên mức 700–800 đồng/kg do nguồn cung giảm mạnh so với năm trước.
Theo nhiều bà con ở huyện Vĩnh Thạnh, trung bình một người đi lể ốc mướn cho các cơ sở thu mua thủy sản mùa lũ có thu nhập từ 15.000-30.000 đồng/ngày (tiền công 300 đồng/kg ốc). Những người trực tiếp đi bắt cua và ốc có thể thu được 40.000-50.000 đồng/ngày. Năm nay, nước lũ về chậm và ít hơn năm trước, lượng cua, ốc trên đồng ruộng cũng giảm.
Anh Phạm Văn Thuận ở ấp Quy Long, xã Thạnh Mỹ, huyện Vĩnh Thạnh, cho biết: “Năm trước, lượng ốc bươu vàng trên ruộng rất nhiều, đi kéo lưới một hồi là đầy bao ngay. Năm nay, giá cua, ốc vẫn tương đương năm trước nhưng nguồn cung ít, nên muốn có thu nhập cao phải bỏ nhiều công hơn. Dù vậy, một người trung bình một ngày cũng có thể bắt được trên 100kg ốc”. Còn bà Trần Thị Vàng ở ấp Vĩnh Tiến, thị trấn Vĩnh Thạnh, đi lể ốc mướn cho một cở sở thu mua ốc bươu vàng tại huyện Vĩnh Thạnh, cho biết: “Hồi lũ chưa về, tôi đi làm lúa mướn, còn mùa này nếu có ốc lể suốt ngày, tôi có thể có trên 30.000 đồng/ngày. Nhưng do nguồn hàng ít nên hiện tại tôi chỉ làm 1 buổi, thu nhập khoảng 15.000 đồng. Mong là vài ngày nữa nước lên nhiều, có ốc nhiều hơn để làm”.
Nhiều loại cá đồng, tép vắng bóng
Năm trước, mới vào đầu tháng 9-2006, các cơ sở thu mua thủy sản mùa lũ ở các huyện ngoại thành đã đi vào hoạt động, còn năm nay hoạt động trễ hơn khoảng 20 ngày. Nguyên nhân do năm nay nước lũ lên chậm hơn năm trước, cá, tôm, cua... về trễ. Hiện nhiều loại thủy sản như: cá chạch, cá rô đồng, tép rong, cá linh... vẫn chưa có nhiều, thậm chí một số loại còn vắng bóng. Nguồn cung ít nên giá các loại thủy sản mùa lũ cũng tăng so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: giá cá chạch tăng từ 10.000 –13.000 đồng/kg vào thời điểm tháng 10-2006, lên ở mức 20.000 đồng/kg; cá linh tăng từ 2.000–3.000 đồng/kg, lên 4.000–5.000 đồng/kg nhưng nguồn hàng rất ít. Giá tép rong loại lớn hiếm hàng, hiện cũng tăng lên 20.000 đồng/kg so với mức 10.000–12.000 đồng/kg vào năm trước.
Chị Vũ Thị Hường ở ấp Vĩnh Tiến, thị trấn Vĩnh Thạnh, lo ngại: “Năm trước, vào thời điểm này, đã có tép rong về nhiều, còn năm nay hầu như không có hàng để thu mua cung ứng cho các đầu mối tiêu thụ ở TP Hồ Chí Minh. Từ đầu mùa đến nay, tôi mới chỉ mua được vài ký tép. Nguồn cung các loại cua đồng và ốc cũng giảm mạnh. Hiện cơ sở của tôi chỉ thu mua được 1,5 tấn cua, ốc/ngày, trong khi năm trước mua được 6-7 tấn/ngày”.
Ông Hoàng Văn Thiệm ở ấp Vĩnh Tiến, thị trấn Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ, chuyên thu mua cua và ốc, cũng cho biết: “Năm rồi bắt đầu từ đầu tháng 9-2007, tôi đã mua được nhiều cua, ốc, còn năm nay, tôi chỉ mới mua cua ốc khoảng 10 ngày qua nhưng lượng hàng mua vào ít hơn khoảng 50% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi do giá thức ăn công nghiệp tăng cao, nhiều người nuôi cá tra, cá lóc, vịt... tại địa phương có nhu cầu mua cua, ốc làm thức ăn chăn nuôi nhiều. Bây giờ có bao nhiêu hàng bán cũng hết. Hiện cơ sở của tôi mua được khoảng 1-1,5 tấn cua và ốc/ngày”. Còn bà Nguyễn thị Huấn -Chủ Cơ sở Bé Ba (mua ốc, cua, hến và cá) ở huyện Vĩnh Thạnh, cho rằng: “Nguồn cung các loại cua, ốc và hến đã giảm ít nhất 20% so với cùng kỳ năm trước, giảm mạnh nhất là các loại cá đồng. Hiện cơ sở chỉ mua được 1 tấn ốc đắng và hến/ngày, khoảng 500 –700kg ốc bươu vàng, còn cá, tép hầu như chưa có. Mọi năm vào thời điểm này cá chạch, cá linh có rất nhiều, còn giờ vắng bóng hẳn”.
Do nguồn cung thủy sản đánh bắt tự nhiên giảm mạnh nên dù đã bước vào mùa lũ nhưng giá nhiều loại cá nuôi như: cá lóc, cá rô, các loại cá trắng... vẫn đứng ở mức cao, thậm chí tiếp tục tăng. Giá cá lóc và cá rô nuôi hiện đã tăng thêm khoảng 2.000-4.000 đồng/kg so với cách đây hơn 1 tháng. Giá cá lóc nuôi loại lớn hiện ở mức 26.000 đồng/kg, tăng 2.000 đồng/kg, loại nhỏ (dưới 300g/con) 18.000 đồng/kg; cá rô nuôi 30.000-32.000 đồng/kg. Nhiều người nuôi cá đồng cho biết, do các năm trước nuôi cá bị lỗ, hiện đã có 90% người nuôi cá lóc, cá rô nghỉ nuôi hoặc chuyển sang nuôi cá tra, chính vì vậy nguồn cung nhiều loại cá nuôi cũng đang giảm mạnh.
Trước tình hình nguồn cung giảm, nhiều tiểu thương dự đoán giá nhiều loại thủy sản mùa lũ sẽ còn tiếp tục ở mức cao trong thời gian tới.
Khánh Trung
Bến Tre ương nuôi thành công giống cá tra chất lượng cao
Nguồn tin: BTreTV, 6/10/2007
Ngày cập nhật: 7/10/2007
Trung tâm giống Thuỷ sản Sơn Đông, thuộc sở Thuỷ sản Bến Tre đã ương nuôi thành công giống cá tra chất lượng cao.
Với 2 ao ương có tổng diện tích 3.200m2, lượng cá bột thả ương 2 triệu 500 ngàn con. Thời gian ương từ cá bột lên cá giống 60 ngày, tỷ lệ ương đạt từ 10 đến 15%. Dự kiến đợt ương đầu tiên sẽ cung cấp cho người nuôi khoảng 370 ngàn con cá giống. Theo đánh giá của cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến ngư Bến Tre, đây là mô hình ương nuôi cá tra giống khá hiệu quả, cá tăng trưởng nhanh, kích cỡ tương đối đồng đều, tỷ lệ ương đạt cao, cá thích nghi với môi trường, thổ nhưỡng, thuận lợi cho việc thả nuôi, hạn chế chi phí vận chuyển, tránh xây sát và hao hụt, kiểm soát được mầm bệnh, đáp ứng nhu cầu cho người nuôi cá tra xuất khẩu ở Bến Tre. Sắp tới, Trung tâm giống Thuỷ sản Sơn Đông sẽ mở rộng qui mô sản xuất lên 10.000m2 mặt nước ao ương, dự kiến mỗi đợt xuất bán hơn 500.000 cá giống chất lượng cao.
Ninh Thuận: Diện tích tôm thả nuôi tăng 45% so với cùng kỳ; Sản xuất và tiêu thụ tôm giống tăng 22,9%
Nguồn tin: Ninh Thuận, 06/10/2007
Ngày cập nhật: 7/10/2007
Trong 9 tháng đầu năm, ngành Thủy sản tỉnh ta đã sản xuất và tiêu thụ được 5.432 triệu con tôm giống, trong đó có 4.950 triệu con tôm sú giống và 450 triệu con tôm thẻ giống, đạt 100% kế hoạch năm ngoái. Nhờ phối hợp với ngành Thủy sản tỉnh Bến Tre và các tỉnh phía Nam, đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm định giống gắn với thị trường tiêu thụ nên chất lượng, giá bán tôm giống được nâng lên. Cụ thể tôm sú sạch có giá từ 40 đến 50 đồng/con và tôm thẻ chân trắng khoảng 35-40 đồng/con. Toàn tỉnh đã có 653 cơ sở sản xuất có năng lực, điều kiện vốn, kỹ thuật phát triển thương hiệu tôm giống Ninh Thuận. Hầu hết các cơ sở sản xuất tôm giống đã tổ chức sản xuất giống tôm sú, thẻ chân trắng phục vụ nhu cầu nuôi đạt hiệu quả cao.
