Nguồn tin: Báo Công Thương, 03/11/2010
Ngày cập nhật:
4/11/2010
Hiện nay, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi (TACN) nước ta được đánh giá vẫn còn nhiều bất cập. Trong khi hiện nay, lượng tồn kho TACN của các doanh nghiệp ở mức cao do nhu cầu thị trường giảm, nhưng giá TACN lại tiếp tục có những biến động theo chiều hướng tăng.
Một trong những nguyên nhân là do nền sản xuất TACN nước ta đang phải phụ thuộc vào nước ngoài với tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu hàng năm khoảng 2 tỷ USD, mặc dù nước ta là một nước nông nghiệp và có nhiều tiềm năng đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của các nhà máy sản xuất TACN trong nước.
Doanh nghiệp tồn kho TACN
Chỉ cách đây vài năm, nhiều doanh nghiệp TACN sản xuất không kịp hàng để bán. Nay thì ngược lại, nhiều doanh nghiệp tồn hàng trăm ngàn tấn thức ăn chăn nuôi. Hàng không bán được, nợ ngân hàng vẫn phải trả lãi hàng tháng khiến không ít doanh nghiệp có nguy cơ phá sản.
Nguyên nhân là từ đầu năm 2010 đến nay, đầu ra sản phẩm chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn do tác động thị trường xuất khẩu và dịch bệnh. Như trong suốt ba bốn tháng nay, ngành chăn nuôi heo, gà lỗ nặng vì dịch heo tai xanh. Hiện nay, hầu hết người chăn nuôi không còn vốn đầu tư nuôi mới hoặc hạn chế gây đàn nên tiêu thụ thức ăn giảm tới 40% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, do tác động khủng hoảng kinh tế, nợ nần ở các nước châu Âu khiến giá nhiều mặt hàng thủy sản, trong đó có cá tra giảm mạnh từ hai năm nay.
Nhiều công ty sản xuất TACN cho biết, họ đang phải chịu áp lực lớn từ vốn vay ngân hàng do hàng tiêu thụ chậm, giảm 30 - 60%. Theo các công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi, hoạt động của họ chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng, chiếm từ 70 - 80%. Hàng tiêu thụ không được cũng đồng nghĩa các DN bị lỗ nặng do hàng tháng phải trả lãi ngân hàng rất lớn.
Những công ty lớn hiện có lượng nguyên liệu tồn kho khoảng 100.000 tấn, với số vốn lên đến 500 - 600 tỷ đồng. Còn những công ty vừa và nhỏ cũng phải tồn kho 4.000 - 10.000 tấn, vốn ứ đọng lên đến 20 - 50 tỷ đồng. Như vậy, mỗi tháng một doanh nghiệp phải trả lãi từ 250 triệu đến hơn 500 triệu đồng. Theo ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, việc tồn kho mặt hàng thức ăn còn xuất phát từ nguyên nhân do tháng 3, tháng 4 năm nay, giá đậu nành giảm từ 420 USD/tấn xuống còn 358 - 360 USD nên doanh nghiệp tranh thủ ký hợp đồng nhập về.
Giá thức ăn chăn nuôi tiếp tục tăng
Theo các đại lý TACN, các công ty sản xuất TACN vừa thông báo tăng giá bán các loại thức ăn thành phẩm, với mức tăng trung bình 200 đồng/kg (với cám đậm đặc), 120 đồng/kg (với cám hỗn hợp), 450 đồng/kg đối với thức ăn tôm sú và 150 đồng/kg đối với thức ăn cho cá tra. Đây là lần tăng giá thứ 3 trong tháng này.
Hiện tượng tăng giá TACN được giải thích là do nguồn nguyên liệu trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu phải phụ thuộc vào nhập khẩu, tác động của xu hướng tăng tỷ giá ngoại tệ đã đẩy cho chi phí nhập khẩu nguyên liệu tăng cao. Để sản xuất ra TACN thành phẩm, các công ty nhập khẩu tới trên 80% lượng nguyên liệu từ nước ngoài. Trong đó, sản lượng bắp trồng trong nước chỉ đáp ứng chưa được 50% nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu.
Dự đoán về mức biến động giá TACN, nhiều chuyên gia trong ngành cho biết, từ đầu quý 4 trở đi là thời điểm của sản xuất, chăn nuôi phục vụ Tết Dương lịch, sau đó là Tết Nguyên đán nên giá thành thức chăn nuôi theo mùa vụ sẽ biến động theo chiều hướng tăng. Ngoài ra, thời điểm này cũng là thời điểm nhập nguyên liệu của các nhà máy sản xuất.
Phụ thuộc hoàn toàn nước ngoài
Nguyên liệu sản xuất TACN được chia ra thành ba nhóm. Nhóm năng lượng gồm bắp, mì, cám gạo, lúa mì, khoai mì lát. Nhóm thứ 2 là đạm, như đậu nành, bột cá, bột thịt. Nhóm thứ 3 có khoáng và vitamin.
