Nguồn tin: Kinh tế Việt Nam, 06/10/2009
Ngày cập nhật:
7/10/2009
Ngành chế biến thức ăn chăn nuôi đang thiếu quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu thô cũng như công nghiệp phụ trợ cho chế biến.
Bởi vậy, cung cầu đang mất cân đối trầm trọng, khiến giá bán thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam luôn cao hơn 15 - 20% so với các nước khu vực, theo nhận định của ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi.
Theo QĐ số 116/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành, từ 15/11/2009 sẽ có thêm 3 mặt hàng thức ăn chăn nuôi (TACN) được đưa vào danh mục hàng hoá dịch vụ bình ổn giá. Cung cầu thức ăn chăn nuôi ở nước ta hiện rất mất cân đối. Ông nhận định thế nào về vấn đề này?
Mỗi năm, ngành chăn nuôi cần khoảng 17 - 18 triệu tấn thức ăn, nhưng sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp mới đạt 50%, còn lại người chăn nuôi phải sử dụng thức ăn tự chế. Mỗi năm nước ta sản xuất được gần 6 triệu tấn thức ăn chăn nuôi công nghiệp cho gia súc, gia cầm; 2,4 triệu tấn thức ăn chăn nuôi thủy sản.
Trong số khoảng 8,5 triệu tấn thức ăn chăn nuôi công nghiệp sản xuất mỗi năm, các nhà máy chế biến phải nhập khẩu 3,7 triệu tấn nguyên liệu/năm. Việt Nam là một nước nông nghiệp, nhưng ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi không chủ động được nguồn nguyên liệu.
Xin ông cho biết những khó khăn, hạn chế trong ngành sản xuất chế biến thức ăn chăn nuôi nước ta hiện nay?
Một là, cơ chế quản lý ngành thức ăn chăn nuôi còn nhiều bất cập. NĐ 15/CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành cách đây 14 năm, đến nay vẫn chưa thành pháp lệnh hoặc pháp luật về quản lý thức ăn chăn nuôi. Hiện tại, quản lý thức ăn chăn nuôi phải dựa vào nhiều văn bản hướng dẫn chung của nhiều ngành, nhiều cấp quản lý.
Hai là, thiếu nguyên liệu. Hàng năm, kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi của nước ta khoảng 2 tỷ USD. Trong khi, thức ăn chăn nuôi không phải mặt hàng thiết yếu, nên mỗi khi ngân hàng có biến động, doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi không được ưu tiên vay vốn.
Ba là, thiếu công nghệ sản xuất. Ngoài các đề tài nghiên cứu tiêu hoá lẻ tẻ, vụn vặt, các Viện nghiên cứu ở nước ta chưa có kết quả nghiên cứu nào thành chuỗi công nghệ phổ biến đại trà vào sản xuất. Vì vậy, các doanh nghiệp phải nhập công nghệ từ nước ngoài. Hầu hết các nhà máy đều có nhu cầu sử dụng hệ thống thiết bị có công suất 20 - 40 tấn/giờ, nhưng loại này trong nước chưa sản xuất được. Doanh nghiệp phải nhập khẩu từ châu Âu với chi phí rất đắt.
Bốn là, thiếu nhân lực tâm huyết với nghề, thiếu từ cán bộ nghiên cứu đến cán bộ sản xuất, kinh doanh và thị trường. Lao động phổ thông thừa, nhưng lao động chất lượng cao, biết bám thực tế sản xuất thì rất ít.
Chế biến thức ăn chăn nuôi là ngành thu hút nhiều doanh nghiệp FDI, chắc hẳn họ đem theo nhiều công nghệ tiên tiến vào Việt Nam và chúng ta sẽ tiếp thu được công nghệ đó?
Hiện tại cả nước có 225 nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc gia cầm và 89 nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi thủy sản. Tất cả các tập đoàn sản xuất thức ăn chăn nuôi mạnh nhất nhì thế giới đều đã có mặt ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp nước ngoài đang nắm giữ 65 - 70% thị phần thức ăn chăn nuôi. Đã có một số doanh nghiệp tư nhân và cổ phần chuyên ngành thức ăn chăn nuôi trong nước đã phát triển, kinh doanh thành đạt. Tuy nhiên, hầu như vẫn chưa có doanh nghiệp trong nước nào “đoạt” được công nghệ từ các doanh nghiệp nước ngoài.
Các doanh nghiệp nhà nước mặc dù nhiều năm được đầu tư nhưng sản phẩm thức ăn chăn nuôi không trụ nổi trong cơ chế thị trường. Tồn tại lớn nhất của ngành công nghiệp thức ăn chăn nuôi hiện nay là công nghệ sản xuất premix đều do các công ty nước ngoài nắm giữ. Họ không có đối thủ cạnh tranh ở Việt Nam về sản phẩm premix. Bởi nắm thị trường và khống chế giá cả, nên họ sản xuất và bán cho các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi của Việt Nam mỗi năm hàng trăm nghìn tấn với giá quá đắt.
Đáng tiếc Nhà nước đầu tư rất nhiều tiền, qua nhiều năm để nghiên cứu công nghệ sản xuất premix, nhưng đến nay kỳ vọng này vẫn còn đang ở phía trước, chưa thể có công nghệ để phổ biến và giúp cho các doanh nghiệp trong nước chủ động hạ giá thành thức ăn chăn nuôi.
Hiện các doanh nghiệp FDI sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam đang thu siêu lợi nhuận, trong khi người chăn nuôi phải mua thức ăn chăn nuôi với giá quá đắt. Các doanh nghiệp trong nước quản lý yếu, thiếu vốn, thiếu công nghệ, nên không thể cạnh tranh được với các công ty 100% vốn nước ngoài.
Xin ông cho biết các giải pháp để ngành chế biến thức ăn chăn nuôi trong nước phát triển?
Trước tiên phải đầu tư nghiên cứu khoa học thật nghiêm túc và hiệu quả, chú trọng nghiên cứu những khâu đột phá theo chuỗi sản phẩm: hoá dược, khoáng vi lượng, premix, vi sinh, emzym, chất tạo màu, tạo mùi. Các công thức sản xuất thức ăn chăn nuôi hàm lượng chất xám cao phải được phổ biến rộng rãi. Cần đầu tư và ưu tiên kêu gọi nước ngoài đầu tư vào sản xuất các nguyên liệu tổ hợp premix ngay tại Việt Nam.
Nhà nước cần phải coi thức ăn chăn nuôi là mặt hàng thiết yếu an ninh thực phẩm để được hưởng mọi quyền lợi ưu tiên như lương thực và phân bón trong 10 mặt hàng thiết yếu mà Bộ Công Thương xếp hạng quy định. Bên cạnh đó cần đầu tư xây dựng các cảng chuyên dùng nhập ngô, đậu tương và hàng nông sản, vì đặc thù nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu phần lớn là hàng rời, ít hàng congtainer.
Về lâu dài, cần phải tăng tốc chú trọng đầu tư hơn nữa vào việc canh tác ngô, đậu tương để chủ động nguồn nguyên liệu trong nước và Nhà nước cần thống nhất quản lý chất lượng thức ăn chăn nuôi.
CHU KHÔI
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.