Từ đầu năm đến nay, nhờ thời tiết thuận lợi (mưa nhiều) nên năng suất, sản lượng tôm nuôi được nâng lên, tổng diện tích tôm thả nuôi toàn tỉnh đạt 1.228 ha, trong đó có 770 ha tôm sú và 458 ha tôm thẻ, tăng 45% so với cùng kỳ. Qua thu hoạch diện tích 687 ha đã đạt sản lượng 3.450 tấn, bao gồm 1.100 tấn tốm sú và 2.350 tấn tôm thẻ. Tôm thẻ tập trung chủ yếu ở vùng nuôi trên cát huyện Ninh Phước đã đem lại hiệu quả kinh tế, với năng suất bình quân 9,09 tấn/ha, hầu hết người nuôi có lãi từ 30 đến 100 triệu đồng/ha.
BT
Phú Yên: Chỉ có 21,5% diện tích đất nuôi trồng thủy sản được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nguồn tin: Phú Yên, 5/10/2007
Ngày cập nhật: 7/10/2007
Theo Sở Tài nguyên môi trường Phú Yên, đến nay toàn tỉnh chỉ mới có 420 ha nuôi trồng thủy sản được cấp cho 863 trường hợp, chiếm 21,5% diện tích cần được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ).
Nhiều diện tích nuôi tôm ở khu vực hạ lưu sông Bàn Thạch chưa được cấp GCNQSDĐ - Ảnh: N.T
Trong đó tập trung ở huyện Sông Cầu cấp được 825 giấy đạt 39% diêïn tích. Các huyện khác đạt tỉ lệ cấp GCNQSDĐ rất thấp như Tuy An cấp được 11 giấy với diện tích 7,73ha đạt 8%, Đông Hoà cấp được 5 giấy với diện tích 49,56ha đạt 5%.
Được biết, Phú Yên có 1.956 ha đất nuôi trồng thủy sản cần được cấp GCNQSDĐ cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào việc nuôi trồng thủy sản.
NGUYÊN TRƯỜNG
Bến tre: Trình diễn mô hình nuôi tôm sú sử dụng vi sinh
Nguồn tin: BTre, 05/10/2007
Ngày cập nhật: 7/10/2007
Trung tâm khuyến ngư Bến tre đã xây dựng thành công mô hình trình diễn nuôi tôm sú sử dụng vi sinh. Đây là quy trình nuôi tôm sú thâm canh có trang bị hệ thống oxy và sử dụng hoàn toàn men vi sinh được thực hiện ở xã Vĩnh An và xã An Hoà Tây, huyện Ba Tri. Sau 101 đến 112 ngày nuôi ở mật độ 40 con/m2, năng suất thu được từ 10 đến12 tấn/ha, cỡ tôm từ 37 đến 38 con/kg. Quy trình này có những ưu điểm như các chỉ tiêu môi trường luôn ổn định, tôm phát triển khá đều, chi phí sản xuất giảm từ 10 đến 20% do hạn chế tối đa việc xử lý khí độc, gây màu nước và xử lý các bệnh nhiễm khuẩn. Đây là mô hình cần được nhân rộng vừa đem laị hiệu quả kinh tế vừa góp phần bảo vệ môi trường.
Trần Tâm
Nuôi và xuất khẩu cá tra, basa bền vững: Tìm giải pháp, nhưng quan trọng là thực thi
Nguồn tin: SGGP, 04/10/2007
Ngày cập nhật: 6/10/2007
Sự phát triển nhanh và quá nóng của con cá tra, ba sa Việt Nam không chỉ làm cho nhà quản lý trong nước lo ngại về vấn đề môi trường, xã hội mà còn gây chú ý của Quỹ Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (WWF). Vì vậy, lần đầu tiên, một cuộc đối thoại về nuôi cá tra, basa do WWF tổ chức với sự tham dự của nhà sản xuất, kinh doanh, nhà khoa học, các tổ chức phi lợi nhuận, nhà đầu tư... nhằm tìm giải pháp tối ưu cho nuôi cá tra, basa bền vững đã diễn ra tại TPHCM cuối tháng 9 vừa qua.
10 năm - diện tích tăng 7 lần, sản lượng tăng 36,2 lần... và ô nhiễm
Từ 1997 đến 2006, diện tích nuôi cá tra, ba sa tăng 7 lần (từ 1.200 ha lên 9.000 ha), sản lượng tăng 36,2 lần (từ 22.500 tấn lên 825.000 tấn), sản phẩm chế biến xuất khẩu tăng hơn 40 lần (từ dưới 20 triệu USD lên 736,8 triệu USD (chiếm gần 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu 3 tỷ USD của ngành thủy sản).
Nhưng cùng với diện tích nuôi mở rộng là việc đua nhau xây dựng nhà máy chế biến mà không chú ý đến việc xử lý nước thải, gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường.
Trước tình trạng diện tích nuôi cá tra, ba sa tăng mạnh, dọc ven bờ sông Tiền và sông Hậu, các nhà khoa học thuộc nhiều viện, trường bày tỏ lo ngại về sức tải sinh học của sông Cửu Long. Nghiên cứu của Đại học Cần Thơ nhận định, ô nhiễm toàn vùng do nuôi trồng thủy sản chưa xảy ra, nhưng ô nhiễm tại vùng nuôi tập trung hiện nay là rất cao.
Sự phát triển ồ ạt và tự phát nuôi cá tra, ba sa không còn ở thượng nguồn (An Giang, Đồng Tháp) mà đã lan xuống các tỉnh gần cửa sông như Cần Thơ, Hậu Giang, Trà Vinh, Bến Tre… Không chỉ vậy, do nuôi với mật độ dày đặc, cả trên diện tích cây ăn trái trước đây, đồng thời lấn dòng gây ảnh hưởng đến dòng chảy, dẫn đến nguy cơ sạt lở nhiều khu vực.
Theo Tiến sĩ Khoa học Lê Huy Bá, Viện KH Công nghệ và quản lý môi trường (Đại học Công nghiệp TPHCM), đã đến lúc phải đánh giá khả năng chịu tải hệ sinh thái lưu vực sông Cửu Long, bằng cách phân vùng nghiên cứu để đánh giá từng lưu vực nhỏ, từ đó xác định khả năng chịu tải của toàn lưu vực.
Diện mạo đã khác xa so với trước đây
Tiến sĩ Flavio Corsin, cố vấn cao cấp của WWF cho biết: “Nuôi cá tra, basa là một trong những hình thức nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh nhất hiện nay trên thế giới. Điều cấp thiết là phải giảm thiểu tác động việc nuôi với môi trường và xã hội, trong lúc vẫn đảm bảo đáp ứng nhu cầu thị trường”.
Theo FAO (Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc), tổng sản phẩm toàn cầu cá tra, basa năm 1995 là 10.000 tấn, năm 2005 là 440.000 tấn, nhưng riêng VN năm nay đạt khoảng 1 triệu tấn. Mức tăng trưởng quá “nóng” này là mối lo ngại về tính bền vững của việc phát triển cá tra, basa ở VN, đặc biệt là về phương diện môi trường và xã hội. Theo khảo sát của NGO (các tổ chức phi chính phủ), hầu hết người nuôi cá tra, basa hiện nay đang khai thác cạn kiệt nguồn nước, đất; sử dụng hóa chất, thuốc trị bệnh cho cá làm phá hủy hệ sinh thái...
Ông Flavio Corsin nhấn mạnh, vấn đề đặt ra là làm thế nào để xây dựng cho được các tiêu chuẩn trên cơ sở xác thực một ngành mà diện mạo nó đã khác xa so với thời điểm trước đây, nhằm hạn chế tối thiểu tác động lên tài nguyên nước. Ông Ngô Phước Hậu, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản VN đưa ra nhận xét, hiện nay cả nước có từ 70 - 80 nhà máy, hơn 100 nhà sản xuất cá tra, basa nhưng chất lượng không đồng nhất do chưa có một tiêu chuẩn cụ thể nào quy định cho đầu ra của sản phẩm này. Mâu thuẫn giữa người sản xuất tiểu nông, phân tán với lực lượng sản xuất quy mô lớn ngày càng cao.
Do vậy, cần sớm xây dựng tiêu chuẩn cho sản phẩm, quy hoạch các vùng nuôi tập trung, chuyển mạnh sang sử dụng thức ăn công nghiệp, giảm chi phí sản xuất, ứng dụng vaccine và công nghệ sinh học chữa bệnh cho cá, hạn chế chất thải gây ô nhiễm môi trường...
Công Phiên - Lê Long
Theo ông Nguyễn Tử Cương, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng và An toàn vệ sinh thú y thủy sản, vai trò của nhà nước trong việc xây dựng những tiêu chuẩn chung cho sản xuất cá tra, basa bền vững là rất quan trọng, thông qua việc xây dựng hệ thống văn bản pháp quy quản lý nuôi cá tra, basa (từ con giống, thức ăn đến tiêu thụ sản phẩm); thực hiện chứng nhận (các tiêu chuẩn) liên thông giữa các quốc gia nuôi cá tra, basa trên thế giới; đưa ra nhận xét, dự báo. Với nhà kinh doanh cần tạo chuỗi liên kết sản xuất thông qua liên hiệp sản xuất, đào tạo và quản lý an toàn thực phẩm trong chuỗi cung cấp nguyên liệu cho nhà máy... Nhưng điều quan trọng hơn là những quy định và tiêu chuẩn này phải được thực thi một cách nghiêm túc.
