Nguồn tin: Khuyến Nông VN, 07/03/2011
Ngày cập nhật:
9/3/2011
Vùng cát ven biển của tỉnh Quảng Nam chiếm một diện tích rất lớn, khoảng trên 35.000 ha, tiềm lực và tiềm năng đều thua kém so với các vùng khác trong tỉnh. Trong nhiều năm qua tỉnh đã thu hút được nhiều dự án, chủ yếu là các dự án trồng rừng phòng hộ ven biển chống cát bay như PACSA, JICA… đã đem lại hiệu quả rất lớn về kinh tế - xã hội và môi trường. Thế nhưng, đời sống người dân vùng cát vẫn còn gặp nhiều khó khăn, sản xuất nông nghiệp từ trước đến nay chủ yếu cơ cấu cây trồng là các loại cây hoa màu như: đậu, rau, mè và cây có củ các loại chiếm hơn 40% tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt, mà chưa đưa ra được các giải pháp hoặc phương thức sản xuất phù hợp để đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân vùng ven biển. Vì vậy, tìm hướng đi mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng – con vật nuôi để giúp người dân vùng cát thoát nghèo và làm giàu bền vững, luôn là nỗi trăn trở của ngành, các cấp.
Trong vài năm trở lại đây, một số nông dân vùng cát đã mạnh dạn tìm hướng đi riêng cho mình, đầu tư triển khai nhiều mô hình như sản xuất rau theo hướng sạch hoặc sản xuất hoa – cây cảnh…, tuy chỉ tự phát nhưng bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Điển hình như hộ ông Nguyễn Hồng Anh tại thôn Tiên Đỏa, xã Bình Sa, trước đây gia đình ông chủ yếu sản xuất lúa, rau và phát triển chăn nuôi với những loài vật nuôi truyền thống như Bò, heo, gia cầm… Tuy nhiên, mấy năm trở lại đây, do tình hình dịch, bệnh lở mồm long móng, cúm H5N1… nên đã gây rất nhiều khó khăn cho người chăn nuôi. Chính vì lẽ đó đã đặt ra cho ông nhiều trăn trở và càng thôi thúc ông phải tìm hướng đi mới cho mình. Sau thời gian tìm hiểu các tài liệu kỹ thuật và học hỏi kinh nghiệm từ mô hình nuôi Nhông ở vùng cát các tỉnh bạn, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và Trạm Khuyến nông – Khuyến lâm Thăng Bình hỗ trợ 10 triệu đồng mua 1.000 con Nhông giống và hướng dẫn kỹ thuật nuôi, hộ gia đình ông đầu tư khoảng 5 triệu đồng để xây dựng tường gạch bao kín với diện tích 100 m2, mật độ thả 8 ÷ 10 con/m2.
Trao đổi với chúng tôi về kinh nghiệm và kỹ thuật nuôi thì được ông chi biết: Vì loài Nhông không giống như những loài vật khác, chúng rất nhút nhát nên chuồng phải được xây dựng ở những nơi yên tĩnh, cao ráo không bị ngập nước và thậm chí sau khi thả Nhông giống phí trên khu nuôi ta dung lưới thưa bao phủ để tránh sự xâm nhập của những loài vật khác gây hại cho Nhông (chó, mèo, chuột, gà…). Đáy chuồng phải được lót bằng gạch hoặc nền xi măng dày khoảng 2 ÷ 3 cm để không cho Nhông đào hang chui đi, nhưng phải bảo đảm khi mưa nước phải rút nhanh. Tường xây bằng gạch, cao từ 1,2 ÷ 1,5 m, mặt trong của tường tô xi măng thật láng hoặc dùng tôn láng đóng xung quanh, đặc biệt đối với các góc của tường không nên xây và tô vuông góc mà nên làm theo hình vòng cung hình bán nguyệt để Nhông không thể bám chân vào các góc leo ra ngoài. Trong khu nuôi trồng thêm các loại cỏ (Cỏ ruzi, cỏ sả...) vừa giữ ẩm bề mặt đất nhưng lại vừa cung cấp thêm thức ăn cho Nhông hoặc bố trí hệ thống bơm nước để phun giữ ẩm chuồng nuôi trong mùa nắng; còn nếu bóng che khu nuôi không đảm bảo thì trồng một số loài cây gỗ nhở che bóng, đảm bảo tán che chiếm khoảng 1/2 ÷ 1/3 diện tích khu nuôi.
Nhông rất dễ nuôi, không kén ăn, thức ăn chủ yếu tận dụng từ các loại hoa màu, rau quả xung quanh vườn nhà như bí đỏ, rau muống, dưa, cà chua, cà rốt… Mỗi ngày Nhông chỉ ăn 1 lần vào lúc sang sớm, nên vào lúc chiều tối phải quét dọn chuồng và lấy hết những loại thức ăn dư thừa; Nhông chỉ lên mặt đất và tìm thức ăn khi trời nắng, còn khí trời mưa hoặc vào mùa mưa thì hầu như chúng không lên khỏi mặt đất nên rất ít tốn thức ăn. Như vậy Nhông chỉ hoạt động trên mặt đất trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 9, còn thời gian đẻ và nở trứng từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau và trong thời gian này người nuôi không nên đi lại trong khu nuôi nhiều để tránh làm sập hang ảnh hưởng đến trứng và Nhông con; từ lúc thả giống nuôi đến khi động dục khoảng 5,5 ÷ 6 tháng. Mỗi lứa đẻ được từ 4 ÷ 5 trứng, khoảng 40 ÷ 45 ngày thì trứng nở, sau nở khoảng 30 ÷ 45 ngày là có thể bán làm giống. Ông cho rằng, do thời gian đầu chưa có nhiều kinh nghiệm và Nhông còn lạ với môi trường nuôi nên tỷ lệ sống chỉ khoảng 80%, nhưng đến nay Nhông đã thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu, phát triển tốt, khả năng kháng bệnh cao. Qua gần 10 tháng nuôi ông xuất bán khoảng 40 kg Nhông thương phẩm với giá 300.000 đ/kg (Khoảng 4 ÷ 5 con/kg), nêu bán hết lứa Nhông này ông sẽ thu được khoảng 50 ÷ 60 triệu đồng sau khi trừ các khoản chi phí (tiền giống, xây chuồng trại, thức ăn, công lao động), lợi nhuận thu được 35 ÷ 40 triệu đồng. Nhưng hiện nay, ông không xuất bán hết vì dự định của ông là để lại để nhân giống nhằm mở rộng quy mô nuôi và cung cấp giống cho nhu cầu thị trường thì sẽ thu lợi nhuận cao hơn nhiều so với bán thương phẩm.
Việc nuôi Nhông rất dễ so với các loài vật nuôi khác những cho hiệu quả kinh tế cao hơn, ai cũng có thể nuôi được vì “hợp túi tiền” của các hộ gia đình vùng cát, vốn đầu tư ít; thức ăn đơn giản, rẻ, lại dễ kiếm; nếu mở rộng quy mô nuôi thì cũng dễ chủ động được nguồn giống. Vì diện tích đất cát của tỉnh hiện nay còn rất lớn, mong rằng, song song với công tác đầu tư phát triển rừng phòng hộ ven biển thì các ngành, các cấp cần có cơ chế khuyến khích, tăng cường công tác tuyên truyền để tiếp tục nhân rộng mô hình này trong thời gian đến.
Nguyễn Hữu Phước
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.