Nguồn tin: Báo Yên Bái, 12/3/2010
Ngày cập nhật:
13/3/2010
Theo số liệu thống kê năm 2009, toàn tỉnh có 400.000 con lợn, trong đó có 49.000 con lợn nái, 1.553 lợn đực giống. Nếu xét về mặt lý thuyết thì với 49.000 lợn nái, trong đó có khoảng 35.000 lợn nái trong thời điểm sản xuất, mỗi lợn nái chỉ cần cung cấp 14 con lợn giống/năm thì chúng ta hoàn toàn có thể tự túc được giống lợn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, lợn nái hiện nay chủ yếu được nuôi trong các hộ với quy mô nhỏ lẻ.
Có ý định phát triển chăn nuôi hàng hóa tập trung, quy mô lớn, ông Nguyễn Kim Hội ở thôn 1 xã Văn Phú (TP. Yên Bái) đã mua thêm 22 con lợn giống tại Phú Thọ để bổ sung cho đủ 100 con.
Thật không may, ông đã mua phải lợn ủ bệnh và ngay sau khi mua về đã phát bệnh và lây lan sang toàn bộ đàn lợn đang có tại nhà, làm chết gần 100 con lợn, gây thiệt hại khá lớn. Tương tự như vậy, ông Vũ Văn Vị, thôn 7 xã Hợp Minh (thành phố Yên Bái) có sẵn 70 con lợn, mua thêm 30 con lợn giống thông qua lái buôn tại Vĩnh Phúc.
Ngay sau khi mua bổ sung, đàn lợn đã phát bệnh, làm cho gia đình lao đao, đến bây giờ vẫn còn “sợ” chưa dám nuôi trở lại.
Đó không phải là cá biệt đối với các hộ đầu tư nuôi lợn thịt với quy mô lớn, gặp phải rủi ro trong việc mua phải con giống ủ bệnh. Anh Nguyễn Văn Hồi, thôn 3 xã Tân Thịnh (thành phố Yên Bái) là hộ có trên 20 lợn nái mới mua về nói: “Khi có ý định phát triển chăn nuôi lợn, chúng tôi cũng đã phải tìm hiểu và nắm bắt về khoa học kỹ thuật, cho nên biết rằng việc mua con giống trôi nổi thì nguy cơ mắc dịch bệnh là rất lớn, con giống không đồng đều về độ tuổi, rất khó chăm sóc, song chúng tôi cũng chẳng biết mua ở đâu cả nên đành phải đặt hàng những người chuyên buôn lợn giống cung cấp cho chúng tôi”.
Anh Trần Văn Thống cùng ở xã Tân Thịnh là một thương lái đã cung cấp khá nhiều lợn giống cho các trang trại chăn nuôi lợn trong năm 2009 cho biết: nguồn cung cấp lợn giống chủ yếu là mua gom tại các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ trong tỉnh và các tỉnh: Phú Thọ, Tuyên Quang.
Thấy lợn khỏe mạnh thì mua, cũng chẳng biết người ta đã tiêm phòng bệnh hay chưa. Chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của mình, khi mua về anh đều đưa về nhà và tiêm phòng bệnh xong mới giao cho các hộ và bảo hành đàn lợn 20 ngày nên được mọi người tín nhiệm. Với lại, anh Thống sẵn có nghề thú y nên lỡ lợn có mắc bệnh thì cũng chạy chữa được. Nếu người chăn nuôi không có kinh nghiệm, chỉ cần mua phải vài con mắc bệnh hay ủ bệnh thì sẽ lây lan ra cả đàn.
Qua tìm hiểu, thấy rằng hầu hết các hộ chăn nuôi đều có khó khăn trong việc mua giống lợn và nguy cơ tiềm ẩn về dịch bệnh gây rủi ro là rất lớn, đặc biệt là đối với những hộ bắt đầu đi vào phát triển chăn nuôi lợn. Điều này, đặt cho chúng ta một câu hỏi là, phải giải quyết vấn đề về giống như thế nào?
Anh Nguyễn Tất Thắng, thôn Thanh Bình xã Phú Thịnh (huyện Yên Bình) cho biết: hiện nay, gia đình anh nuôi ổn định 200 lợn thịt/lứa. Ban đầu anh cũng đã gặp phải dịch bệnh khi mua giống lợn từ Vĩnh Phúc, Phú Thọ chuyển lên. Sau vài lần rủi ro, anh quyết định nuôi thêm 30 lợn nái để có thể chủ động cung cấp nguồn giống phục vụ, từ đó anh đã có thể yên tâm phát triển chăn nuôi.
Theo số liệu thống kê năm 2009, toàn tỉnh có 400.000 con lợn, trong đó có 49.000 con lợn nái, 1.553 lợn đực giống. Nếu xét về mặt lý thuyết thì với 49.000 lợn nái, trong đó có khoảng 35.000 lợn nái trong thời điểm sản xuất, mỗi lợn nái chỉ cần cung cấp 14 con lợn giống/năm thì chúng ta hoàn toàn có thể tự túc được giống lợn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, lợn nái hiện nay chủ yếu được nuôi trong các hộ với quy mô nhỏ lẻ.