Hậu Giang: Sinh sản nhân tạo thành công lươn giống
Nguồn tin: SGGP, 05/10/2007
Ngày cập nhật: 6/10/2007
Sở Nông nghiệp – Phát triển nông thôn Hậu Giang cho biết, sau thời gian nuôi vỗ béo và áp dụng kỹ thuật sinh sản nhân tạo, 500 con lươn bố mẹ đã sinh sản lứa đầu tiên, với 7.000 con lươn bột, tỷ lệ sống 70%. Hiện lươn giống đạt kích cỡ 15 – 22cm. Thành công này mở ra triển vọng lớn cho nghề nuôi lươn tại ĐBSCL vì trước nay, người ta chỉ nuôi lươn giống có trong tự nhiên, tỷ lệ sống thấp, lại không có nhiều.
Thảo An
Tạo nguyên liệu sạch trên vùng “đất chết”
Nguồn tin: CT, 4/10/2007
Ngày cập nhật: 5/10/2007
Vùng Tứ giác Long Xuyên bị phèn nặng, rất khó khăn trong canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Ấy thế mà nhiều doanh nghiệp lại đổ xô đến nuôi tôm sạch ngay trên vùng “đất chết” này...
TÔM SỐNG TRÊN VÙNG “CÁ BƠI NỔ MẮT”
Công ty Đầu tư phát triển sản xuất Hạ Long được xem là táo bạo khi chọn vùng đất phèn nặng, hoang hóa đầu tư nuôi tôm công nghiệp quy mô lớn. 1.230 ha đất ở Tứ giác Long Xuyên thuộc xã Phú Mỹ, huyện Kiên Lương (Kiên Giang) được công ty này lập dự án thuê làm ao nuôi. Đến nay, hơn 2/3 diện tích đã được cải tạo sử dụng, trong đó 650 ha nuôi tôm công nghiệp, cho năng suất bình quân 8-9 tấn/ha, có ao đạt đến 12 tấn/ha. Ông Đoàn Quốc Việt, Tổng Giám đốc công ty, cho biết: “Công ty phải sử dụng các công nghệ sinh học trong việc xử lý ao nuôi và mở hệ thống các tuyến kinh để chủ động và xử lý nguồn nước. Vì vậy, suốt 6 năm triển khai dự án, công ty chưa gặp một sự cố nào ảnh hưởng đến năng suất tôm...”. Công ty cũng đã tập hợp lực lượng kỹ sư chuyên ngành và hơn 1.000 lao động làm việc tại ao nuôi. Ngoài ra, công ty này còn áp dụng mô hình sản xuất khép kín. Công ty đã đầu tư trại tôm giống tại Phú Quốc, vừa phục vụ nguồn giống nuôi ở Kiên Lương, vừa cung cấp con giống cho người nuôi tôm tại Kiên Giang và ĐBSCL. Toàn bộ nguyên liệu được chuyển về nhà máy của công ty đặt tại Cảng cá Tắc Cậu huyện Châu Thành để chế biến xuất khẩu sang các thị trường khó tính là Nhật, EU và Mỹ.
Theo sau đó là Công ty cổ phần Phát triển thủy sản Toàn Cầu với 2 dự án nuôi tôm công nghiệp bằng qui trình công nghệ sinh học đang được thực hiện tại Tà Xăng và Xà Ngách (Kiên Lương). Quy mô 300 ha đất thuê nuôi tôm được đầu tư hệ thống ao lọc nước thô và ao lọc nước tinh, nên chủ động nguồn nước sạch nuôi tôm. Ngoài ra, còn có hệ thống xử lý nước thải trong quá trình nuôi trồng trước khi trả lại môi trường, không gây ảnh hưởng đến qui trình nuôi kế tiếp. Năng suất tôm nuôi đạt 6 tấn/ha được xem là cao tại vùng nuôi tôm Kiên Lương, vì đã gấp 2 lần so với năng suất nuôi tôm công nghiệp.
Mới đây, 2 dự án nuôi tôm công nghiệp cũng đã được duyệt để đầu tư vào vùng Tứ giác Long Xuyên. DNTN Đông Thuận và DNTN Hồng Ngọc đầu tư 34,7 tỉ đồng xây dựng vùng nuôi trên diện tích 195 ha. Đây là vùng đất hoang hóa, trồng cây kém hiệu quả được chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất. Theo tính toán, 2 doanh nghiệp này sẽ cung cấp khoảng 800 tấn tôm sạch nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
Giải pháp sử dụng công nghệ sinh học để nuôi tôm tại vùng Tứ giác Long Xuyên bước đầu đã khẳng định được hiệu quả bền vững, biến vùng đất hoang hóa và phèn nặng “cá bơi nổ mắt”, “vịt lội teo chân” thành vùng nuôi trù phú. Trong chuyến khảo sát mới đây, Bộ NN&PTNT rất đồng tình với việc phát triển vùng nuôi tôm tại khu vực Tứ giác Long Xuyên thuộc thị xã Hà Tiên và 2 huyện Kiên Lương, Hòn Đất. Đại diện Bộ NN&PTNT cho rằng: “Nuôi tôm công nghiệp bằng công nghệ sinh học mà Kiên Giang đang phát triển là mục tiêu bền vững, thân thiện với môi trường. Tại đây có thể phát triển thành vùng nuôi tôm sú nguyên liệu sạch mang tầm khu vực và thế giới”.
XÂY DỰNG VÙNG NGUỒN NGUYÊN LIỆU SẠCH
Tôm sạch hiện đang là nhu cầu bức xúc của các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhất là lúc nhiều lô hàng xuất khẩu từ Việt Nam bị kiểm tra nhiễm kháng sinh, dư lượng hóa chất vượt mức cho phép ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp và mặt hàng thủy sản Việt Nam. Kiên Giang đang chủ trương mở rộng và phát triển các khu cụm công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu với nhiều cơ chế ưu đãi đầu tư. Vì vậy, phát triển diện tích nuôi tôm sạch là điều cần thiết, nhằm cung cấp nguồn nguyên liệu có kiểm soát cho doanh nghiệp chế biến. Vùng đất hoang hóa của Tứ giác Long Xuyên được chủ trương chuyển đổi rất lý tưởng vì quy mô lớn và chủ động quy hoạch hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm.
Phát triển theo xu hướng này, Kiên Giang ưu tiên và đãi ngộ đầu tư với các doanh nghiệp đầu tư nuôi tôm sạch trên quy mô lớn. Doanh nghiệp thuê mặt bằng nuôi trồng thủy sản được miễn tiền thuê đất, mặt nước (sông và biển) trong thời gian xây dựng cơ bản và tiếp tục miễn 11 năm tiếp theo kể từ ngày đưa cơ sở vào hoạt động. Chính sách cởi mở và môi trường đầu tư tốt đã hấp dẫn được doanh nghiệp đầu tư. Hiện nay, Chính phủ đã đồng ý chủ trương xây dựng khu công nghiệp tại xã Thuận Yên, thị xã Hà Tiên. Theo quy hoạch, khu công nghiệp này sẽ hình thành trong giai đoạn 2010-2015. Đây là tín hiệu vui cho vùng nuôi tôm tại Tứ giác Long Xuyên thuộc Hà Tiên và Kiên Lương.
Kiên Giang hiện có gần 100.000 ha nuôi trồng thủy sản, trong đó có khoảng 1.500 ha nuôi theo hình thức công nghiệp và bán công nghiệp. Nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước xin đầu tư khoảng 10.000 ha nuôi tôm sạch theo lộ trình đến 2010. Bộ NN&PTNT đề nghị Kiên Giang phải lập quy hoạch tổng thể vùng nuôi và lấy ý kiến đóng góp của các nhà đầu tư, nhà khoa học để có hướng phát triển tốt nhất. Đồng thời, vận động nông dân trong vùng quy hoạch và chuyển giao quy trình nuôi tôm bằng công nghệ sinh học. Hiện nay, Bộ NN&PTNT đồng ý cung ứng vốn cho Kiên Giang thực hiện dự án thủy lợi trọng điểm Vàm Răng-Ba Hòn phục vụ 15.000 ha nuôi tôm công nghiệp tại khu vực này...
THÀNH NGUYỄN
Làm giàu với con cá lóc
Nguồn tin: CT, 28/9/2007
Ngày cập nhật: 5/10/2007
Ông Trần Văn Khước (Năm Khước) ở phường Mỹ Thạnh, TP Long Xuyên (An Giang) nói rằng ông có duyên nợ với con cá lóc, đến nỗi nhiều đêm nằm ngủ ông thường mơ thấy... cá lóc. Vì thế, dù nhiều phen lận đận với giống cá này nhưng ông vẫn không bỏ nghề nuôi cá lóc (mà giờ đây ông cho rằng đó là cái nghiệp). Và con cá lóc đã không phụ người: từ một anh bộ đội phục viên nghèo xác xơ ông Năm Khước nay đã có cơ ngơi khang trang được gầy dựng từ cá lóc.
