Nguồn tin: Báo Bắc Giang, 30/11/2010
Ngày cập nhật:
1/12/2010
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi đã khẳng định vai trò là ngành sản xuất chính trong nông nghiệp ở Bắc Giang với quy mô, giá trị sản phẩm ngày càng tăng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sức cạnh tranh sản phẩm chăn nuôi của tỉnh Bắc Giang còn thấp do chi phí đầu vào lớn, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được chú trọng, nguy cơ dịch bệnh cao...
Theo tổng hợp của ngành chức năng, tỉnh Bắc Giang hiện có khoảng 5 nghìn trang trại gia súc, gia cầm các loại, trong đó nhiều trang trại chăn nuôi gà quy mô 4 - 5 nghìn con/lứa, trang trại lợn nuôi tới hàng trăm con lợn nái, hàng nghìn con lợn thịt. Sự gia tăng nhanh về quy mô sản xuất làm cho tổng đàn gia súc gia cầm tăng, đưa Bắc Giang trở thành tỉnh có thứ hạng về chăn nuôi trong cả nước với tổng đàn lợn gần 1,2 triệu con (đứng thứ 6 toàn quốc), tăng 21% so với năm 2005, đàn gia cầm 15,4 triệu con (đứng thứ 3 toàn quốc sau Hà Nội và Nghệ An), đàn bò 150,9 nghìn con (đứng thứ 15 toàn quốc)... Ngoài ra, tỉnh Bắc Giang còn được biết đến là vùng gây nuôi, thuần dưỡng động vật hoang dã lớn như nuôi rắn, nhím, hươu, lợn rừng… Từ chăn nuôi với mục đích tận dụng thức ăn dư thừa của con người và lấy sức kéo đã từng bước hình thành và phát triển mạnh mẽ mô hình chăn nuôi hàng hoá. Qua đó không chỉ tạo việc làm, thu nhập cho người dân mà còn đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng ngành nông nghiệp. Năm qua giá trị chăn nuôi đạt hơn 4,5 nghìn tỷ đồng, đóng góp 47% tổng GDP ngành nông nghiệp.
Tuy nhiên, nhìn trên bình diện chung, sức cạnh tranh của sản phẩm chăn nuôi của nước ta nói chung, tỉnh Bắc Giang nói riêng còn thấp, sản phẩm chăn nuôi của Bắc Giang mới chỉ tiêu thụ ở thị trường nội địa là chính (chủ yếu ở các thành phố lớn), ít có cơ hội "xuất ngoại". Những năm qua, chăn nuôi hàng hoá phát triển mạnh nhưng đến nay, tỉnh mới có duy nhất một cơ sở sơ chế sản phẩm gia súc, gia cầm tuy nhiên quy mô sản xuất còn "khiêm tốn", việc đưa các sản phẩm sau sơ chế vào các siêu thị cũng còn không ít gian nan. Nguyên nhân của tình trạng trên là do chi phí "đầu vào" trong chăn nuôi còn lớn làm cho giá thành sản phẩm cao, giảm sức cạnh tranh so với sản phẩm chăn nuôi của các nước phát triển. Hạch toán cho thấy 70% giá thành sản phẩm chăn nuôi hình thành từ thức ăn, trong khi đó nhiều loại nguyên liệu đầu vào của ngành công nghiệp này phải nhập khẩu nên chịu tác động rất lớn trước biến động thị trường thế giới. Giá thức ăn chăn nuôi công nghiệp tại Việt Nam luôn cao hơn giá thức ăn chăn nuôi của thế giới từ 10 - 15% làm lợi nhuận của người chăn nuôi giảm đáng kể. Bà Ngô Thị Dung, chủ trang trại chăn nuôi lợn siêu nạc tại xã Đa Mai (thành phố Bắc Giang) cho biết: "Những năm gần đây, giá thức ăn chăn nuôi biến động mạnh, nếu phụ thuộc hoàn toàn vào thức ăn công nghiệp thì có những đợt giá tăng cao người chăn nuôi không có lãi thậm chí lỗ vốn". Một nguyên nhân khác là do xuất phát điểm thấp nên vẫn còn nhiều mô hình chăn nuôi nhỏ, đầu tư cho giống, chuồng trại ít, chất lượng con giống chưa được chú trọng và kiểm soát chặt chẽ. Đặc biệt, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, quy trình chăn nuôi hiện đại còn rất ít. Từ năm 2008, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành quy trình VietGAHP (quy trình chăn nuôi tốt) nhưng đến nay vẫn chưa có mô hình chăn nuôi nào trên địa bàn đạt được tiêu chuẩn này. Một số mô hình nuôi gà an toàn sinh học được triển khai thành công nhưng khả năng nhân rộng không nhiều.
Theo lộ trình hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) những năm tới, thuế suất đối với nhiều sản phẩm chăn nuôi sẽ giảm mạnh. Những sản phẩm chăn nuôi của nước ngoài có ưu thế cạnh tranh cao về giá và vệ sinh an toàn thực phẩm như: thịt bò, thịt lợn, trứng… sẽ "đổ bộ" vào nước ta. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với chính quyền, ngành chức năng, nhất là người chăn nuôi hiện nay là từng bước nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm để không bị thua ngay trên sân nhà, đồng thời tăng lợi nhuận từ chăn nuôi. Ông Dương Thanh Tùng, Trưởng phòng Chăn nuôi (Sở Nông nghiệp và PTNT) nói: "Để ổn định và phát triển chăn nuôi cần từng bước xoá bỏ hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ bằng việc hình thành các trang trại chăn nuôi tập trung. Với điều kiện của tỉnh có thể sản xuất ra những sản phẩm mà nhiều nước không có điều kiện để làm như chăn nuôi gà thả đồi hoặc nuôi các loại con đặc sản, trong đó vấn đề chất lượng giống vật nuôi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi chỉ có giống tốt mới cho chất lượng sản phẩm tốt". Đi đôi với các biện pháp trên, cần giảm chi phí "đầu vào" trong chăn nuôi bằng cách tự chế biến một phần thức ăn, sử dụng máy phát điện chạy bằng biogas để hỗ trợ chăn nuôi. Nhiều hộ chăn nuôi gà ở huyện Yên Thế và chăn nuôi lợn quy mô lớn ở Yên Dũng, thành phố Bắc Giang cho biết nếu tự chế biến thức ăn có thể tiết kiệm được từ 500 đến 700 đồng/kg thức ăn, hơn nữa lại kiểm soát được chất lượng sản phẩm. Áp dụng quy trình VietGAHP, tiến tới là AseanGAP và EuroGAP trong chăn nuôi cũng là giải pháp quan trọng, bởi chỉ khi có được tấm "giấy thông hành" này sản phẩm chăn nuôi mới có cơ hội thâm nhập vào những thị trường khó tính. Một vấn đề khác cần quan tâm là tăng cường liên doanh liên kết trong chăn nuôi để trao đổi kinh nghiệm, tranh thủ kỹ thuật, vốn đầu tư và chia sẻ rủi ro khi dịch bệnh xảy ra hoặc thị trường có biến động lớn về giá.
Huy Nam
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.