Nguồn tin: Khuyến Nông VN, 24/10/2011
Ngày cập nhật:
29/10/2011
Cứ đến tháng 10 hàng năm, thời tiết ở các huyện vùng cao thuộc tỉnh Lào Cai đã bắt đầu chuyển mùa sang lạnh giá hơn, nhiều mây mù, mưa sương bao phủ, nhất là các thôn bản ở vùng núi cao. Đây cũng là thời điểm các địa phương, nhất là người chăn nuôi lo lắng bước vào vụ đông với nhiều công việc chuẩn bị thức ăn, che chắn chuồng trại, bảo vệ cho đàn vật nuôi...
Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng quan cũng như đưa ra những giải pháp hữu hiệu trong phòng chống rét cho đàn đại gia súc, cần đánh giá thực trạng tình hình sản xuất chăn nuôi đại gia súc của nông dân ở các địa phương trong tỉnh để nhà nông thay đổi nếp nghĩ trong phương thức chăn thả cũng như giúp họ “tháo gỡ” khó khăn trong chăm sóc, bảo vệ đàn vật nuôi, ổn định phát triển sản xuất, tránh tình trạng “mất bò mới lo làm chuồng”...
Chưa tương xứng với tiềm năng
Những năm gần đây, sản xuất chăn nuôi đại gia súc của người nông dân ở Lào Cai tiếp tục phát triển. Số lượng, năng suất đàn đại gia súc được tăng lên, chất lượng thịt thương phẩm được cải thiện, thu nhập của người chăn nuôi cũng vì vậy được nâng cao. Tuy nhiên việc khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển sản xuất còn chưa đáp ứng với yêu cầu đặt ra. Tổng đàn đại gia súc đến nay đạt trên 161.000 con, tốc độ tăng đàn bình quân đạt trên 5%. Tốc độ tăng đàn giữa các vùng cũng không đồng đều, một số vùng trọng điểm như Bảo Thắng, Bảo Yên lại giảm hoặc tăng không đáng kể. Đến hết năm 2010 tổng sản lượng thịt gia súc lớn xuất chuồng đạt gần 2.400 tấn. Tỷ trọng trong cơ cấu trong nội ngành chăn nuôi thấp và hầu như không được cải thiện, chỉ chiếm gần 10% tổng sản lượng thịt toàn ngành chăn nuôi. Đây là hạn chế nhưng cũng cho thấy tiềm năng phát triển sản xuất chăn nuôi đại gia súc còn rất lớn.
Toàn tỉnh hiện có 68.286 hộ có chăn nuôi đại gia súc, bình quân mỗi hộ chăn nuôi chỉ có từ 2 - 3 con gia súc. Điều này cho thấy quy mô đàn rất nhỏ, chủ yếu chăn thả tự nhiên, tỷ lệ chăn nuôi tập trung quy mô trang trại theo hướng hàng hóa có năng suất, chất lượng cao rất ít (toàn tỉnh chỉ có 8 trang trại quy mô 45 con trở lên). Nhìn chung chất lượng sản xuất ngành không cao, việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật thâm canh nhằm tăng năng suất, chất lượng thịt còn hạn chế, chủ yếu sử dụng giống địa phương, và chăn nuôi dựa trên kinh nghiệm là chính. Trong khi đó, cơ cấu đàn chưa hợp lý còn bộc lộ nhiều hạn chế rủi ro (đàn trâu chiếm 78 %; đàn bò chiếm gần 14%; đàn ngựa chiếm trên 8%). Trong tình hình hiện nay thời tiết biến động ngày càng khắc nghiệt, nguy cơ dịch bệnh cao với cơ cấu chủ yếu là chăn nuôi trâu thì rủi ro gặp phải trong chăn nuôi rất lớn. Tổng diện tích cỏ trồng 832 ha, sản lượng hàng năm ước đạt khoảng 150 nghìn tấn, đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu thức ăn xanh cho tổng đàn toàn tỉnh, khoảng 90% nhu cầu thức ăn xanh cho chăn nuôi đại gia súc là tận dụng chăn thả tự nhiên. Mặc dù vậy, sản lượng này hầu hết tập trung vào vụ xuân - hè, trong khi đó việc chế biến bảo quản dự trữ cho vụ đông còn hạn chế nên thực chất vụ đông hầu hết gia súc thiếu thức ăn.
