Nguồn tin: Báo Thanh Hoá, 30/08/2010
Ngày cập nhật:
31/8/2010
Nhiều năm gần đây, tỉnh Thanh Hoá thực hiện Chương trình “Cải tạo nâng cao tầm vóc đàn bò” đã đem lại hiệu quả kinh tế khá cho nhiều hộ dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân tác động làm cho việc cải tạo chất lượng con giống mới chỉ duy trì ở phần “ngọn” mà chưa giữ lại phần “gốc”. Bê cái lai sinh ra có tầm vóc, trọng lượng cơ thể tốt hơn bò vàng địa phương nhưng chưa được hộ chăn nuôi giữ lại làm nền sinh sản mà chủ yếu là bán thịt “ăn sổi”.
Hiệu quả bước đầu
Thanh Hóa là địa phương có nhiều ưu thế cho phát triển chăn nuôi đại gia súc. Nhiều năm trước, tỉnh đã có chủ trương du nhập giống bò ngoại và thụ tinh nhân tạo (TTNT) cho đàn bò cái địa phương nhằm cải tạo chất lượng con giống, nâng cao giá trị thu nhập cho hộ chăn nuôi. Để thực hiện có hiệu quả, UBND tỉnh giao cho Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật chăn nuôi (NCUD KHKT CN) tỉnh trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật TTNT, đào tạo dẫn tinh viên, cung cấp vật tư, tinh đông lạnh phối giống... đồng thời có cơ chế, chính sách hỗ trợ các hộ chăn nuôi bò về vật tư, kinh phí phối giống. Tại các huyện cũng đưa ra nhiều chính sách như: khuyến khích các hộ nuôi bò có tỷ lệ máu ngoại 50% trở lên; hỗ trợ kinh phí thiến bò đực cóc địa phương, quy hoạch vùng trồng cỏ... Sau nhiều năm triển khai thực hiện, đàn bò các địa phương trong tỉnh có nhiều chuyển biến về chất lượng và số lượng. Tỷ lệ zêbu hóa đàn bò năm sau cao hơn năm trước, đời sống của hộ chăn nuôi bò sinh sản từng bước được cải thiện. Chị Trịnh Thị Truyền, thôn Thành Phú, xã Định Tường (Yên Định), cho biết: “Gia đình tôi 6 năm nay nuôi 2 con bò cái nội và đều tham gia TTNT. Số bê lai sinh ra nuôi khoảng 5 tháng là xuất bán, thời điểm được giá, có con bán từ 6 đến 8 triệu đồng, cao hơn bê “cỏ” khoảng 3 đến 4 triệu đồng”. Hiệu quả nuôi bò cái sinh sản bằng phương pháp TTNT đã trở thành phong trào làm kinh tế, thu hút nhiều hộ chăn nuôi bò trên địa bàn tỉnh tham gia. Hàng năm, trung tâm cung ứng cho các đơn vị trên địa bàn tỉnh từ 35 đến 40 ngàn liều tinh đông lạnh để phối giống cho bò, số lượng thụ thai đạt hiệu quả từ 75 đến 80%, góp phần nâng tỷ lệ bò zêbu trên địa bàn tỉnh đạt hơn 60% tổng đàn. Trong đó, các huyện có tỷ lệ zêbu hóa đàn bò đạt cao như: huyện Thọ Xuân đạt 80%; Thiệu Hóa đạt hơn 90%; Nông Cống đạt 65%...
Vì sao “ngọn”... chưa liền “gốc”?
Hiệu quả là vậy, nhưng trên thực tế tại các huyện Triệu Sơn, Yên Định, Quảng Xương... số đông các hộ dân tham gia TTNT đàn bò còn mang tính “ăn sổi”, nuôi theo từng thời điểm, chưa thực hiện đúng hướng mục đích của chương trình là nhằm cải tạo, thay thế đàn. Số bê lai sinh ra được các hộ nuôi từ 3 đến 4 tháng xuất bán để tăng thu nhập cho gia đình, rất ít hộ lựa chọn những con bê cái lai giữ lại làm nền sinh sản do nuôi khó hơn, chế độ ăn, chăm sóc cao hơn bò vàng địa phương, thời gian động dục chậm hơn. Nếu chăm sóc về chế độ dinh dưỡng, phòng bệnh không tốt bò cái lai có thể sẽ không động dục. Bên cạnh đó, số bê đực lai có tỷ lệ 50% máu ngoại cũng ít hộ giữ lại nuôi cho nhảy trực tiếp với bò cái địa phương. Gần đây, sự phát triển của cơ giới hóa vào đồng ruộng, sức kéo và nguồn phân bón từ đàn bò không còn cần thiết như trước nên các hộ nuôi bò chủ yếu nuôi để bán thịt thương phẩm. Tại các xã Dân Quyền, Đồng Thắng, Đồng Tiến... (Triệu Sơn), do không được quản lý chặt chẽ nên một số hộ nuôi bò đực lai F1 và bò đực cóc cho nhảy trực tiếp với bò cái địa phương đã ảnh hưởng đến chất lượng cải tạo đàn bò, con giống không bảo đảm, bò cái dễ bị viêm đường sinh sản làm chậm khả năng động dục, đẻ kém, đồng thời làm cho tỷ lệ cải tạo đàn bò ở một số địa phương chưa cao. Do vậy tỷ lệ bò lai ở huyện Triệu Sơn mới chỉ chiếm 10% tổng đàn.
