Nguồn tin: Khoa học phổ thông, 03/04/2010
Ngày cập nhật:
9/4/2010
Anh Phạm Văn Hà (36 tuổi), ở thôn Trà Kiệu Tây, xã Duy Sơn (huyện Duy Xuyên - Quảng Nam) trở thành người nuôi gà rừng chuyên nghiệp, đã cung cấp cho thị trường khoảng 500 con gà rừng giống, cho doanh thu gần 200 triệu đồng. Hiện đàn gà của anh còn lại hơn 100 con lớn nhỏ và tiếp tục phát triển.
Tiếp chúng tôi trong khuôn viên trang trại, anh Hà cho biết: Vào năm 2002, một lần đi rẫy cùng gia đình, anh nhặt được 7 quả trứng gà rừng. Anh mừng quá, mang về cho gà nhà ấp. Gần 20 ngày sau, trứng nở những chú gà con nhỏ thó nhưng không kém phần xinh xắn. Do chưa có kinh nghiệm nuôi gà rừng nên 4 con đã chết, 3 con còn lại anh tiếp tục nuôi và thuần dưỡng, trong đó có 1 con gà trống.
Ban đầu vì thiếu kiến thức nên việc chăm sóc những con gà rừng của anh gặp rất nhiều khó khăn. Thông qua các phương tiện ti vi, sách báo anh tự mình học hỏi kỹ thuật chăm sóc gà rừng nên từ 3 con gà ban đầu, vài năm sau đàn gà của anh ngày một phát triển. Để có thêm nguồn gà, anh Hà tìm hỏi những người đi rừng, chăn bò chăn trâu để hỏi mua thêm trứng mỗi khi họ vô tình tìm được để đưa về cho gà rừng nhà ấp.
Rút kinh nghiệm dần, sau một năm chú tâm chăm sóc, anh có đàn gà hơn 10 con cả trống lẫn mái. Liên tục trong 2 năm sau đó, đàn gà rừng của anh phát triển lên 30 con và bắt đầu thả được vào khu đất rừng ở phía sau nhàâ. Buổi sáng mở chuồng cho gà vào rừng ăn, tối về chuồng nhốt, thời gian này cũng có mất mát gà (do không biết đường về và/hoặc bỏ đi), nhưng đến nay thì số gà bỏ đi rất ít.
Hàng ngày anh vào rừng đào những ổ mối, bắt dế, nhái cùng với ngô, lúa... những món thức ăn đơn giản giúp gà rừng lớn rất nhanh. Để tập thói quen cho gà, cứ chiều tối hàng ngày, trước khi cho gà ăn, anh huýt sáo. Gà rừng như hiểu được tiếng người chủ nên lâu dần trở thành thói quen, càng ngày người và gà càng gần gũi nhau hơn.
Cứ mỗi chiều, anh huýt sáo để chúng bay về. Khi gà mái chạy quanh nhà tìm ổ để đẻ, anh Hà lót hai cái ổ cũng giống như ổ cho gà nhà. Sau gần 10 ngày đẻ 15 trứng, 2 con bắt đầu ấp. Trong thời gian gà mái ấp, con gà trống suốt ngày chỉ quanh quẩn trong sân nhà để canh giữ. Gần 20 ngày sau, đàn gà con đã chào đời sau hơn 6 tháng chăm sóc.
Anh Hà cho hay, lúc đầu anh chỉ nuôi gà rừng để thỏa mãn ham thích theo kiểu nuôi trồng sinh vật cảnh vốn có của anh. Song, ý tưởng phát triển mạnh chăn nuôi gà rừng để cho thu nhập khi cuối năm 2003, có nhiều người đến hỏi mua gà rừng về làm cảnh nhưng anh Hà không có đủ lượng gà để bán. Đầu năm 2004, anh bắt tay vào phát triển đàn gà rừng của mình theo hướng quy mô hơn. Đến nay anh có gần 100 con gà rừng, mỗi năm xuất bán 60 - 80 con gà trưởng thành (cả trống và mái), với giá 800.000 đồng một cặp và gà choai 500.000 đồng một cặp. Nhiều khi không có gà để bán cho khách, phải hẹn một thời gian để gà... đủ tuổi. Khách hàng của anh ở khắp nơi, nhưng nhiều nhất là từ miền Nam tìm mua về nuôi kiểng trong nhà.
Anh Hà cho biết, hiện tại trang trại có 3 con trống giống với khoảng 20 gà mái đẻ. Tuy nhiên, còn có gà trống rừng thường hay bay về “giao lưu” với đàn gà mái nên năng suất, chất lượng gà con được cao hơn. Song, phải chú ý, gà trống rừng gặp nhau thường tranh giành lãnh địa, con mái đi đến đá nhau. Đặc điểm nhận dạng giữa gà ta và gà rừng là gà trống đến 8 tháng tuổi, tai bắt đầu trắng lên, gà mái thì tai có màu xanh, lông màu tro, cả gà trống lẫn mái chân đều có màu chì, đó là lúc gà trưởng thành. Gà trống rừng nặng tối đa khoảng trên 1 kg và gà mái khoảng 700 g.
Theo anh Hà thì nuôi gà rừng vừa dễ nhưng cũng vừa khó, nếu không có bí quyết gà sẽ bỏ vào rừng hết. Để chứng minh, anh Hà liên tục huýt sáo bằng một âm điệu “đặc trưng”, bỗng đâu gà rừng ở trong rừng có số bay, có số chạy về cả đàn, đáp xuống trước cửa chuồng. Khi gà mái làm tổ trong rừng để đẻ thì nên phá đi, vài lần như thế, gà mái sẽ về chuồng để đẻ trứng. Ngoài ra, gà rừng con phải được nuôi trong lồng cách ly với mặt đất, cho ăn mồi bằng thức ăn công nghiệp dành cho gà và thêm côn trùng, cỏ, rau. Sau 20 ngày tuổi thì ngưng cho thức ăn công nghiệp. Gà rừng đến 6 tháng tuổi là coi như trưởng thành.
Nhờ sự quan tâm, ủng hộ của Hội nông dân xã, Hợp tác xã dịch vụ và có nguồn thu từ gà rừng, anh đã mạnh dạn đầu tư 60 triệu đồng để xây dựng thêm một chuồng nuôi nhím tương đối quy mô với 13 con nhím trưởng thành. Đầu năm 2010, anh bán 2 cặp, thu về 60 triệu đồng, mở ra một hướng đi mới trong làm ăn kinh tế tại một vùng đất nghèo như ở Duy Sơn.
Trang trại nuôi gà rừng của anh Hà tuy trong giai đoạn thể nghiệm, nhưng xem ra có nhiều hiệu quả bởi tiền đầu tư giống, thức ăn, làm chuồng trại không bao nhiêu, lại thêm gà rừng có sự miễn dịch tốt, chưa thấy bệnh tật. Ngoài ra, nhu cầu tiêu thụ gà rừng rất mạnh nên gà anh nuôi thường không đủ bán cho người tiêu dùng. Nhiều người cho rằng: Có thể đây là trang trại nuôi gà rừng lớn nhất miền Trung. Hàng năm, anh Hà thu nhập khoảng 50 triệu đồng từ tiền bán gà rừng nuôi thả.
QUỐC KỲ
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.