Nguồn tin: Báo Bắc Giang, 18/01/2012
Ngày cập nhật:
19/1/2012
Đàn lợn 50 ngày tuổi của gia đình anh Đức.
Hiện nay, ngành chăn nuôi chiếm gần 50% tỷ trọng sản xuất nông nghiệp của tỉnh Bắc Giang. 5 năm trở lại đây, lượng gia súc, gia cầm của Bắc Giang luôn đứng top 10 cả nước (đàn lợn 1,2 triệu con, thứ sáu; gia cầm 15,4 triệu con, thứ ba; trâu, bò 151 nghìn con, thứ 15…). Đặc biệt, "Gà đồi Yên Thế" mới chính thức được trao văn bằng chứng nhận, trở thành một trong những "con" đầu tiên cả nước có thương hiệu đặc sản. Tuy nhiên, thực tế ngành chăn nuôi của Bắc Giang chưa tạo được chỗ đứng vững chắc ngay cả trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh, chứ chưa nói đến cả nước. Vì sao?
Nhiều, nhưng chưa tinh...
Một cách ngắn gọn, ngành chăn nuôi của tỉnh phát triển theo mô hình nhỏ lẻ, tự phát chứ thực sự chưa có sản xuất quy mô lớn. Chuyện "Gà đồi Yên Thế" là một ví dụ. Toàn huyện Yên Thế là một tập hợp hàng nghìn hộ chăn nuôi gà, hộ ít vài trăm con, nhiều vài chục nghìn trong tổng số khoảng bốn triệu con gà. Cho dù vừa nhận thương hiệu nhưng trong số này có bao nhiêu hộ chăn nuôi đủ tiêu chuẩn? Nghĩa là tuân thủ đúng các quy trình sản xuất, bảo đảm chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm? Có lẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay ở các trang trại, gia trại quy mô tương đối lớn. Cách bán của nông dân nuôi gà là trông chờ tư thương cho xe lên gom hàng cũng chưa phải là sản xuất hàng hoá. Hiện nay bà con không phải lo đầu ra do lượng tư thương đến gom hàng tương đối lớn, nhưng có ai biết con gà được chăn nuôi ở Yên Thế một khi đã lên xe và toả đi tiêu thụ khắp nơi qua một tầng lớp trung gian. Sâu xa hơn nữa, ai sẽ kiểm định, chịu trách nhiệm đối với sản phẩm khi nó đến tay người tiêu dùng? Nói như thế để hiểu tầm quan trọng của một cơ sở chế biến đủ lớn để có thể giúp ngành chăn nuôi phát triển với quy mô lớn, bảo đảm sức mạnh của thương hiệu. Đây là chuyện không mới, bởi chúng ta đã có bài học từ quả vải thiều. Rõ ràng, vải thiều Lục Ngạn là một thương hiệu có chất lượng, uy tín không chỉ đối với thị trường trong nước, nhưng hầu như năm nào người trồng vải cũng khổ sở vì điệp khúc "được mùa, mất giá" và ngược lại. Khoan nói đến nguyên nhân khách quan, ngay cả chủ quan địa phương cũng chưa có biện pháp chủ động để bảo đảm thương hiệu và thị trường. Rồi còn đàn lợn, đàn trâu bò, mặc dù đứng trong top 10, hay cao hơn, nhưng vẫn chỉ là sản xuất tự phát, nhỏ lẻ, nguồn thu về cho người nông dân và cho ngân sách thực chưa tương xứng. Nói như vậy để thấy rằng Bắc Giang mới chỉ hình thành và phát triển được một nửa tiềm năng chăn nuôi. Cả tỉnh giống như một nông trường nuôi bò sữa, khi sữa được vắt mang đi chế biến và bán dưới thương hiệu của nhà sản xuất nào đó ngoài địa bàn, người chăn nuôi sẽ còn lại được gì? Điều này cho thấy người nông dân Bắc Giang đang làm thuê trên đất của mình.
