Nguồn tin: Báo Yên Bái, 12/01/2010
Ngày cập nhật:
13/1/2010
Các giống vật nuôi bản địa là một bộ phận quan trọng của đa dạng sinh học, nó là tài sản quí giá hiện đang phát huy ý nghĩa kinh tế, đặc biệt là các giống thuần thích nghi với điều kiện sinh thái địa phương đồng thời còn là nguyên liệu phục vụ cho công tác lai tạo giống trước mắt và sau này.
Thực tế trong thời gian qua, không riêng các loài động vật hoang dã bị uy hiếp nghiêm trọng do môi trường sống bị thu hẹp và sự săn bắt của con người, các giống vật nuôi bản địa dưới tác động của thiên nhiên và áp lực của kinh tế thị trường v.v... cũng đang bị làm nghèo đi, mất dần.
Sự suy thoái hoặc tuyệt chủng của nhiều giống vật nuôi địa phương, những giống tuy năng suất có thể không cao nhưng mang những đặc điểm quí giá như thịt thơm ngon, chịu đựng dinh dưỡng thấp, thích nghi với điều kiện sinh thái sẽ là một mất mát rất lớn không những về giá trị kinh tế mà còn cả ở trên lĩnh vực đa dạng di truyền và văn hoá vùng, miền.
Mù Cang Chải là một huyện vùng cao của tỉnh Yên Bái với trên 95% là đồng bào dân tộc Mông. Người dân nơi đây có tập quán chăn nuôi trâu, bò từ rất lâu đời. Trong quá trình lao động sản xuất, họ đã thuần hoá, chọn lọc, nuôi dưỡng tạo nên giống bò rất thích nghi với điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt lạnh và khô của vùng cao, có tầm vóc tương đối lớn, chịu được kham khổ, tuy nhiên trong thời gian qua giống bò này chưa được quan tâm đúng mức.
Để đánh giá thực trạng giống bò này, trong tháng 5 và tháng 6 năm 2008, Trung tâm Giống vật nuôi (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã có đợt khảo sát tình hình chăn nuôi bò tại 2 xã Nậm Khắt và La Pán Tẩn huyện Mù Cang Chải, cho thấy hiện tượng thoái hoá của giống bò này đang xẩy ra.
Qua kết quả khảo sát sơ bộ tại 2 xã cho thấy, thời điểm 1 tháng 4 năm 2008, đàn bò xã Nậm Khắt có 576 con thì đến tháng 4 năm 2009 còn 317 con; đàn bò xã La Pán Tẩn từ 364 con năm 2008 còn 313 con năm 2009.
Thứ nhất, tổng đàn có xu hướng giảm: Mặc dù trong thời gian qua, có nhiều dự án hỗ trợ người dân mua bò để phát triển chăn nuôi, song trên thực tế tổng đàn bò đang có xu hướng giảm. Nguyên nhân chủ yếu là với tập quán thả rông gia súc, khi bãi chăn thả ngày càng ít đi do khai hoang ruộng và trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng cho nên người dân không có chỗ chăn thả. Mặt khác, do tỷ lệ sinh đẻ của bò thấp, không đủ bù vào số bò đã bán đi, một số bò dự án hỗ trợ không được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, cho nên bò vùng thấp kém thích nghi với điều kiện khí hậu vùng cao dẫn đến bị chết.
Thứ hai, trọng lượng ngày càng nhỏ: Theo những người cao tuổi chăn nuôi bò lâu đời tại các xã này cho biết, hiện nay bò ngày càng nhỏ. Nếu như trước kia có những con bò đực nặng tới trên 400 kg thì bây giờ rất hiếm. Trung tâm đã tiến hành khảo sát sơ bộ lượng bò cho thấy bò đực trưởng thành dao động trong khoảng từ 280 đến 350 kg; bò cái dao động trong khoảng từ 150 đến 180 kg. Nếu so với bò Mông tại Hà Giang là nơi có điều kiện tự nhiên gần giống với Mù Cang Chải thì thấy bò Mông tại Mù Cang Chải hiện nhỏ hơn nhiều.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trọng lượng đàn bò ngày càng nhỏ là do khai thác bò vùng cao Mù Cang Chải mang tính tự nhiên, thiếu khoa học, đã gây ra một số vấn đề bất cập là: số bò được bán thường là những con to, có sản lượng thịt lớn, số bò còn lại kém hơn để lại làm giống; việc bán hoặc thịt đi một số lượng bò có giống tốt đã gây ra suy thoái giống bò còn lại. Bên cạnh đó, kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng đàn bò chưa đảm bảo; phương thức chăn nuôi vẫn mang tính lạc hậu, chủ yếu là thả rông, thiếu thức ăn. Mặt khác, việc sử dụng bò đực giống cũng hoàn toàn mang tính tự nhiên, dẫn đến hiện tượng cận huyết làm cho chất lượng con giống ngày càng giảm.
Thứ ba, tỷ lệ sinh sản thấp: Khảo sát tại một số hộ cho thấy cơ cấu đàn chủ yếu là bò mẹ và bò sắp trưởng thành, rất ít bò dưới sáu tháng tuổi. Điều này cho thấy tỷ lệ sinh đẻ của đàn bò thấp một cách đáng báo động. Tuổi đẻ lứa đầu của bò cái dao động từ khoảng 4 đến 4,5 năm, khoảng cách giữa các lứa đẻ trung bình là 2,2 năm, cao hơn rất nhiều so với các giống bò khác.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng này là giống bò đang bị thoái hoá, khả năng sinh đẻ thấp. Không có bò đực giống, hoặc bò đực giống không đảm bảo chất lượng cộng với việc cho giao phối tự nhiên không kiểm soát dẫn đến tỷ lệ thụ thai bò cái thấp. Mặt khác do việc chăn thả rông cho nên số bê sinh ra không được phát hiện, chăm sóc dẫn đến tỷ lệ chết khá lớn.
Chăn nuôi đại gia súc là một lợi thế so sánh đối với vùng cao, đặc biệt là việc phát triển chăn nuôi bò là một hướng thoát nghèo có tính khả thi cao, do bò là loại gia súc dễ nuôi, thời gian thu hồi sản phẩm không lâu, khả năng tái sản xuất mở rộng cao, độ rủi ro thấp.Tuy nhiên, nếu ngay từ bây giờ chúng ta không có những biện pháp tích cực để bảo tồn, phục tráng giống bò này thì trong một thời gian không xa sự xuống cấp về chất lượng giống bò vùng cao sẽ khó có thể cứu vãn.
Quốc Tuấn
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.