GIAN NAN LẬP NGHIỆP
Đến khóm Đông Thạnh A, phường Mỹ Thạnh, TP Long Xuyên hỏi ông Năm Khước nuôi cá lóc hầu như ai cũng biết. Cơ sở của ông nằm heo hút trong hẻm sâu. Thoạt nhìn thấy căn chòi lá tạm bợ và mấy ao nuôi cá lóc (vốn đã theo ông suốt quãng đời lập nghiệp), nhiều người dễ nghi ngờ về chuyện ông Năm Khước làm giàu từ con cá lóc. Nhưng hỏi ra mới biết, ông có một căn nhà khang trang, khá to nằm gần mặt tiền đường Trần Hưng Đạo - căn nhà được xây dựng từ tiền nuôi cá lóc.
Ông Năm Khước sinh năm 1954 trong một gia đình nông dân, đã từng tham gia cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Khi đất nước thống nhất, ông giã từ quân ngũ trở về nhà và dự tính trở lại nghề nông. Thế nhưng, gia đình đông anh em, lại ít đất nên Năm Khước chuyển hướng sang mở quán cà phê. Lúc này, mới giải phóng nên đời sống người dân còn khó khăn, nghề bán cà phê không đủ lo cho gia đình. Ngày qua tháng lại, những đứa con lần lượt ra đời, gánh nặng gia đình thêm chồng chất. Vậy là, Năm Khước phải đi làm mướn. Lúc đầu là phụ hồ, sau đó trở thành thợ chính. Nhưng nghề làm mướn cũng không thể giúp gia đình có cuộc sống khá hơn. Ông Năm Khước nhớ lại: “Lúc đó, cuộc sống quá khó khăn, nghề thợ hồ không ổn định vì người ta ít xây dựng. Con thì ngày một lớn, nên tôi suy nghĩ và quyết định phải đổi nghề thì mới có thể lo cho cuộc sống gia đình”. Nhưng đổi sang nghề gì là bài toán hóc búa với ông Năm Khước lúc đó.
“BÉN DUYÊN” VỚI CON CÁ LÓC
Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, phong trào chơi kiểng bỗng phát triển rầm rộ. Vốn có nghề thợ hồ nên ông Năm Khước quyết định theo học nghề làm chậu kiểng. Với tính ham học hỏi, ông đã lĩnh hội rất nhanh những tuyệt chiêu trong nghề. Chính nghề làm chậu kiểng đã giúp ông nuôi sống gia đình và tích vốn làm ăn sau này.
Đang làm chậu kiểng kiếm được tiền cũng kha khá, bỗng dưng ông Năm Khước quyết định mua 2 công đất đào ao nuôi cá. Nhưng chuyện làm nhiều người ngạc nhiên hơn là giữa lúc phong trào nuôi cá tra phát triển rầm rộ, ông lại thả nuôi... cá lóc. Ông nói: “Con cá tra đúng là mang lại lợi nhuận lớn, nhưng do nuôi đại trà có lúc cung vượt cầu nên nhiều người cũng điêu đứng. Tại sao mình không tìm con cá khác thả nuôi để tránh cảnh dội chợ thất giá?”. Vậy là, ông quyết định dùng 2 công đất - lúc đó là cả gia sản sau những tháng ngày dành dụm- để nuôi cá lóc như đánh một canh bạc. Ông suy tính: “Không đột phá thì không thể làm giàu. Lúc đó đúng là mạo hiểm khi mình tay ngang chưa hiểu gì về nghề nuôi cá lóc. Nhưng có ai thành công mà không có thất bại?”.
Nói vậy chứ ông cũng tìm hiểu cặn kẽ kỹ thuật nuôi rồi mới quyết định chọn cá lóc để nuôi. 15.000 con giống đợt đầu tiên được thả xuống lớn dần theo mong mỏi từng ngày của cả gia đình. Những ngày này, ông Năm Khước hầu như quên ăn, quên ngủ. Ông theo ao cá suốt để cho cá ăn, thay nước, xem cá có bệnh không ... Không phụ công chăm sóc của ông, đàn cá lớn nhanh và rất ít bị bệnh. Lứa cá đầu, ông xuất bán lời hơn 10 triệu đồng. Đến lứa thứ hai, ông thả số lượng tăng gấp đôi, lại thắng lớn: thu lãi hơn 30 triệu đồng sau khi trừ tất cả chi phí.
“Tích thiểu thành đa”, ông Năm Khước quyết định mua thêm gần 1 ha đất tại TP Long Xuyên để mở rộng cơ ngơi nuôi cá, quyết gắn bó lâu dài với con cá lóc. Nhưng để có vốn trong quá trình nuôi cá phải tìm cách tiết kiệm triệt để. Vậy là, ông quyết định mạo hiểm thay dầu bơm bằng mỡ cá để tiết kiệm chi phí bơm nước. Ông cho biết: “Gần đây, chuyện về dầu mỡ cá bị pha trộn làm hư máy, nhiều người lo lắng nhưng tôi đã bơm nước bằng mỡ cá cách đây hơn chục năm. Tuy nhiên, phải biết cách mới giữ máy được lâu”. Theo kinh nghiệm của ông Năm Khước, phải thắng cho mỡ cá hết nước thì máy chạy mới êm và không hư béc dầu. Đặc biệt, phải khởi động máy cho chạy bằng dầu vài phút, sau đó máy được bôi trơn thì đổ mỡ cá vào là chạy êm ru, máy không hỏng giữa chừng. Ông nhẩm tính: “Nếu chạy bằng mỡ cá thắng, sau một vụ cá có thể lời được một chiếc Wave Alpha”.
KHÉP KÍN QUY TRÌNH
Nói vậy chứ ông Năm Khước cũng nhiều bận lao đao vì con cá lóc. Trước hết là con giống. Ông cho biết: “Muốn mở rộng chăn nuôi phải có nhiều giống mà phải là giống tốt. Nhưng để có đủ giống tốt đâu có dễ dàng. Mỗi khi vào vụ, tôi phải chạy tìm hết nơi này đến nơi khác, có khi cũng không đủ giống. Muốn phát triển nghề, không có cách nào khác là phải khép kín quy trình mới bảo đảm sản xuất có hiệu quả”. Vậy là, ông Năm Khước có thêm nghề sản xuất cá lóc giống.
Ngay vụ đầu tiên, ông đã sản xuất thử nghiệm thành công với hơn 50.000 con giống cá lóc thả nuôi. Những vụ sau, ông tăng dần số lượng và sau 2 năm sản xuất cá lóc giống, đến nay có rất nhiều mối từ Vũng Tàu, Đồng Tháp... đến tìm ông Năm Khước đặt mua cá giống. Nhưng rồi, chuyện đầu ra sản phẩm, giá cả thị trường cũng làm ông mấy phen lận đận. “Trong cái khó ló cái khôn”, ông quyết định theo học nghề làm khô cá lóc. Ông nói: “Đang nuôi cá mà học làm khô đối với nhiều người rất kỵ. Nhưng thời buổi kinh tế thị trường phải làm thế nào khép kín được quy trình, bảo đảm hàng hóa chất lượng để bán có giá mới mong thắng được. Nghĩ vậy nên tôi hổng ngại”.
Cũng từ đó, nhiều cơ sở làm khô bên huyện Chợ Mới bắt đầu in dấu chân của ông Năm Khước. Hết lò này đến lò khác, ông tranh thủ học các bí quyết làm khô cá lóc để tránh bị thương lái ép giá. Bởi vì, giá cá lóc có thể xuống nhưng giá khô cá lóc thì ít khi xuống. Sau một năm lặn lội hết nơi này đến nơi khác, ông Năm Khước học được nghề làm khô cá lóc. Còn nhớ vụ cá năm 2006, giá cá lóc giảm đến mức dưới 12.000 đồng/kg. Nhờ làm khô cá lóc mà ông thắng lớn.
Sau bao gian nan với nghiệp nuôi cá lóc, gia đình ông Năm Khước đã thật sự đổi đời. Từ chỗ hàng ngày phải đi làm thuê làm mướn, thiếu trước hụt sau, nay ông Năm Khước đã có được căn nhà khang trang ở trung tâm TP Long Xuyên và ngày càng tích lũy vốn để mở rộng cơ sở nuôi cá lóc. Bây giờ, mỗi năm ông xuất bán gần 100 tấn cá lóc. Dù giá cá trên thị trường có biến động tới đâu nhưng nhờ có quy trình khép kín này nên ít nhất ông cũng có lãi khoảng 100 triệu đồng. Nhưng ông Năm Khước chưa dừng lại ở đó. Ông đang có dự định đầu tư cả tỉ đồng để mở trang trại nuôi cá lóc.
BÌNH NGUYÊN
Hỗ trợ trên 253.000 con cá giống nước ngọt cho các xã miền núi
Nguồn tin: Ninh Thuận, 03/10/2007
Ngày cập nhật: 5/10/2007
Thực hiện Chương trình hỗ trợ giống Thủy sản, vừa qua Trung tâm Khuyến ngư tỉnh đã chuyển giao 253.050 con giống cá nước ngọt (kinh phí trên 90 triệu đồng) cho 302 hộ dân các xã miền núi thả nuôi với tổng diện tích 26,4 ha. Trong đó có 191 hộ dân huyện Ninh Sơn (nhận 175.500 con giống), 80 hộ dân huyện Thuận Bắc (62.950 con giống) và 31 hộ dân huyện Bác Ái (14.600 con giống). Các giống cá được phân phối gồm có: Chép, điêu hồng, trôi, trê lai…
Mục đích hỗ trợ giống cá nước ngọt nhằm giúp đồng bào miền núi giải quyết nguồn thực phẩm tại chỗ, khai thác được nghề nuôi cá trong các ao hồ chứa, tạo thêm công việc làm và góp phần cải thiện đời sống.
