Nguồn tin: Báo Thái Bình, 15/10/2009
Ngày cập nhật:
16/10/2009
Mấy năm trở lại đây lĩnh vực chăn nuôi của huyện Quỳnh Phụ (Thái Bình) có bước phát triển khá nhanh và toàn diện. Bên cạnh sự gia tăng đáng kể về số lượng đàn thì cơ cấu giống vật nuôi cũng có sự chuyển biến tích cực, đặc biệt phương thức chăn nuôi đang thay đổi mạnh từ nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung giúp nâng cao hiệu quả kinh tế đồng thời cải thiện thu nhập cho người lao động.
Mặc dù Quỳnh Phụ có nhiều tiềm năng, thế mạnh cho phát triển chăn nuôi như nguồn lao động dồi dào, nguồn cung cấp nông sản làm thức ăn chăn nuôi rất phong phú, gần các thị trường tiêu thụ nông sản lớn… nhưng trước đây đa số các hộ dân trong huyện vẫn áp dụng phương thức chăn nuôi truyền thống theo kiểu tận dụng, quy mô nhỏ lẻ, phân tán. Cách làm này vừa không tạo được khối lượng hàng hoá lớn, chất lượng cao, vừa mang lại hiệu quả kinh tế thấp. Để phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá thì điều đầu tiên và quan trọng nhất mà Quỳnh Phụ phải làm, đó là thay đổi cho được tập quán chăn nuôi truyền thống. Ban thường vụ Huyện uỷ đã xây dựng kế hoạch số 63 và chương trình hành động số 22 nhằm cụ thể hoá Nghị quyết số 12 của BTV Tỉnh uỷ về đẩy mạnh phát triển chăn nuôi giai đoạn 2004- 2010. Đây vừa là căn cứ để các xã xây dựng mục tiêu phấn đấu tại địa phương mình, đồng thời tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ đảng nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và quá trình chỉ đạo thực hiện. Bên cạnh đó, huyện đã đưa ra nhiều cơ chế khuyến khích phát triển chăn nuôi như: Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục giúp các hộ thuê mướn, đấu thầu mặt bằng xây dựng chuồng trại; khuyến khích các hộ dồn đổi ruộng thành mảnh lớn liền kề nhằm tăng hiệu quả đầu tư; chỉ đạo các đoàn thể chính trị- xã hội đứng ra tín chấp cho các hội viên vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất; giải ngân nhanh các khoản hỗ trợ của tỉnh về chuyển đổi vật nuôi giống mới; tăng cường chuyển giao KH- KT đến tận hộ chăn nuôi giúp trang bị kiến thức cơ bản về cách chọn giống, chăm sóc, phòng trừ bệnh cho vật nuôi, nhất là một số vật nuôi giống mới; quy hoạch vùng trồng cây lương thực tại các xã duyên giang nhằm cung cấp nguồn thức ăn tại chỗ cho gia súc, gia cầm; xây dựng một số mô hình chăn nuôi điểm để rút kinh nghiệm và nhân ra diện rộng; làm tốt công tác phòng trừ dịch bệnh, hạn chế dịch phát sinh trên diện rộng…
Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên nên phương thức chăn nuôi ở Quỳnh Phụ những năm gần đây đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng chuyển mạnh từ nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi tập trung quy mô gia trại, trang trại. Nếu như trước năm 2000 toàn huyện cơ bản chưa xây dựng được mô hình chăn nuôi lớn tập trung, thì đến năm 2005 đã xây dựng được 535 trang trại chăn nuôi gồm 464 trang trại chăn nuôi lợn, 68 trang trại chăn nuôi gia cầm và 28 trang trại nuôi thả thuỷ sản. Tổng số vốn kinh doanh của các trang trại trên địa bàn toàn huyện lên tới gần 70 tỷ đồng, trong đó vốn chủ sở hữu chiếm 50,5 tỷ đồng, tổng doanh thu hàng năm của các trang trại chăn nuôi đạt khoảng 80 tỷ đồng. Đến năm 2008, toàn huyện có khoảng 800 trang trại và trên 1.000 gia trại, trong đó có 180 trang trại quy mô lớn (mỗi trang trại nuôi từ 20 lợn nái, 2.000 gia cầm hoặc 100 lợn thịt/lứa trở lên). Về nuôi thả thuỷ sản, nhờ chuyển đổi thêm 350 ha vùng lúa năng suất thấp nên diện tích nuôi thả thuỷ sản toàn huyện hiện đạt trên 1.000 ha, trong đó đã xây dựng được một số vùng nuôi thả thuỷ sản tập trung tại các xã An Thanh, An Mỹ, An Ninh, Quỳnh Hội, Đồng Tiến, Quỳnh Châu, Quỳnh Hoa, An Tràng và Quỳnh Sơn…
Sự thay đổi về tập quán chăn nuôi ở Quỳnh Phụ thời gian qua giúp gia tăng đáng kể về số lượng đàn. Năm 2001 tổng đàn lợn toàn huyện mới đạt khoảng 100.000 con thì nay số lượng đã là 147.000 con; đàn trâu bò từ 7.600 con năm 2001 tăng lên 11.500 con; đàn gia cầm mặc dù chịu tác động của dịch cúm nhưng tổng đàn vẫn đạt 1,25 triệu con, tăng 250.000 con so với năm 2001, trong đó tỷ lệ gia súc, gia cầm nuôi trong các gia trại, trang trại chiếm khoảng 60% so với tổng đàn. Phương thức chăn nuôi tập trung còn tạo tiền đề cho việc đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cơ cấu vật nuôi giống mới. Điển hình như đàn bò lai sind năm 2001 mới có 800 con thì nay đã tăng lên 1.690 con. Hay như đàn lợn nái ngoại siêu nạc năm 2000 mới có vài hộ tiếp thu đưa vào nuôi với số lượng trên dưới 100 con, nay số lợn ngoại sinh sản đã đạt 1.100 con, gấp 11 lần. Ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt giống vật nuôi mới khác như: cá rô phi đơn tính, chép lai ba máu, cá lóc hoa, cá chim trắng, ếch, ba ba, nhím, dế…
Với những thay đổi cơ bản về phương thức, sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và sự điều chỉnh về cơ cấu đàn đã đưa giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi ở Quỳnh Phụ tăng trưởng đều qua các năm. Nếu như năm 2000 tổng thu từ chăn nuôi toàn huyện mới đạt 149 tỷ đồng thì nay đã đạt 235 tỷ đồng, tăng 86 tỷ đồng. Tỷ trọng ngành chăn nuôi so với tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng từ 28,78% năm 2004 lên 32,54% năm 2008.
Vũ Mạnh
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.