Các loại nguyên liệu thức ăn giàu đạm như đậu tương, khô dầu, doanh nghiệp phải nhập 90 - 95%. Các chất khoáng, vitamin, tạo mùi, tỷ lệ nhập khẩu lên đến 100%. Nhóm sản phẩm năng lượng, trước đây Việt Nam tự chủ được khoai mì, cám gạo và bắp, nhưng hiện nay ngành chăn nuôi phải nhập từng ký khoai mì về chế biến TACN, vì khoai mì trong nước sản xuất ra lại dùng để sản xuất ethanol. Hiện tại, giá khoai mì trên 5.000 đồng/kg, mức giá này quá cao để làm nguyên liệu sản xuất TACN.
Trong năm 2009, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 2,1 tỷ USD các loại TACN và nguyên liệu. Trong đó, trên 1 tỷ USD để mua khô dầu đậu tương, trên 300 triệu USD mua bắp, trên 280 triệu USD mua bột cá, xương thịt… Theo Hiệp hội thức ăn chăn nuôi, ước tính năm 2010, Việt Nam phải nhập khoảng 1,6 triệu tấn bắp, tăng 350.000 tấn so với năm 2009. Các loại nguyên liệu thức ăn giàu đạm khác như đậu tương, khô dầu phải nhập 90 - 95%; premix khoáng, vitamin, các chất tạo màu, tạo mùi nhập khẩu 95% - 98%, thậm chí 100%. Tính đến 9 tháng đầu năm 2010, ngành chế biến thức ăn chăn nuôi đã phải nhập khẩu gần 1,6 tỷ USD nguyên liệu. Hiện Việt Nam là một trong 5 nước phải nhập khẩu một số loại nông sản lớn nhất khu vực châu Á.
Sản xuất chế biến thuốc thú y cũng là một trong những ngành quan trọng hỗ trợ cho ngành chăn nuôi gia súc, thủy sản xuất khẩu. Tuy nhiên, những mặt hàng này nước ta vẫn phải hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Hiện ngành thuốc thú y của Việt Nam cũng phải nhập khẩu 100% nguyên liệu thuốc thú y. Toàn bộ hóa chất nguyên liệu những loại thuốc khử trùng, sát trùng môi trường nước đều phải nhập vì chưa sản xuất được. Mỗi năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải nhập khẩu từ 500 - 600 tấn, chỉ tính riêng các loại thuốc dành cho ngành thủy sản.
Để ổn định giá thức ăn chăn nuôi
Hiện nay, những sản phẩm bắp, đậu tương biến đổi gien đã được phát triển và nhân giống mạnh. Tuy nhiên, việc áp dụng và trồng những loại này ở Việt Nam vẫn mới chỉ ở mức nghiên cứu khả thi, khảo nghiệm chứ chưa mở rộng canh tác đại trà. Do đó, các ngành chức năng, các cơ quan nghiên cứu cần nhanh chóng phát triển các loại cây trồng biến đổi gien, cho năng suất cao, nhằm kích thích nông dân chuyển sang trồng những loại cây này với lợi nhuận cao hơn và tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Về lâu dài, phải tiến tới việc xây dựng các vùng nguyên liệu, áp dụng các biện pháp để tăng năng suất. Tăng cường nghiên cứu, sử dụng các giống có năng suất cao, kể cả các giống biến đổi gien để hạn chế nhập khẩu.
Ngoài ra, các cơ quan nghiên cứu phải đưa ra được các phương pháp bảo quản tiên tiến để giảm xuống mức thấp nhất tổn thất sau thu hoạch đối với các loại cây nông nghiệp làm nguyên liệu sản xuất TACN. Nông dân hiện chưa nắm được các kỹ thuật bảo quản tốt cộng với điều kiện khí hậu nóng ẩm nên hao tổn sau thu hoạch ở nước ta rất lớn. Như ngô được trồng ở vùng núi, khí hậu ẩm, bảo quản không tốt nên chất lượng không đảm bảo do mốc, mọt.
Bên cạnh đó là vấn đề quy hoạch các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi. Trước đây, các cơ quan chức năng quy hoạch chưa rõ ràng, đầu tư thiếu định hướng khiến các nhà máy phân bổ không đều. Nguyên nhân là do các nhà máy được xây dựng theo quy hoạch đầu tư của các tỉnh, nơi nào kêu gọi tốt hơn, thông thoáng hơn thì thu hút đầu tư nhiều. Do đó, trong thời gian tới cần có quy hoạch cụ thể số lượng các nhà máy TACN ở từng địa phương làm cơ sở quy hoạch toàn ngành, phân bổ đồng đều các nhà máy sản xuất, nhằm giảm các chi phí vận chuyển để giảm giá thành TACN.
Thành Công
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.