B.T, Báo Ninh Thuận
Yên Bái: Cá Trắng bạc xuất hiện trên hồ Thác Bà
Nguồn tin: Fistenet, 4/10/2007
Ngày cập nhật: 5/10/2007
Trong những ngày vừa qua, cá Trắng bạc xuất hiện khá nhiều trên vùng hồ Thác Bà, bà con ngư dân trên hồ đánh bắt được chủ yếu qua việc dùng vó lưới mắt dày kết hợp với ánh sáng đèn. Theo một chủ buôn bán cá tại thành phố Yên Bái cho biết, số lượng cá thu mua được cao, thấp tuỳ theo từng ngày, nhưng ngày cao điểm nhất trong thời gian vừa qua lên đến 50 kg, giá bán trên thị trường Yên Bái hiện nay dao động từ khoảng 60 – 70 ngàn đồng/kg.
Được biết đây là loài cá có giá trị kinh tế cao được tỉnh Yên Bái cho phép di nhập thả vào hồ Thác Bà từ năm 2002, với mục tiêu tạo ra đối tượng nuôi có giá trị kinh tế và có khả năng xuất khẩu để nâng cao hiệu quả trong việc khai thác, sử dụng tiềm năng mặt nước hiện có ở hồ Thác Bà phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, tạo công thêm công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho nhân dân vùng hồ.
Qua tìm hiểu được biết năm 2005 và năm 2006 đã xuất hiện loại cá này trên hồ Thác Bà nhưng số lượng không nhiều như năm nay, theo nhận định của người dân loại cá này có khả năng sẽ tăng nhanh ở hồ Thác Bà theo cấp số nhân, vì vậy trong thời gian tới tỉnh Yên Bái cần đưa ra những định hướng trong việc bảo vệ và phát triển cũng như khai thác loài cá này trên hồ Thác Bà.
Nguyễn Văn Trường
Bộ Thuỷ sản hướng dẫn cách neo đậu tàu thuyền, lồng bè thủysản
Nguồn tin: VTV, 3/10/2007
Ngày cập nhật: 4/10/2007
Rút kinh nghiệm từ những thiệt hại do việc neo đậu tàu thuyền sai quy cách trong cơn bão Linda, Bộ Thuỷ sản đã có hướng dẫn như sau:
Đối với tàu thuyền nhỏ tại những địa điểm có điều kiện kéo lên bờ tránh bão, tuyệt đối không neo đậu tại các bãi ngang. Đối với những địa điểm không đưa được tàu thuyền lên bờ, cần di chuyển vào sâu trong sông, rạch để tránh bão.
Đối với tàu thuyền lớn, phải bổ sung 2 dây chằng buộc lái, 2 dây chằng buộc mũi và neo đậu theo hướng thẳng góc với bờ, khoảng cách từ chiếc nọ sang chiếc kia phải đủ rộng để tránh va đập nhau.
Trước khi neo đậu, cần kiểm tra và chằng buộc chắc chắn các cửa, nắp hầm hàng. Kiểm tra lại hệ thống dây neo, đảm bảo dây neo đúng kích cỡ và chiều dài theo quy định (dây neo cần có đường kính thước tối thiểu đường kính >18 mm và chiều dài không dưới 2 lần chiều dài thân tàu).
Khi neo đậu trên sông, rạch cần chú ý nơi khuất gió, quan sát hướng thả neo cho phù hợp, tốt nhất là theo hướng dọc sông, ngược chiều gió - cách bờ một khoảng > 30m.
Đối với tàu cá neo đậu trong các khu âu thuyền tránh trú bão, cần dãn khoảng cách neo đậu và thả neo dự phòng, giữ khoảng cách hợp lý giữa các tàu nhằm tránh va đập.
Tuyệt đối không neo đậu tàu theo hướng song song với bờ, vì ở tư thế này tàu thuyền rất dễ bị sóng đánh thẳng vào mạn làm lật úp. Nên thả cả neo đáy và neo bờ để giữ cho tàu, thuyền cố định ở một vị trí. Nên sử dụng lốp xe hơi cũ treo ở thành tàu và cả ở mạn và ở mũi để hạn chế sự va đập vào nhau và vào cầu tàu.
Với các bè cá trên sông, hồ cần gia cường chắc chắn. Kiểm tra và bổ sung hệ thống chằng buộc và neo đảm bảo chắc chắn. Với các lồng bè nuôi ven biển phải gia cố thêm neo hoặc di chuyển tới nơi an toàn.
Chằng chống nhà cửa thế nào?
Để hạn chế thiệt hại đối với nhà ở trước khi bão đến, Bộ Xây dựng đã đưa ra một số biện pháp đơn giản hướng dẫn bà con cách chằng chống nhà cửa như sau:
- Đối với mái bằng tranh ngói, có thể dùng liếp với khoảng cách cắt ngang 20cm để chặn lên mái.
- Đối với mái pro hoặc mái tôn, dùng các cây tre đặt dọc nhà để thay các tấm liếp, phía trên liếp hoặc các cây tre đặt dọc nhà chặn lại bằng các vì kèo chữ A được liên kết tại đỉnh bằng con xỏ. Trên đầu nóc đặt một cây tre dọc mái để liên kết vì kèo chữ A. Toàn bộ hệ mái được neo xuống đất bằng dây neo, bằng thép phi 4 hoặc phi 5. Chân dây neo đóng cọc tre sâu 1-1,5 mét. Khi buộc dây neo, chú ý buộc thật căng để có thể phát huy tác dụng khi chống bão.
- Đối với nhà cổ truyền có thể thay dây neo bằng tre đực chống vào mép kèo, những cây tre đó được đứng vào cột biên bằng dây thép thông qua xà dọc và con xỏ, chân cột chống được liên kết xuống đất bằng 2 cọc tre đóng sâu 1-1,5m và liên kết vào cây chống bằng con xỏ.
- Đối với cửa sổ, cửa đi, phải đóng chặt, đóng kín để chống gió luồn vào nhà.
Bão số 5: Bình Thuận: hơn 74ha ao đìa thủy sản sạt lở
Nguồn tin: TT, 4/10/2007
Ngày cập nhật: 4/10/2007
Theo báo cáo nhanh của Ban Chỉ huy phòng chống lụt bão Bình Thuận, hiện các khu vực ven sông La Ngà thuộc hai huyện Tánh Linh, Đức Linh và một số xã vùng hạ lưu sông Phan (Hàm Thuận Nam), sông Dinh (Lagi)… vẫn còn bị đe dọa bởi lũ thượng nguồn tràn về từ ba ngày qua.
Thống kê ban đầu cho biết đã có ít nhất trên 10.200 ha lúa (chủ yếu đang trong giai đoạn đẻ nhánh), hoa màu ở ba huyện Tánh Linh, Đức Linh, Bắc Bình bị ngập sâu trong nước, khả năng mất trắng rất lớn. Mưa lũ quá lớn đã làm sập một căn nhà ở huyện Bắc Bình, phá hỏng: bốn trạm bơm, 15 lò gạch, gần 200 giếng nước; khoảng 21km đường giao thông, trên 31.000m3 đất kênh mương, hơn 74ha ao đìa thủy sản sạt lở và làm chết 19 con bò… Sơ bộ tổng thiệt hại do đợt mưa lũ này lên đến gần 7 tỉ đồng.
LÊ TRƯỜNG
Cà Mau: trên 38,6 tỉ đồng đầu tư thủy lợi, xây dựng cơ bản phục vụ ngành thủy sản
Nguồn tin: CRTV, 2/10/2007
Ngày cập nhật: 3/10/2007
Theo sở thuỷ sản tỉnh Cà Mau: Năm 2007, tỉnh đã phân bổ nguồn vốn trên 38,6 tỉ đồng đầu tư thủy lợi và xây dựng cơ bản phục vụ cho ngành thủy sản.
Trong đó, trên 19 tỉ đồng để thực hiện 56 dự án đầu tư hạ tầng nuôi trồng và giống thủy sản; 8,5 tỷ đồng cho 3 dự án: xây dựng cảng cá Sông Đốc, cảng cá Hòn Khoai, cơ sở hạ tầng cho Hòn Chuối và 11 tỉ đồng xây dựng các khu tránh trú bão.
Tuy nhiên, công tác quản lý các dự án trên hiện đang gặp nhiều vướng mắc như: tiến độ thực hiện giải ngân các dự án còn chậm, một số nhà thầu đơn vị tư vấn không đảm bảo năng lực dẫn đến thi công kéo dài, công tác xử lý chậm; việc giải phóng mặt bằng một số nơi còn khó khăn, một số chủ đầu tư còn lúng túng trong quản lý dự án cho phù hợp với qui định mới của chính phủ./.