Trao đổi với đồng chí Hoàng Khắc Hải, Giám đốc Trung tâm NCUD KHKT CN tỉnh về thực trạng trên, được biết: Chủ trương của tỉnh thực hiện chương trình “Cải tạo nâng cao tầm vóc đàn bò” là nhằm hướng các hộ nuôi theo trang trại vừa kiểm soát được dịch bệnh vừa lựa chọn được chất lượng con giống tốt hơn so với nuôi gia trại. Việc cải tạo nâng cao tầm vóc đàn bò được thực hiện bằng hai phương pháp là cho phối giống trực tiếp bằng bò đực lai zêbu bảo đảm tiêu chuẩn giống tại các huyện miền núi và phương pháp TTNT ở các huyện đồng bằng và trung du. Cả hai phương pháp này đều có thuận lợi và khó khăn riêng, nhưng do tập quán chăn nuôi truyền thống vẫn còn phổ biến, hộ chăn nuôi chưa thực sự tuân thủ quy trình tuyển chọn giống, chăm sóc... nên hiệu quả cải tạo đàn bò mang tính chất lâu dài vẫn chưa được thực hiện.
Thực tế cho thấy, trở ngại lớn nhất của người chăn nuôi chính là sự biến động của thị trường tiêu thụ và thị trường thức ăn. Việc quy hoạch đồng cỏ chưa khoa học, một số chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm, trong khi tỉnh chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích hộ chăn nuôi giữ bò cái lai làm nền sinh sản để tạo ra những bê lai đạt 50% máu ngoại trở lên... Mặc dù năm 2009, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 3978/2009/QĐ-UBND về “Điều chỉnh, bổ sung chính sách khuyến khích phát triển trang trại chăn nuôi tập trung giai đoạn 2010 - 2012, trong đó có chính sách hỗ trợ đối với chăn nuôi trâu, bò: đối với trang trại nuôi quy mô 100 con trâu, bò trở lên sẽ được tỉnh hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, giải phóng mặt bằng trực tiếp cho chủ trang trại 100 triệu đồng/trang trại (miền xuôi) và 120 triệu đồng/trang trại (miền núi); trang trại có quy mô 50 con đến 100 con trâu, bò được hỗ trợ 50 triệu đồng/trang trại (miền xuôi) và 60 triệu đồng/trang trại (miền núi). Tuy nhiên, do hộ chăn nuôi thiếu vốn đầu tư, thị trường không ổn định nên chỉ có số ít hộ chăn nuôi bò có đủ điều kiện được hưởng chính sách này của tỉnh. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số lượng đàn bò tỉnh Thanh Hoá đang có xu hướng giảm dần. Những năm trước, tổng đàn bò của tỉnh luôn duy trì từ 300 ngàn con trở lên, nhưng đến tháng 10 năm 2009 chỉ còn 273.500 con, đến tháng 4 năm 2010 giảm còn 256.088 con. Những khó khăn trên đã khiến nhiều hộ nuôi bò thu hẹp quy mô, nuôi “dè chừng”. Hộ anh Vũ Văn Tiến, thôn Bối Lim, xã Định Tường (Yên Định) có thời điểm nuôi 28 con bò cái sinh sản, đến nay gia đình anh chỉ còn nuôi 6 con. Xã Quý Lộc (Yên Định) được coi là mô hình nuôi bò của tỉnh, có 187 trang trại (bò, lợn), nhưng đến nay chỉ còn 167 trang trại, trong đó các trang trại bò đều chuyển sang chăn nuôi tổng hợp...
Giải pháp để “ngọn” liền “gốc”...
Để cải tạo nâng cao tầm vóc đàn bò mang tính lâu dài, bền vững đang là vấn đề quan trọng cần sớm được các cấp, các ngành tìm giải pháp khắc phục. Trước mắt, tỉnh cần tập trung đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp; khuyến khích hộ chăn nuôi bò tham gia cải tạo, nâng cao tầm vóc đàn bò và tuân thủ quy trình chăm sóc bò lai, đồng thời hỗ trợ kinh phí cho hộ dân thiến bò đực cóc địa phương; xây dựng hệ thống quản lý chất lượng con giống, phát triển và quản lý mạng lưới TTNT. Bên cạnh đó, tỉnh cần xem xét kỹ từng vùng để bố trí các phương pháp phối giống thích hợp, đem lại hiệu quả cao. Thực tế cho thấy, “rào cản” trong cải tạo đàn bò còn là vấn đề thức ăn và thị trường tiêu thụ. Vì vậy, việc quy hoạch đồng cỏ chủ động nguồn thức ăn cho bò, phổ biến các phương pháp dự trữ chế biến thức ăn xanh (sản xuất cỏ khô, cỏ ủ chua, sử dụng hợp lý các sản phẩm phụ trong nông nghiệp...) là thực sự cần thiết. Không chỉ thế, tỉnh cần sớm có cơ chế, chính sách điều tiết hỗ trợ người chăn nuôi khi thị trường có nhiều biến động; tổ chức tập huấn cho nông dân kỹ thuật về chăn nuôi, vệ sinh chuồng trại, nhất là trong thời điểm bò sinh sản và nuôi bê con, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về vệ sinh phòng dịch bệnh... Trên cơ sở các chính sách đã ban hành, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu cho UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung kịp thời những bất cập và tiếp tục ban hành chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp - nông thôn; huy động các nguồn vốn đầu tư, vốn ưu đãi đối với tập thể, cá nhân xây dựng trang trại chăn nuôi bò.
Lê Hà
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.