Nguồn tin: Hà Nội Mới, 04/07/2009
Ngày cập nhật:
6/7/2009
Những năm qua, mô hình chăn nuôi tập trung xa khu dân cư đi vào hoạt động đã làm cho diện mạo nông nghiệp thành phố Hà Nội ngày một thay đổi. Tỷ trọng chăn nuôi đã chiếm trên 50% giá trị sản xuất nông nghiệp, trở thành hướng giúp nông dân làm giàu.
Cơ hội để nông dân thoát nghèo
Có một thực tế, nếu như 5-7 năm về trước, giá thức ăn chăn nuôi (TĂCN) chỉ biến động từ 1-2 lần trong năm theo mùa vụ, thì hiện nay giá TĂCN biến động hằng tháng rất thất thường. Nếu chăn nuôi theo kiểu ngẫu hứng, thấy giá thịt thương phẩm cao, người chăn nuôi đổ xô nhập giống không biết chất lượng ra sao, không có thức ăn dự phòng… khi giá TĂCN, thuốc thú y… tăng chóng mặt như thời gian cuối năm 2008 và tháng 6 vừa qua thì chỉ có nước sạt nghiệp, anh Nguyễn Văn Thanh, Chủ nhiệm HTX chăn nuôi Hòa Mỹ, xã Vạn Thái (Ứng Hòa) phân tích. Tuy nhiên, nếu người chăn nuôi đầu tư hạ tầng, đưa chăn nuôi ra xa khu dân cư, tổ chức nuôi theo hướng hiện đại khép kín thì vẫn có thể trụ vững qua các cơn bão giá. Lý do anh Thanh đưa ra khá hợp lý: Trong 1 năm, HTX xuất chuồng khoảng 3-4 lứa lợn hơi, trong đó không phải lứa lợn nào cũng "dính bão giá" TĂCN, lứa lỗ, lứa hòa, lứa lãi vậy là tổng cộng cả 3-4 lứa lợn trong năm vẫn bảo đảm doanh thu duy trì sản xuất. Mặt khác nếu các trang trại chăn nuôi lớn liên kết với nhau mua TĂCN, thuốc thú y trực tiếp của các hãng sản xuất lớn thì đều có ưu đãi, khuyến mãi, chiết khấu phần trăm theo quy định nên thường rẻ hơn mua qua đại lý 10-15%. Thực tế, qua 3-5 năm hoạt động của 2 mô hình HTX chăn nuôi Cổ Đông ở Sơn Tây và Hòa Mỹ (Ứng Hòa), mô hình chăn nuôi ở Đồng Tâm (Mỹ Đức)... đã minh chứng một hướng đi đúng của mô hình chăn nuôi xa khu dân cư.
HTX chăn nuôi dịch vụ Cổ Đông (Sơn Tây) hiện có 120 xã viên, là chủ trang trại chăn nuôi ở khắp các huyện, thị xã, tổng giá trị tài sản của các xã viên lên tới trên 1.000 tỷ đồng. Mỗi xã viên ít nhất có 300 lợn thịt, 2.000 gà/lứa hoặc100 lợn nái ngoại trở lên. Bên cạnh nguồn thu chính từ chăn nuôi, các trang trại còn thu một lượng lớn hoa màu là rau sạch, cây ăn quả như xoài, vải, nhãn, đu đủ... Nhiều trang trại còn đầu tư từ 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng để xây dựng hầm biôga, tự túc tới 40% nguồn điện làm mát trong mùa hè hoặc làm ấm về mùa đông cho hệ thống chuồng trại. Mỗi tháng HTX đứng ra cung ứng từ 120-150 tấn TĂCN cho xã viên.
Tương tự như vậy, trang trại chăn nuôi lợn nái ngoại Cường Thành (xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức) có số lượng 1.300 con, tạo việc làm cho 24 lao động, thu nhập bình quân 1,5-2,4 triệu đồng/tháng. Với diện tích 7ha đất canh tác kém hiệu quả và xa khu dân cư, toàn bộ con giống sản xuất ra đều do Công ty CP Group (Thái Lan) nhận 100% và cung ứng cho thị trường của các tỉnh: Hòa Bình, Bắc Giang, Thái Nguyên... Trang trại này còn mời Trung tâm Công nghệ Môi trường FOMACH về xử lý nước thải, Viện Vật lý điện tử xử lý khí, Công ty Công nghệ hóa sinh (Hà Nội) hướng dẫn xây dựng hệ thống biôga, bể sinh học, máy ozôn, với tổng kinh phí gần 400 triệu đồng.
Vẫn còn nhiều thách thức
Theo GS-TS Vũ Trọng Khải: Thời buổi hội nhập hiện nay, đối với người sản xuất nông nghiệp nói chung và nhất là các chủ trang trại nói riêng, sự cạnh tranh không chỉ giới hạn trong nước mà còn cả thế giới. Nếu trước đây các nước lập ra hàng rào thuế quan để ngăn chặn sản phẩm nông nghiệp từ ngoài thì ngày nay lại lập ra hàng rào kỹ thuật (dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh, truy xuất nguồn gốc… nói chung là những vấn đề liên quan an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng). Do vậy, vấn đề sản xuất theo GAP (Good Agriculture Practices - thực hành nông nghiệp tốt) đang là hướng mà ngành nông nghiệp Việt Nam thực hiện, trong đó có việc trang trại gắn với các mô hình sản xuất tập trung, xa khu dân cư là sự lựa chọn tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất đối với các trang trại chăn nuôi xa khu dân cư chính là mặt bằng và khả năng tích tụ ruộng đất của các chủ trang trại. Hiện nay việc đưa chăn nuôi xa khu dân cư đối với nhiều huyện ngoại thành của Hà Nội là bài toán chưa có lời giải thỏa đáng. Nhiều nơi đất bỏ hoang hoặc thâm canh kém hiệu quả nhưng các hộ làm ăn lớn muốn thầu khoán để tổ chức sản xuất theo hướng quy mô, hiện đại thì lại hết sức khó khăn. Thực tế có nhiều chủ trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản ở xã Thanh Liệt (Thanh Trì) phải thuê lại của các hộ có ruộng khác với giá trên 1 triệu đồng/sào. Như vậy muốn thuê 1ha ruộng trũng để phát triển chăn nuôi cũng phải thuê gần 30 triệu đồng/năm. Tình trạng này cũng diễn ra tương tự ở nhiều huyện như Gia Lâm, Sóc Sơn… Quỹ đất dành cho sản xuất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hóa, các huyện muốn quy hoạch khu chăn nuôi xa khu dân cư nhưng không có quỹ đất, các hộ tự tổ chức dồn đổi cho nhau thì cũng khó vì không có một đơn vị đứng ra làm trung gian, bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên…
Những lý do trên đây đã khiến tình trạng chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư vẫn phổ biến ở nhiều địa phương. Tại Hà Nội, hiện nay Sở NN & PTNT cũng đang hoàn thiện đề án về cơ chế chính sách hỗ trợ cho nông dân chuyển đổi từ chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư ra khu tập trung, tránh ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó còn sớm phải có những cơ chế, chính sách phù hợp, tạo đòn bẩy cho ngành chăn nuôi Thủ đô phát triển bền vững.
Bạch Thanh
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.