PV: Kiên Giang
Ấp nở thành công ba giống cá tầm: cá tầm Nga, cá tầm Siberi và cá tầm Chelet
Nguồn tin: ND, 2/10/2007
Ngày cập nhật: 3/10/2007
Ðược sự hướng dẫn và chuyển giao công nghệ của các chuyên gia người Nga, Công ty Hà Quang đã cho ấp nở hai đợt với ba giống cá tầm: cá tầm Nga, cá tầm Siberi và cá tầm Chelet với tổng số cá con đang được nuôi tại trại là 100 nghìn con.
Sau hơn năm tháng triển khai dự án nuôi cá tầm, số cá con được ấp nở tại hồ Tuyền Lâm (TP Ðà Lạt, tỉnh Lâm Ðồng) đều sinh trưởng, phát triển tốt, có trọng lượng cá con đạt bình quân 300 gram/con.
Cùng với việc ấp nở thành công các giống cá tầm, Công ty Hà Quang cũng nhập về 400 con cá tầm, loại hai kg/con và sau bốn tháng nuôi, trọng lượng cá đã đạt từ sáu đến 10 kg/con. Ðây là mức phát triển nhanh nhất so với tốc độ tăng trưởng của giống cá này trên thế giới.
Việc ấp nở thành công các giống cá tầm và nuôi cá tầm phát triển nhanh tại Ðà Lạt, như vậy mở ra triển vọng mới cho ngành nuôi cá nước lạnh ở Lâm Ðồng và những vùng khác trong cả nước có điều kiện tự nhiên tương tự như ở Ðà Lạt (Lâm Ðồng).
Trà Vinh: Huyện Duyên Hải phát triển nghề nuôi nghêu
Nguồn tin: ND, 2/10/2007
Ngày cập nhật: 2/10/2007
Qua ba vụ nuôi thử cho thấy con nghêu rất thích nghi với vùng bãi bồi ven biển huyện Duyên Hải. Nuôi nghêu đạt được hiệu quả kinh tế khá cao, đồng thời tạo việc làm mới cho hàng nghìn lao động. Ðể tăng hiệu quả kinh tế cho người nuôi, Huyện ủy Duyên Hải vừa ra Nghị quyết về phát triển nghề nuôi nghêu trên địa bàn huyện đến năm 2010.
Tỉnh Trà Vinh có 65 km bờ biển. Hằng năm lượng phù sa từ sông Tiền Giang, sông Hậu Giang đổ về và của Biển Ðông bồi lắng tạo thành một vùng bãi bồi rộng lớn ven biển thích hợp cho các loài thủy sản, nhất là con nghêu. Riêng huyện Duyên Hải đã có diện tích bãi bồi lên đến 6.600 ha (trong 55 km bờ biển của huyện), trong đó có 2.960 ha có khả năng nuôi nghêu. Cách nay 10 năm, nhân dân các xã ven biển đã thí điểm nuôi nghêu ở vùng bãi bồi này. Nghêu phát triển tốt, nhưng không hiệu quả về kinh tế, do bị thất thoát và không chủ động được thị trường tiêu thụ.
Năm 2004, huyện Duyên Hải vận động được gần 800 thành viên để thành lập các tổ hợp tác và hợp tác xã nuôi nghêu ở các xã ven biển. Huyện đã huy động vốn từ các nguồn Chương trình 120, tổ chức Oxfam - Anh và các thành viên đóng góp được hơn 7,6 tỷ đồng để tiến hành nuôi nghêu trên 400 ha bãi bồi thuộc các xã: Hiệp Thạnh, Ðông Hải và Trường Long Hòa. Sau vụ nghêu này toàn huyện đã thu hoạch được gần 1.000 tấn sản phẩm, trị giá hơn 12,6 tỷ đồng, thu lợi hơn 6 tỷ đồng. Chỉ sau một vụ nuôi nghêu thắng lợi, vụ nuôi nghêu năm 2005 - 2006 diện tích nuôi nghêu ở huyện tăng thêm 250 ha, và có thêm hơn 200 thành viên mới tham gia các tổ nuôi nghêu. Tổng vốn đầu tư cho vụ này tăng gần gấp hai lần và tổng lợi nhuận thu về gần 10 tỷ đồng. Vụ nuôi nghêu năm nay, toàn huyện đã có gần 2.200 thành viên tham gia nuôi trên diện tích 1.660 ha với tổng nguồn vốn đầu tư hơn 42,5 tỷ đồng. Hiện nay, một số vùng đang thu hoạch nghêu, ước tính sơ bộ lợi nhuận từ vụ nghêu năm nay hơn 30 tỷ đồng.
Qua ba vụ nuôi cho thấy con nghêu rất thích nghi với vùng bãi bồi ven biển huyện Duyên Hải. Nuôi nghêu đạt được hiệu quả kinh tế khá cao, đồng thời tạo việc làm mới cho hàng nghìn lao động. Ðể khai thác hết vùng bãi bồi có khả năng nuôi nghêu và tăng hiệu quả kinh tế cho người nuôi, Huyện ủy Duyên Hải vừa ra Nghị quyết về phát triển nghề nuôi nghêu trên địa bàn huyện đến năm 2010. Theo đó, phấn đấu đến năm 2010 đưa toàn bộ diện tích bãi bồi có khả năng nuôi nghêu (2.960 ha) vào nuôi nghêu, và tăng lợi nhuận trên vốn đầu tư lên tỷ lệ 1/1. Trong các giải pháp để phát triển nghề nuôi nghêu bền vững, huyện chú trọng việc củng cố các tổ hợp tác và hợp tác xã nuôi nghêu vì công tác quản lý là khâu quyết định đến hiệu quả, lợi nhuận thu về. Việc quy hoạch sử dụng vùng bãi bồi, giao đất cho các tổ hợp tác, hợp tác xã quản lý khai thác cần được tiến hành nhanh, tạo sự yên tâm cho người nuôi nghêu, thu hút đầu tư vốn. Khi tăng diện tích nuôi, thì nhu cầu con giống cho mỗi vụ nuôi là rất lớn, điều đó khó tránh khỏi sự bị động về giá cả và chất lượng con giống. Việc tổ chức sản xuất, ương dưỡng con giống tại địa phương cần phải được triển khai sớm. Theo kế hoạch phát triển nghề nuôi nghêu này, đến năm 2010, sản lượng nghêu thu được hơn 15.000 tấn, vấn đề chế biến nghêu cũng cần được đặt ra để chủ động chế biến sản phẩm, đồng thời tạo thêm việc làm cho nhân dân địa phương.
Văn Bường
An Giang: Nuôi trồng thủy sản 2007 – mừng và lo
Nguồn tin: An Giang, 1/10/2007
Ngày cập nhật: 2/10/2007
Chưa bao giờ diện tích nuôi thủy sản ở An Giang lại tăng nhanh như năm 2007 này với gần 2.400 ha đang nuôi, trong đó quy mô và diện tích nuôi cá tra ở mức kỷ lục nhất với 1.286 ha, tăng gần 500 ha so với thời điểm đầu năm. Đây là tín hiệu đáng mừng cho sự phát triển của một ngành sản xuất được xác định là mũi nhọn, thay thế cho một số sản phẩm nông sản trong lĩnh vực nông nghiệp trong tương lai không xa, nhưng cạnh đó cũng không thể không lo khi môi trường nuôi trồng bò suy thoái; nhu cầu và chất lưông con giống và an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản... chưa được quan tâm đúng mức. Đó là chưa kể mối lo khi phát triển nhanh về số lượng, mà không tính đến khả năng tiêu thụ thì liệu giá cá có còn đứng ở mức cao như hiện nay. Vì thế, phải chăng mừng và lo luôn song hành trong nuôi trồng thủy sản ở An Giang nói riêng và ĐBSCL nói chung ?
Không phải bây giờ, mà trước đây vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản cũng đã nhiều lần gióng lên tiếng chuông báo động khi sản phẩm gặp những rào cản kỹ thuật tại thị trường EU. Giá cá sụt giảm, doanh nghiệp gặp khó khăn trong xuất khẩu đã giúp cho nhà quản lý, doanh nghiệp lẫn người nuôi có những bài học thấm thía cũng như có biện pháp phù hợp để khắc phục, trong đó đầu vào và đầu ra sản phẩm cá tra đã được chú trọng hơn. Từ đó, các doanh nghiệp tiến hành xây dựng vùng nuôi, mà mô hình sản xuất cá sạch của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản ra đời khẳng định con đường tất yếu phải liên kết, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, nhất là những thị trường khó tính như EU. Với hướng đi này, Liên hợp sản xuất cá sạch của Công ty Agifish được thành lập, gồm 5 nhóm thành viên: Nhà sản xuất; các ngư dân nuôi cá thương phẩm; nhà cung cấp thức ăn; cung cấp thuốc thú y thủy sản và các nhà chế biến. Từ đó, các bên cùng có lợi và ngư dân cũng yên tâm, không còn phập phồng chuyện biến động giá cả. Ông Phạm Văn Nẫm, ngư dân ở xã Long Giang, huyện Chợ Mới, thành viên của Liên hợp sản xuất cá sạch đã phấn khởi cho biết: "Trước đây, nuôi cá tra, basa thì lúc nào cũng lo lo, còn nuôi cá sạch thì chẳng bao giờ sợ thừa. Chúng tôi được hướng dẫn kỹ thuật nuôi; xem xét ưu tiên đầu tư vốn trong quá trình nuôi thông qua các hình thức cung cấp thức ăn, thuốc điều trị và nhất là ưu tiên ký kết tiêu thụ sản phẩm với công ty Agifish... Sau một vụ nuôi, trừ hết các chi phí người nuôi có thể lãi bình quân khoảng 400 triệu đồng/ha".