Vẫn còn chủ quan, thụ động...
Trong những năm qua, do ảnh hưởng biến đổi khí hậu toàn cầu nên thời tiết ngày càng khắc nghiệt, trái với quy luật thông thường, gây thiệt hại rất lớn đến sản xuất chăn nuôi nói chung nhất là chăn nuôi đại gia súc ở vùng cao. Đặc biệt từ năm 2007 đến nay nhiều đợt giá rét kéo dài đã gây hậu quả rất nghiêm trọng, tổng số gia súc chết rét toàn tỉnh là 32.790 con (chiếm tới 20% tổng đàn hiện tại) Đây là thiệt hại rất lớn đối với ngành chăn nuôi, ngoài thiệt hại về vật chất còn gây ảnh hưởng không nhỏ đến các lĩnh vực khác trong xã hội như: cơ cấu sản xuất, tăng trưởng ngành, giảm sức kéo cho ngành trồng trọt, gia tăng đói nghèo, và những vấn đề an sinh xã hội khác.
Đàn gia súc bị thiệt hại chủ yếu do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, tuy nhiên bên cạnh nguyên nhân khách quan đó còn có nhiều nguyên nhân khác xuất phát từ thực trạng chăn nuôi của nông dân. Theo khảo sát đánh giá mới nhất của Trung tâm Khuyến nông tỉnh cho thấy: trong tổng số 68.286 hộ chăn nuôi đại gia súc toàn tỉnh thì số hộ có chuồng trại đảm bảo yêu cầu kỹ thuật là 29.394 hộ (chiếm 43%) số còn lại (57%) là chuồng tạm sơ sài và thả rông hầu như không có biện pháp bảo vệ gia súc trong những ngày giá rét (có tới 11% số hộ nuôi thả rông) số hộ nuôi thả rông tập trung nhiều ở các huyện Văn Bàn, Bát Xát, Sa Pa (đây cũng là những huyện có số gia súc chết rét nhiều). Như vậy có thể thấy rằng việc chăm sóc quản lý không tốt gia súc trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng thiệt hại. Có tới 90% nhu cầu thức ăn xanh cho đàn gia súc phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, trong khi đó vụ đông thì ngay cả cỏ trồng cũng không cho năng suất, việc chế biến dự trữ thức ăn cho vụ đông còn hạn chế (phần lớn các hộ có dự trữ rơm khô nhưng lượng không đủ) nên nguồn thức ăn trong vụ đông hầu như cạn kiệt. Trong điều kiện như vậy cộng với nhiệt độ thấp làm gia súc phải huy động năng lượng dự trữ của cơ thể chống rét nên dẫn đến suy kiệt sức khỏe chết do đói và rét. Từ những nguyên nhân như biến động thời tiết, phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ phân tán, tăng đàn nhanh... tình hình dịch bệnh ngày càng phức tạp cũng là một trong những yếu tố làm cho đàn gia súc bị suy giảm sức khỏe dễ đổ ngã khi gặp điều kiện giá rét.
Cơ cấu đàn đại gia súc thì đàn trâu chiếm chủ yếu (78%) lại được phân bố chủ yếu ở những xã vùng cao chịu ảnh hưởng nặng nhất của thời tiết giá rét, trong khi đó trâu là động vật có khả năng chịu rét kém (tỷ lệ gia súc chết rét từng loài: trâu chết 9,5% tổng đàn; bò chết 4,64 % tổng đàn; ngựa chết gần 1% tổng đàn). Như vậy có thể thấy rằng nếu cơ cấu đàn hợp lý hơn sẽ hạn chế đáng kể thiệt hại cho đàn gia súc. Trong cả hai đợt rét cho thấy các địa phương còn thụ động, thiếu sâu sát, quyết liệt trong việc kiểm tra đôn đốc nông dân che chắn chuồng trước khi vào vụ rét, dự trữ thức ăn, vệ sinh phòng bệnh… Công tác dự tính dự báo không lường trước nhưng diến biến xấu của thời tiết cũng là nguyên nhân làm cho người chăn nuôi và các cấp các ngành thiếu sự chuẩn bị trù liệu nhằm hạn chế thiệt hại (cả hai đợt rét kéo dài thông tin dự báo đều bộc lộ hạn chế).