Theo số liệu của Trung tâm Giống vật nuôi, thực hiện điều tra 948 hộ chăn nuôi lợn nái tại vùng thấp các huyện: Yên Bình, Trấn Yên, Văn Chấn (là vùng có phong trào chăn nuôi lợn tương đối phát triển) thì mới có 1.800 con lợn nái, như vậy mỗi hộ trung bình chỉ nuôi chưa được 2 con lợn nái trong đó, lợn giống nội (Móng Cái, ỉ, lang hồng) chiếm 70%, lợn nái lai chiếm 30%); giống nuôi không đồng nhất, thiếu chọn lọc, chủ yếu lợn nái được phối giống bằng phương pháp nhẩy trực tiếp, cũng là vấn đề cho thấy chăn nuôi lợn tại vùng được coi là tương đối phát triển vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Ngoài ra, dịch bệnh cũng là một trở ngại rất lớn cho người chăn nuôi.
Ông Lương Văn Vinh – một hộ làm nghề nuôi lợn đực giống tại xã Mậu A (huyện Văn Yên) cho biết: “Tôi đi nhiều nơi thấy, từ năm 2008 đến nay bệnh lợn nghệ (leptospira) xuất hiện rất nhiều trên đàn lợn nái. Nhiều hộ đã phải để trống chuồng do lợn mắc bệnh chết, mà nếu có chữa khỏi thì khả năng sản xuất cũng không cao, bệnh này có khả năng lây lan mạnh và rất khó chữa”.
Trong 2 năm trở lại đây, với chương trình phát triển chăn nuôi hàng hóa, tỉnh cũng đã hỗ trợ 30 triệu đồng/trang trại chăn nuôi lợn nái với quy mô 20 con trở lên. Chính sách này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển chăn nuôi tập trung theo hướng hàng hóa. Đã có gần 100 trang trại chăn nuôi lợn nái đảm bảo các tiêu chí được hỗ trợ. Tuy nhiên, số lượng như vậy còn rất ít, cần phải đẩy mạnh phát triển thêm nữa. Kèm theo đó là phải kiểm soát tốt chất lượng đàn nái nuôi trong các hộ này để đảm bảo có con giống tốt.
Trở lại vấn đề, làm thế nào để phát triển sản xuất giống lợn trong nông hộ có hiệu quả? Thì mô hình phát triển chăn nuôi lợn của anh Nguyễn Tất Thắng là một trường hợp cho chúng ta một gợi ý rất đáng quan tâm.
Trước mắt, người chăn nuôi lợn thịt nên chủ động con giống bằng cách chăn nuôi lợn nái để có thể tự cung cấp con giống và giảm được giá thành. Hai cơ sở chăn nuôi lợn lớn của tỉnh hiện nay là Tổng công ty Hoà Bình Minh và Trung tâm Chăn nuôi công nghệ cao cũng đang áp dụng hình thức này.
Tuy nhiên, về lâu dài thì tỉnh cũng cần phải có những trang trại chăn nuôi lợn ông bà để có thể cung cấp đàn lợn bố mẹ cho người chăn nuôi lợn sản xuất lợn thương phẩm. Có như vậy thì chúng ta mới có thể kiểm soát được vấn đề chất lượng con giống và dịch bệnh. Còn về lợn đực giống, hiện nay với hình thức phối giống nhẩy trực tiếp là chủ yếu (trung bình cứ 32 lợn nái có 1 lợn đực giống).
Điều này là không tốt, do chủ yếu sử dụng lợn đực giống nhẩy trực tiếp, chất lượng con giống sẽ không cao, nguy cơ lây lan dịch bệnh lớn. Trong 2 năm gần đây, Trung tâm Giống vật nuôi cũng đã xây dựng được 6 điểm thụ tinh nhân tạo lợn tại vùng thấp các huyện: Văn Yên, Yên Bình, Văn Chấn theo hình thức chủ yếu là chuyển đổi các hộ đang nuôi lợn giống nhẩy trực tiếp, chuyển sang làm thụ tinh nhân tạo.
Các hộ này được đào tạo về kỹ thuật khai thác, pha chế tinh lợn và phối giống cho lợn nái và chịu sự quản lý về kỹ thuật của Trung tâm. Ngoài ra, còn được hỗ trợ mua giống lợn có chất lượng tốt để khai thác tinh. Thực tế cho thấy, mô hình chuyển đổi này rất hiệu quả, mỗi năm 6 điểm này đã phối giống cho được gần 10.000 lượt lợn nái, nếu tiếp tục phát triển trong thời gian tới sẽ đảm bảo được chất lượng của con bố cho việc phát triển sản xuất lợn giống tại địa phương. Hiện nay, sản lượng thịt lợn hàng năm chiếm tới gần 80% tổng sản lượng thịt của tỉnh.
Việc phát triển chăn nuôi lợn theo hướng hàng hóa tập trung không những tạo ra cơ hội làm giàu cho người chăn nuôi mà còn góp phần phát triển kinh tế tại địa phương, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Tuy nhiên, vấn đề con giống cần phải được chú trọng hơn nữa để tạo tiền đề phát huy hiệu quả trong chăn nuôi lợn, giúp người chăn nuôi yên tâm sản xuất.
Nguyễn Tuấn
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.