Thế nhưng, từ đầu năm đến nay, giá cá tra luôn ở mức cao, vì thế nên diện tích nuôi tăng nhanh trong một thời gian ngắn, khi người dân ồ ạt mua đất, thuê đất hoặc tận dụng ruộng vùng trũng để đào ao nuôi cá. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì diện tích đã đào ao nuôi cá một cách tự phát ngoài quy hoạch trong toàn vùng ĐBSCL có khoảng 1.000 ha, trong đó riêng An Giang 80 ha chỉ trong 6 tháng của năm 2007. Với thực tế phát sinh này thì có thể thấy quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản có nguy cơ bị phá vỡ; rất dễ xảy ra dịch bệnh do con giống kém chất lượng, ô nhiễm môi trường nước... Tại hội nghị ngành Thủy sản các tỉnh ĐBSCL mới đây, ông Ngô Phước Hậu, Phó Chủ tịch VASEP đã nhận định: "Đầu tư mà không có sự kiểm soát thì tất yếu sẽ dẫn đến việc bấp bênh trong tiêu thụ, ảnh hưởng trước hết là doanh nghiệp và người nuôi; còn môi trường xấu, ngư dân sử dụng kháng sinh nhiều, an toàn thực phẩm thủy sản không tốt thì cũng chính doanh nghiệp, ngư dân và cả công nhân cũng phải chịu hệ quả ngay, chứ không đợi đến mai kia".
Riêng đối với ngư dân, có thể thấy trước, việc phát triển diện tích nuôi cá tra quá nhanh, đầu tư cao cho sản xuất nhưng lại không chú ý đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, dẫn tới giá cá nguyên liệu phụ thuộc vào doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Khi đã ở tình trạng bấp bênh không ổn định, mối liên kết giữa người nuôi và người tiêu thụ sản phẩm chưa chặt chẽ thì rủi ro và thua lỗ luôn thường trực đối với người nuôi. Chỉ trong năm 2007 này, dù giá cá ở mức cao nhưng cũng lắm lúc người nuôi cũng phải thót tim, khi trong quý I có lúc giá cá đến 17.500 đồng/kg, nhưng đến cuối tháng 6 đầu tháng 7-2007 có lúc chỉ còn 11.000-11.500 đồng/kg ! Do đó, quy hoạch vùng nuôi chi tiết, có sự liên kết trong sản xuất và tiêu thụ (như liên hợp sản xuất cá sạch) và cả quy hoạch thị trường-là con đường tất yếu để nuôi trồng thủy sản ở An Giang tránh rơi vào trường hợp khi mừng khi lo !
BÍCH VÂN
Huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng): diện tích nuôi cá kèo tăng mạnh
Nguồn tin: Sóc Trăng, 28/09/2007
Ngày cập nhật: 2/10/2007
Sau vụ tôm sú trúng mùa, để đảm bảo nghề nuôi mang tính bền vững, nhiều hộ nuôi tôm sú ở Vĩnh Châu đã thả nuôi tiếp vụ cá kèo theo khuyến cáo của ngành chức năng. Hiện nay đã có 216 ha cá kèo đã được thả nuôi lại trên ao tôm và theo dự báo diện tích nuôi cá kèo sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Diện tích nuôi cá kèo tăng, kéo theo nhu cầu con giống tăng làm giá con giống đẩy lên đến mức 1,6 triệu đồng/kg, tức cao gấp đôi so với những năm trước. Tuy giá con giống và thức ăn có tăng, nhưng nhờ giá cá kèo thương phẩm ổn định ở mức cao, từ 70 ngàn đồng/kg trở lên, nên hiệu quả của vụ nuôi cá kèo là rất cao. Theo ước tính của những hộ nuôi, giá thành 1 kg cá kèo thương phẩm khoảng 35 – 40 ngàn đồng và năng suất bình quân từ 10 tấn/ha trở lên thì lợi nhuận từ 1 ha nuôi cá kèo sẽ không thua gì so với nuôi tôm sú.
Sóc Trăng: Sản lượng thủy sản đạt trên 81.000 tấn, tăng 5,67% so với cùng kỳ
Nguồn tin: ST, 28/09/2007
Ngày cập nhật: 2/10/2007
Nhờ phát huy tốt lợi thế vùng đất lợ, mặn nuôi tôm sú và ven sông Hậu nuôi cá tra; vùng đất ngọt nuôi cá trên ruộng lúa nên tình hình nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh ngày một phát triển mạnh, đem lại hiệu quả kinh tế cao và hình thành vùng nguyên liệu tập trung, đóng góp lớn cho sự tăng trưởng của ngành Nông nghiệp.
Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng đầu năm đạt 61.811 ha, tăng gần 3.000 ha so với cùng kỳ năm 2006. Sản lượng thủy sản đạt trên 81,499 tấn, bằng 63,67% kế hoạch.
Tuy nhiên việc sản xuất giống thủy sản chỉ đạt khoảng 1/5 nhu cầu cho các hộ nuôi trong tỉnh và đa số phải nhập con giống từ các tỉnh bạn; bên cạnh đó vẫn còn một số cơ sở sản xuất giống chưa đảm bảo về chất lượng. Ngành Nông nghiệp cũng đã tiến hành kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm đối với các cơ sở thu mua nguyên liệu, đại lý kinh doanh thuốc thú y thủy sản, sản xuất giống trên địa bàn, tập huấn về quy trình sản xuất giống sạch; các biện pháp phòng và trị bệnh tôm; mở 481 lớp tập kỹ thuật nuôi thủy sản cho 13.127 nông dân các huyện, thành phố. Nhờ đó, hạn chế được dự lượng hóa chất, chất kháng sinh trong mẫu tôm, cá, thức ăn, thuốc thú y thủy sản,....
Để việc phát triển nuôi cá tra hiệu quả và bền vững, ngành đã phối hợp với các đơn vị tư vấn điều chỉnh, bổ sung dự án quy hoạch nuôi cá nước ngọt ( cá tra, ba sa) ven sông Hậu, đồng thời hướng dẫn các địa phương lập quy hoạch chi tiết phát triển loài thủy sản này nhằm quản lý tốt vùng nuôi theo quy hoạch./...
Trang Hoàng Thọ
Khánh Hoà: Đa dạng hóa các loại hình nuôi thủy sản
Nguồn tin: KH, 29/09/2007
Ngày cập nhật: 1/10/2007
Theo Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Khánh Hòa, đến nay nghề nuôi thủy sản trong tỉnh phát triển mạnh, đối tượng nuôi ngày càng đa dạng, phong phú. Nuôi biển, ngoài các đối tượng truyền thống như: tôm hùm, cá mú, ốc hương, vẹm xanh còn có cá bớp, cá chẽm, bào ngư, rong sụn…; nuôi nước lợ có tôm sú, tôm chân trắng, cá mú, cá chẽm, ốc hương…; nuôi nước ngọt ngoài các giống truyền thống như: trôi, mè, trắm cỏ, chép, rô phi… còn có cá chim trắng, lóc, ếch Thái Lan, lươn… Tuy nhiên, dịch bệnh trên tôm hùm, tôm sú vẫn diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn cho người nuôi, các giống khác ngoài tôm ít dịch bệnh, đang đựợc nhiều nông dân lựa chọn chuyển đổi.
P.V
Khánh Hoà: Chưa xác định được nguyên nhân Tôm hùm lồng chết hàng loạt
Nguồn tin: KH, 30/09/2007
Ngày cập nhật: 1/10/2007
Đến nay, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III vẫn chưa có câu trả lời cụ thể về nguyên nhân và cách phòng trị trước hiện tượng tôm hùm lồng chết đang diễn ra tại các vùng nuôi ở Vạn Ninh, Cam Ranh và Nha Trang. Ước tính có khoảng 25% sản lượng tôm hùm bị thiệt hại do bệnh dịch trong vụ nuôi năm nay. Tuy nhiên, Viện này cũng cảnh báo, mật độ nuôi quá dày, sử dụng thức ăn tươi sống, nuôi vào mùa mưa lũ… có thể là nguyên nhân gián tiếp gây chết tôm.
Mới đây, theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNN) Cao Đức Phát, Tổ công tác về bệnh tôm hùm đã được thành lập gồm các thành viên của Cục Quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm (Bộ NN-PTNT), Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản, Viện Hải dương học và các Sở Thủy sản liên quan. Theo đó, sau 2 tháng, Tổ công tác phải tìm được nguyên nhân sơ bộ khiến tôm hùm lồng chết.