Định hướng của tỉnh trong giai đoạn là “Phát triển chăn nuôi hàng hóa tập trung”, tuy nhiên chính sách chưa thật phù hợp với định hướng (chủ yếu hỗ trợ chăn nuôi quy hộ gia đình, chưa có chính sách cụ thể cho các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn). Trong điều kiện nền sản xuất phát triển nhanh như hiện nay, mô hình chăn nuôi quy mô hộ manh mún, tận dụng, thiếu tuân thủ kỹ thuật và vệ sinh phòng bệnh hạn chế. Đây là một trong nguyên nhân gây khó khăn cho công tác kiểm soát dịch bệnh và bảo vệ đàn gia súc trước biến động khắc nghiệt của thời tiết. Nhiều năm liền Nhà nước hỗ trợ cho các hộ nghèo bị thiệt hại ngoài những tác động tích cực cũng tạo ra tâm lý ỉ lại trong nhân dân, nhiều hộ sau khi trâu bò chết được hỗ trợ nhiều lần nhưng vẫn để gia súc chết do không quan tâm chăm sóc bảo vệ.
Cần có giải pháp đồng bộ
Từ thực trạng trên cho thấy để thực hiện tốt công tác phòng chống đói rét cho đàn gia súc, cần tăng cường công tác tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao ý thức tự bảo vệ đàn gian súc, hàng năm có kế hoạch cụ thể, hướng dẫn cho các địa phương phối hợp với các ban ngành đoàn thể tổ chức thực hiện. Đề nghị chọn tháng 10 hàng năm là “Tháng hành động bảo vệ gia súc”. Trong tháng này các huyện, xã thành lập các tổ công tác đến thôn bản vận động nhân dân vệ sinh môi trường chăn nuôi, hướng dẫn che chắn chuồng trại, ủ xanh thức ăn, dự trữ rơm khô...
Tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra, tổ chức thực hiện của các ngành các cấp, trước hết phải phân cấp rõ ràng, giao trách nhiệm cụ thể, trên cơ sở đó từng cấp, ngành căn cứ nhiệm vụ được giao tiến hành kiểm tra việc thực hiện của cấp mình, ngành mình. Công tác quy hoạch phải đảm bảo tính khoa học và thực tiễn sản xuất, tính đến cả yêu tố tự nhiên khí hậu, thực tiễn sản xuất, thị trường tiêu thụ nhằm đảm bảo phát triển bền vững và đầu ra ổn định cho các vùng sản xuất. Trên cơ sở quy hoạch và dự báo thị trường cần xây dựng chiến lược phát triển dài hơi từ đó xây dựng cơ cấu đàn hợp lý hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, cần tiếp tục thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo nhằm đảm bảo đời sống cho nhân dân, giữ ổn định trật, đảm bảo an sinh xã hội. Trước mắt, cần tiếp tuc hỗ trợ các hộ chăn nuôi làm chuông trại, trồng cỏ, vệ sinh phòng bệnh... để hạn chế những thiệt hại. Việc hỗ trợ cần đi liền với công tác tuyên truyền vận động thay đổi nhận thức hành vi, hạn chế sự ỉ lại vào nhà nước. Mặt khác khuyến khích sản xuất quy mô lớn chất lượng cao, đối tượng là các cơ sở sản xuất tập trung, doanh nghiệp, chủ trang trại. Tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp dịch vụ công và nâng cao năng lực sản xuất (ưu đãi về vốn vay, đất đai, thuế, kết cấu hạ tầng...).
Cơ quan khí tượng thủy văn cần tăng cường hơn nữa việc thông tin, dự báo, phối hợp chặt chẽ với các ngành chuyên môn, các cơ quan thông tin tuyên truyền, hệ thống thông tin điạ phương (loa truyền thanh, phương tiện thông tin cấp xã...) để nâng cao năng lực dự báo, hiệu quả cung cấp thông tin dự báo nhằm hỗ trợ các ngành, các địa phương chủ động hơn trong công tác phòng chống, nhằm thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ, phát triển chăn nuôi đại gia súc.
Lê Thị Thanh Cường
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.