Nguồn tin: Báo Bắc Ninh, 02/01/2009
Ngày cập nhật:
3/1/2009
Không có dịch bệnh lớn xảy ra nhưng năm 2008 là năm đầy khó khăn với ngành chăn nuôi của tỉnh Bắc Ninh bởi giá thức ăn tăng cao; rét đậm, rét hại kéo dài; Chính phủ hạ thấp thuế nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi theo lộ trình cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Song bằng sự nỗ lực của các cấp, ngành và mỗi địa phương, ngành chăn nuôi của tỉnh vẫn năng động và bứt phá để chuyển dịch đúng hướng, đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá.
Đầu năm rét đậm, rét hại với cường độ mạnh kéo dài ảnh hưởng lớn tới sinh trưởng, phát triển của đàn vật nuôi, đặc biệt gia súc, gia cầm nhỏ. Giá thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y và chi phí khác cho chăn nuôi liên tục tăng, trong đó đáng chú ý giá thức ăn hỗ hợp cho lợn thịt tăng 66%, thức ăn hỗn hợp cho gà thịt tăng 57%, thuốc thú y tăng 25- 30% so cùng kỳ năm 2007, ảnh hưởng đến việc đầu tư,mở rộng sản xuất của người chăn nuôi. Trong khi đó, từ đầu tháng 7 đến nay, giá thịt lợn, thịt và trứng gia cầm đang có xu hướng giảm làm cho người chăn nuôi không có lãi thậm trí lỗ vốn. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, bất lợi nhưng kết quả đạt được đã khẳng định sự cố gắng của người dân và thế đứng vững vàng của ngành chăn nuôi. Tổng đàn lợn 408.150 con, tăng 6%, sản lượng lợn hơi xuất chuồng đạt 53.688 tấn, tăng 5% so cùng kỳ năm 2007. Từ năm 2007 đến nay, thực hiện Đề án phát triển chăn nuôi bò thịt của tỉnh giai đoạn 2006- 2010; Dự án cải tiến, nâng cao chất lượng giống bò thịt Việt Nam của Bộ Nông nghiệp- PTNT, số lượng, chất lượng đàn bò từng bước nâng lên với tổng đàn bò hiện có 60.210 con, tương đương cùng kỳ năm 2007, trong đó tỷ lệ bò lai Zêbu đạt 82%.
Đề án phát triển chăn nuôi đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng nền chăn nuôi an toàn sinh học, bền vững được đề ra trong bối cảnh chăn nuôi cả nước nói chung, Bắc Ninh nói riêng còn đối mặt với bộn bề gian khó trong đó quy mô nhỏ lẻ, bất cập trong khâu giống... là “rào cản” khiến mục tiêu trên khó thành hiện thực. Theo ông Nguyễn Nhân Lừng, Chi cục trưởng Chi cục Thú y thì một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm diễn ra trên địa bàn tỉnh thời gian qua chính là hình thức chăn nuôi manh mún, nhỏ lẻ. Điển hình là chăn nuôi lợn, toàn tỉnh có 400.000 con lợn, hầu hết đều được nuôi ở quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ nên ít quan tâm tới công tác tiêm phòng hay phòng chống dịch bệnh theo quy trình của cơ quan thú y. Cũng theo ông Lừng “Ngành chăn nuôi cả nước nói chung, Bắc Ninh nói riêng vẫn mang tính tự phát; quy mô kinh tế hộ nhiều hơn là kinh tế trang trại. Thói quen chăn nuôi truyền thống đã ăn sâu trong suy nghĩ của người dân. Việc cấp 4- 5 ha đất để xây dựng trang trại cũng gặp khá nhiều khó khăn vì quỹ đất hạn chế. Ngoài ra còn khó khăn về giống, vốn đầu tư. Năm 2007, hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn (còn gọi là bệnh tai xanh) xảy ra lần đầu tiên trên địa bàn tỉnh khiến lợn ốm, chết hàng loạt, đặc biệt, đàn lợn nái giảm đáng kể. Sau dịch, lợn giống trở nên khan hiếm nên giá tăng đến 50-60%. Các hộ chăn nuôi quy mô trang trại còn tự chủ được nguồn giống, với hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, điều này thực sự không dễ dàng. Chị Nguyễn Thị Hệ ở thôn Guột, xã Việt Hùng (Quế Võ) cho biết: “Trước đây, muốn mua lợn giống chẳng khó khăn gì, cứ đến chợ thấy con nào to, khoẻ, lông mượt thì mua, hoặc bắt ngay của các hộ có lợn nái trong thôn. Bây giờ thì khác, rất ít gia đình mang lợn giống ra chợ bán, bởi thương lái đặt mua trước cả đàn rồi đem bán cho người chăn nuôi với giá cao hơn; nhiều khi gặp phải lợn còi cọc, xấu xí vẫn phải mua”. Theo ông Vũ Thái Ninh, Trưởng phòng Chăn nuôi (Sở Nông nghiệp và PTNT Bắc Ninh), ngoài nguyên nhân từ bệnh tai xanh còn do trên địa bàn tỉnh chưa có cơ sở giống bảo đảm chất lượng. Hiện, nhu cầu về giống của người chăn nuôi khoảng 850.000 con/năm, trong khi tỉnh chỉ có 1 xí nghiệp, 2 cơ sở gia công cho Công ty cổ phần CP và 5 cơ sở tư nhân sản xuất giống lợn hướng nạc với tổng số 5.000 nái ông bà, bố mẹ. Số lợn giống mà các cơ sở trên cung ứng được khoảng 100.000 con/năm. Mặt khác, số liều tinh lợn ngoại chất lượng cao mà các cơ sở truyền giống sản xuất mới đáp ứng khoảng 65% nhu cầu, còn lại được nhân giống từ đàn lợn nuôi tự do trong dân. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng bệnh, khai thác giống không theo đúng quy trình kỹ thuật nên chất lượng truyền giống kém. Tương tự như đàn lợn, chất lượng bò giống của Bắc Ninh cũng còn nhiều vấn đề phải bàn. Thực tế cho thấy, bò lai Zê-bu có ưu thế hơn hẳn bò vàng địa phương. Tuy nhiên, việc nhân rộng đàn bò lai dù đã thực hiện nhiều năm nhưng vẫn không cho kết quả như mong muốn. Nguyên nhân do số liều tinh bò lai thụ tinh nhân tạo chỉ dừng ở mức khoảng 10.000 liều/năm, đáp ứng 80% nhu cầu, phần còn lại được nhân giống từ đàn bò cóc địa phương. Trong khi đó, bê lai Zê-bu ra đời hầu hết được bán làm bò thịt, ít hộ giữ lại để thay thế bò cóc. Theo số liệu của Phòng Chăn nuôi, bò lai Zê-bu trên địa bàn tỉnh mới chiếm 78% tổng đàn.
Trang trại chăn nuôi tổng hợp của gia đình ông Nguyễn Văn Phiến, thị trấn Chờ (Yên Phong) thu nhập 250 đến 300 triệu đồng/năm.
Muốn ngành chăn nuôi phát triển ổn định, có chiều sâu, theo ông Vũ Thái Ninh, Trưởng phòng Chăn nuôi (Sở Nông nghiệp- PTNT) chúng ta cần rà soát và quy hoạch lại đất đai, hình thành các khu chăn nuôi riêng biệt, mang tính công nghiệp, độc lập, cách xa dân cư. Song song với quy hoạch đất, cần quy hoạch lại các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi; nhà máy chế biến, giết mổ gia súc và gia cầm tập trung, công nghiệp; giúp cho việc vận chuyển, dự trữ nguyên liệu thức ăn và thức ăn chăn nuôi thuận lợi nhất. Cùng với các giải pháp trên, việc mở rộng mạng lưới và tiêu chuẩn hoá các cơ sở, chất lượng đực giống của hệ thống thụ tinh nhân tạo có ý nghĩa quan trọng; theo đó cần tổ chức đánh giá bình tuyển, loại thải lợn đực giống kém chất lượng trong sản xuất. Về kỹ thuật nuôi, các cơ sở phải có chuồng trại được quy hoạch khoa học, thiết kế phù hợp với các điều kiện sinh trưởng, phát triển của vật nuôi; nhất thiết phải có hệ thống vệ sinh phòng dịch thú y và xử lý môi trường. Đối với các cơ sở chăn nuôi trang trại, công nghiệp, cần áp dụng công nghệ tự động hoá từng khâu và toàn bộ quá trình sản xuất; các cơ sở chăn nuôi phải có sổ sách theo dõi quản lý, lưu giữ số liệu về giống, thuốc thú y và dịch bệnh; áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý; cơ sở giống nhất thiết phải có sổ theo dõi, phần mềm tin học quản lý được các cơ quan chức năng công nhận.
Nguyễn Tuấn
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.