Nguồn tin: Báo Thanh Hóa, 12/09/2011
Ngày cập nhật:
13/9/2011
Trang trại gia cầm ở xã Quý Lộc (Yên Định - Thanh Hoá).
Phát triển chăn nuôi theo hướng trang trại tập trung là yêu cầu tất yếu đối với ngành chăn nuôi của tỉnh Thanh Hóa. Trong những năm qua, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế trang trại.
Nhờ vậy, đến cuối năm 2010, toàn tỉnh đã phát triển được 1.229 trang trại chăn nuôi (408 trang trại nuôi trâu, bò, 559 trang trại nuôi lợn và 262 trang trại nuôi gia cầm), trong đó, có 46 trang trại chăn nuôi tập trung, nhiều trang trại có quy mô chăn nuôi lợn ngoại từ 200 con nái trở lên, 300 bò thịt, tập trung ở các huyện Yên Định (11 trang trại), Hoằng Hóa (6 trang trại), Thiệu Hóa (5 trang trại)... Đặc biệt, có một số trang trại chăn nuôi có quy mô lớn như: Trang trại lợn nái ở xã Yên Tâm (Yên Định) có quy mô lên tới 1.200 con, trang trại lợn tại xã Đông Hải (TP Thanh Hóa) có quy mô 800 con nái ngoại và 3.000 con lợn thịt, 2 trang trại chăn nuôi của xã Thành Tâm (Thạch Thành) có quy mô 350 lợn nái ngoại và 2.500 lợn thịt/trang trại... Những trang trại này đang góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, với mức thu nhập từ 1,5 đến 2 triệu đồng/người/tháng.
Hiệu quả kinh tế trang trại đã rõ, song thực tế, việc phát triển kinh tế trang trại, đặc biệt là trang trại tập trung đang gặp phải không ít khó khăn, bất cập cần tháo gỡ.
Khó khăn lớn nhất, đó là người chăn nuôi thiếu vốn sản xuất. Do hầu hết đất của các trang trại là đất đấu thầu, hoặc đất chuyển đổi từ ruộng trũng nên không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì thế, các chủ trang trại không thể thế chấp để vay vốn ngân hàng, phục vụ sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Anh Nguyễn Văn Tọa, chủ một trang trại lợn có quy mô 122 con nái ngoại, 1.000 con lợn thịt, ở xã Thiệu Nguyên, huyện Thiệu Hóa, cho biết: “Làm trang trại cần vốn đầu tư lớn, rủi ro trong quá trình sản xuất cao, do đó các ngân hàng có tâm lý “ngại” cho các chủ trang trại như chúng tôi vay vốn. Bởi thiếu vốn nên trang trại khó mở rộng quy mô sản xuất và chuyển dịch cơ cấu vật nuôi”.
Ông Võ Sinh Huy, Trưởng phòng chăn nuôi, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết thêm: Thiếu vốn là một trong những nguyên nhân làm hạn chế việc mở rộng quy mô hoặc đầu tư chiều sâu cho trang trại, từ việc nâng cấp hệ thống chuồng trại chăn nuôi, cải tạo ao nuôi trồng thủy sản, kênh mương dẫn nước, đến việc đưa giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất... Bên cạnh đó, do phần lớn các trang trại của tỉnh được hình thành và phát triển từ kinh tế hộ, nên trình độ quản lý kinh tế, kiến thức sản xuất của chủ trang trại còn hạn chế, chưa chủ động áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Không những thế, phát triển kinh tế trang trại trong tỉnh còn thiếu sự liên kết của “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, Nhà nước), dẫn đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi còn yếu; tư tưởng “mạnh ai nấy làm” khá phổ biến, do vậy chất lượng sản phẩm không cao, chưa có thương hiệu, người chăn nuôi thường xuyên bị ép giá.
Qua tìm hiểu tại các trang trại tập trung, chúng tôi còn nhận thấy đa phần các trang trại đều có quy mô nhỏ, manh mún. Đặc biệt, các trang trại nằm trong vùng, khu chuyển đổi hệ thống đường giao thông còn hạn chế, lưu thông vận chuyển hàng hóa gặp nhiều trở ngại. Công tác hỗ trợ đào tạo, khoa học - công nghệ, xúc tiến đầu tư và thương mại cho trang trại ít được quan tâm, chưa thường xuyên, còn mang tính hình thức. Mặt khác, các cấp chính quyền chưa có quy hoạch tổng thể và giao đất lâu dài cho chủ trang trại, do đó hầu hết các trang trại phát triển theo lối tự phát, thiếu ổn định.
Một trở ngại nữa đối với việc phát triển chăn nuôi theo hướng trang trại tập trung là trình độ quản lý của những chủ trang trại và tay nghề lao động trong trang trại hạn chế. Đa số lao động trong các trang trại đều là nông dân chưa được qua đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản về các kiến thức trong sản xuất nông nghiệp; năng lực quản lý cung cấp, tư vấn thông tin về thị trường hàng hóa, bao tiêu sản phẩm còn thấp. Việc điều hành và tổ chức sản xuất, kinh doanh của người chăn nuôi chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tiễn, nên lựa chọn vật nuôi vẫn còn theo cảm tính, đồng thời, tình trạng ô nhiễm môi trường cũng là vấn đề nan giải. Các giải pháp xử lý môi trường như: Xây các bể lắng thả bèo, xây dựng các hầm biogas... chưa được ứng dụng triệt để. Thậm chí có trang trại còn xả trực tiếp nước, chất thải ra môi trường.
Những nguyên nhân trên lý giải tại sao tỉnh ta vẫn chưa phát triển mạnh được các trang trại tập trung. Thiết nghĩ, để giải quyết những khó khăn trên, đặc biệt là khó khăn về vốn, các ngân hàng thương mại cần điều chỉnh, bổ sung, cải tiến thủ tục cho các chủ trang trại vay vốn trung và dài hạn để phát triển sản xuất, mở rộng quy mô trang trại. Về phía các chủ trang trại, cần liên kết theo hình thức hiệp hội, tổ hợp sản xuất nhằm hỗ trợ nhau về vốn, kỹ thuật nuôi và tiêu thụ sản phẩm. Cùng với đó, chủ động tìm hiểu thông tin thị trường, tích cực áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, từng bước nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm chăn nuôi.
Hương Thơm
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.