NGUYỄN HUÂN
Người có duyên nợ với con ba ba
Nguồn tin: BTre, 26/09/2007
Ngày cập nhật: 1/10/2007
“Nếu không phải vì mê con ba ba tôi đã từ bỏ nó mười mấy năm nay. Ba ba coi tưởng dễ nuôi, nhưng khó thành công nếu không đeo theo nó. Tôi đã bỏ ra cả chục năm kiên trì với con ba ba để biết rõ đặc tính mới thành công với nó” – ông Lê Văn Năm ở ấp Long Thạnh, xã Long Hòa, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre bộc bạch như vậy khi nói về mô hình nuôi ba ba của ông...
Người có chí làm giàu
Ở Cồn Cò, cặp sông Ba Lai (ấp Long Thạnh) hình như ai cũng biết ông Lê Văn Năm. Ông Năm đã lừng danh khi còn là một thanh niên gầy dựng nên cơ nghiệp từ hai bàn tay trắng. Ông sinh năm 1950, trước giải phóng tham gia du kích địa phương. Chiến tranh đi qua, nghĩ phận mình ít chữ vì mới học hết lớp 2 trường làng, ông Năm về với gia đình sống bằng nghề làm nông. Cha mẹ ông nghèo, khi lập gia đình ra riêng sống tự lập ông không có tấc đất trong tay. Để nuôi các con, vợ chồng ông Năm phải làm mướn quanh năm suốt tháng.
Ông Lê Văn Năm đã thành công với con ba ba
Vùng đất Long Hòa sau giải phóng chủ yếu trồng lúa. Người có đất, chỉ làm lúa một vụ mùa mưa chắc ăn, còn thời gian khác bỏ đất trống. Thấy vậy, ông thuê đất để trồng lúa khi người ta không trồng, với giá thuê được tính là 2 giạ/công. Liên tục ba năm liền, ông Năm trúng lúa với năng suất thu hoạch 18 – 20 giạ/công. Khi ông trả đất cho chủ cũng là lúc ông tích lũy tiền mua được 5 công đất.
Từ đất nhà ông tiếp tục trồng lúa, lấy tiền mua ghe để chở mía mướn cho các lò đường. Có vốn ông đầu tư làm nhà máy cán đường, xây lò kết đường cát. Năm 1996, khi nghề làm đường không còn lợi nhuận ông chuyển sang đầu tư xây dựng các lò sấy nhãn thu mua nhãn về sấy bán lại…
Trên 20 năm làm nhiều nghề và nhờ chuyển hướng làm ăn hợp lý ông Năm trở thành người giàu nức tiếng ở Cồn Cò. Từ không đất, ông có trong tay 4 ha đất, có tài sản để cho con cái khi chúng lập gia đình có điều kiện làm ăn. Năm 1997, ông Năm lần lượt chuyển hơn 2 ha đất sang trồng nhãn quế, ông lại trúng giá nhãn liên tục 4 năm với mức thu nhập khoảng 200 triệu đồng/năm.
Duyên nợ với con ba ba
Năm 1991, ông Năm đem con ba ba về Cồn Cò nuôi trong cái nhìn lạ lẫm của người dân quanh vùng. Qua thông tin trên đài truyền hình, ông biết được ở Đồng Nai có người làm giàu nhờ nuôi ba ba. “Máu làm ăn” nổi lên, ông khăn gối đi Đồng Nai tìm hiểu mô hình nuôi ba ba để tham quan, thực hiện ý định đầu tư nuôi ba ba. Sau đó, ông không tiếc công tìm đến các mô hình nuôi ba ba ở Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu để học hỏi thêm cách nuôi về áp dụng cho chắc ăn.
Tuy nhiên, khi đi vào thực tế nuôi ba ba ông lại gặp thất bại ngay lần “xuất quân” đầu tiên. Thì ra, do quá ham mê, ngay năm đầu thả nuôi, ông Năm đầu tư 100 triệu đồng mua 10.000 con ba ba con về nuôi trong 3 ao diện tích 900 mét vuông mặt nước. Sau gần 2 năm ông thu hoạch ba chỉ còn chừng 200kg ba ba thịt, ba ba lại nhiều cỡ, không đều nhau. Bán tất cả ba ba, ông thu về được trên 20 triệu đồng, tính ra ngoài việc lỗ tiền vốn mua ba ba giống, ông Năm còn lỗ thêm khoảng chục triệu đồng tiền thức ăn cho ba ba. Trong suy nghĩ, ông Năm cho rằng mình mua ba ba con còn nhỏ nên tỉ lệ sống thấp. Năm 1993, ông Năm rút kinh nghiệm mua 4.000 con ba ba lứa cở 400 – 500 gam/con với giá 70.000 đồng/kg thả nuôi. Lần này, ông tin là chắc ăn vì ba ba lớn không hao hụt. Nhưng, sau 12 tháng nuôi, ông Năm thu hoạch chỉ còn khoảng trên 300 kg ba ba thịt, bán được chừng 40 triệu đồng. Sau thất bại lần này ông Năm cho rằng mình nuôi dày nên lần thứ ba ông chỉ mua 2.000 con ba ba lứa thả nuôi. Ông lại tiếp tục chịu thua vì thu hoạch cũng chỉ được khoảng 350 kg ba ba thịt.
Ông năm kể: “Nuôi thua lỗ liên tục, vợ tôi khóc lóc khuyên tôi nghỉ đừng nuôi nữa không khéo thì nghèo vì con ba ba. Tôi thì ấm ức không hiểu sao ba ba tôi mua cũng lựa giống, cho ăn đầy đủ mà lần nào cũng hao hụt số lượng lớn. Tôi nói với vợ chắc là vụ sau sẽ thành công, phải nuôi tiếp, nuôi giữa chừng lỗ vốn bỏ ngang người ta cười. Nói với vợ là vậy, chứ tôi chịu đựng thất bại hoặc may mắn là phá huề liên tục 4, 5 vụ tiếp theo vì không hiểu sao ba ba nuôi vài ngàn con nhưng khi thu hoạch chỉ còn vài trăm con. Hỏi những người cùng nuôi ba ba họ nói nuôi ba ba là phải chịu hao hụt, nên tôi đành tự tìm cách”.
Vụ nuôi ba ba năm 2004, tình cờ một lần cho chúng ăn, ông Năm thấy nhiều ba ba lứa cứ đeo dích chùm với nhau. Mấy con ba ba đực đeo lấy một ba ba cái khiến ba ba cái trầy trụa sau đó kiệt sức chết. Trong đầu ông lại nghĩ không lẽ lâu nay ba ba hao hụt số lượng nhiều là do chuyện này! Vậy là ông gọi các con nhào xuống ao bắt ba ba lên lựa ra tách bầy nuôi ba ba đực, cái riêng từng ao. Gần một năm sau ông Năm thu hoạch ba ba, cách nuôi này ông Năm đã đạt về kết quả cao khi thu hoạch được 500 con ba ba trong số 1.000 con ba ba con thả nuôi. Giá ba ba 170.000 đồng/kg, 600 kg ba ba thịt bán được khi trừ chi phí ông lời 50 triệu đồng.
Năm 2005, ông Năm thả 1.000 con ba ba con, đợi đến 9 tháng ông tách ba ba đực, cái nuôi riêng. Năng suất ba ba khi thu hoạch cũng tương đương năm trước, nhưng giá ba ba tăng lên 240.000 đồng/kg, ông lợi nhuận 80 triệu đồng. Cũng thả 1.000 con ba ba nuôi, ông Năm thu hoạch vụ nuôi năm 2006 – 2007 vào cuối tháng 8 vừa qua số lượng trên 600 kg. Giá ba ba tăng cao 290.000 đồng/kg ông lợi nhuận 120 triệu đồng. Ông Năm phấn khởi nói: “Bây giờ mấy ao nuôi ba ba chưa đầy 1 công đất của tôi thu nhập mỗi năm cao hơn 2 ha nhãn hiện có. Đã biết cách nuôi ba ba chắc ăn, tôi đang có kế hoạch sẽ đốn bỏ 1 ha nhãn để đào ao lập trang trại nuôi ba ba”.
Sau mười mấy năm đeo đuổi con ba ba, ông Lê Văn Năm đã thành công. Với 3 ao nuôi hiện có, một ao ông để nuôi ba ba con, hai ao còn lại ông để tách bầy nuôi riêng khi ba ba phân biệt được đực, cái. Con giống ba ba ông Năm thường mua ở trại giống Lái Thiêu. Theo kinh nghiệm nuôi ba ba mà ông Năm rút ra được trong quá trình nuôi của mình là mua ba ba giống nhỏ nên chọn mua vào đầu mùa mưa là thời gian phù hợp nhất, vì ba ba mạnh, môi trường đầu mùa mưa giúp ba ba phát triển tốt. Bản chất của chúng là cắn lộn, có khi cùng là ba ba đực lại giao phối với nhau nên nuôi ba ba phải chịu hao hụt vì vậy nên nuôi thưa (khoảng 1 mét khối nước 1 con) để hạn chế hao hụt. Thức ăn làm mồi cho ba ba phù hợp là cá nục và cá mối tươi, không nên cho ăn cá ương vì thiếu độ đạm ba ba chậm phát triển. Ba ba cần được cho ăn mỗi ngày một lần. Riêng về thị trường ba ba, ông Năm cho rằng hiện nay có khoảng 10 thương lái ở thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên liên hệ với ông để mua ba ba thịt.
Cao Dương
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.