Nhìn rộng hơn, ở một số tỉnh, thành lân cận như Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội, Quảng Ninh… không thuận lợi như Bắc Giang về môi trường phát triển ngành chăn nuôi. Thế nhưng họ làm gì? Họ phát triển nhiều cơ sở chế biến thực phẩm quy mô lớn và nhập sản phẩm từ những địa phương khác (trong đó có Bắc Giang). Và họ được gì? Xin thưa họ có thương hiệu, có quyền chủ động về giá, lợi nhuận cao hơn người chăn nuôi nhiều và địa phương cũng thu được những khoản ngân sách đáng kể. Còn nhớ những năm gần đây, một số tỉnh phía bắc lao đao vì nạn gà nhập lậu từ Trung Quốc. Chất lượng gà nhập lậu đương nhiên kém hơn gà nội địa rất nhiều nhưng giá vô cùng rẻ nên mặt hàng này được ưa chuộng ở các quán ăn bình dân, các suất cơm cho công nhân… gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi của ta. Theo khảo sát của một số cán bộ ngành nông nghiệp, không phải họ phá giá mà đó là sản phẩm thải loại từ các trang trại gà siêu trứng. Các trại gà siêu trứng Trung Quốc khống chế vòng đời con gà chỉ 250 - 300 ngày, thu hoạch khoảng 200 - 250 quả trứng. Số gà hết "đát" này họ khuyến cáo dân không ăn mà mang tiêu huỷ. Nhưng vì nhiều lý do mà đa số sản phẩm thải loại này được tuồn qua biên giới sang Việt Nam.
Dẫn chứng như vậy để thấy Bắc Giang có nhiều lợi thế to lớn và rất cần những cơ sở chế biến thực phẩm, ít nhất đủ lớn để mang lại giá trị cao nhất cho người chăn nuôi. Hiện nay, toàn tỉnh chưa có một cơ sở chế biến nào đáp ứng được yêu cầu như vậy.
Tại sao chưa hấp dẫn doanh nghiệp chế biến?
Gần đây, Bắc Giang đã trải thảm đỏ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn bằng nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi. Mỗi năm có hàng trăm doanh nghiệp được cấp phép đầu tư với tổng vốn hàng triệu USD. Theo báo cáo mới nhất, tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2011 ước đạt trên 10 nghìn tỷ đồng, xuất khẩu đạt trên 200 triệu USD. Nhưng trong số đó không có một đồng từ chế biến sản phẩm chăn nuôi. Đơn giản bởi cả tỉnh chưa có một doanh nghiệp nào hoạt động ở lĩnh vực này cho dù đã cấp phép cho vài doanh nghiệp đầu tư. Ngay như ở Yên Thế, cách đây hai năm, tỉnh cấp phép cho một doanh nghiệp xây dựng nhà máy chế biến thực phẩm trên địa bàn huyện. Doanh nghiệp này yếu về tài chính đến mức mới xây được vành lao và một khung nhà xưởng, tiền đền bù giải phóng mặt bằng thì huyện phải ứng trước hơn một trăm triệu đồng chi trả cho người dân. Vậy mà doanh nghiệp này vẫn án binh bất động vì không có vốn để triển khai tiếp. Nguyên nhân do huyện thụ động trong việc tiếp nhận, triển khai, tỉnh chưa tích cực kiểm tra, đôn đốc. Mặt trái của việc ưu đãi, thu hút đầu tư trở thành gánh nặng cho địa phương, cũng như gây khó khăn cho người dân.
Chúng tôi đã đến tìm hiểu ở một số trang trại chăn nuôi lợn, gà tại các huyện Việt Yên, Lạng Giang, Tân Yên, Yên Dũng… Nhiều trang trại bà con nuôi đến 5.000 - 7.000 con lợn, chuồng trại đúng quy cách, hợp vệ sinh, có cả kỹ sư chăn nuôi phụ trách. Thế nhưng, đó hầu hết là trang trại chăn nuôi thuê cho các công ty nước ngoài. Tất cả sản phẩm đến kỳ thu hoạch được đưa đến cơ sở chế biến (cũng của các công ty đó) đóng trên địa bàn… tỉnh khác. Đợt thịt lợn tăng giá vừa qua, họ xuất bán mỗi ngày cả trăm tấn thịt, lợi nhuận thu về không phải nhỏ. Trong khi đó, tiền lương cho người lao động không tăng, địa phương cũng không thu được một đồng tiền thuế nào. Vậy là tỉnh chịu thiệt thòi đến hai lần, chưa kể thương hiệu cho sản phẩm (nếu có) cũng chưa chắc giữ được.
Trở lại câu hỏi, tại sao Bắc Giang chưa hấp dẫn doanh nghiệp chế biến sản phẩm thịt trong khi tỉnh có đủ mọi điều kiện phát triển ngành nghề này như nguồn nguyên liệu, nhân công tại chỗ dồi dào, môi trường đầu tư ưu đãi... Có phải bởi ngành chăn nuôi vẫn theo tập quán cũ: nhỏ lẻ, không tập trung, thiếu quy trình bảo đảm chất lượng sản phẩm, chủng giống không thuần nhất… Bên cạnh đó, trong nước có ít doanh nghiệp chế biến thực phẩm quy mô lớn, thiếu thị trường, trong khi ở các tỉnh lân cận đã và đang hoạt động nhiều cơ sở chế biến. Rõ ràng, Bắc Giang đã đi chậm hơn so với các địa phương khác trong việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Điều cần thiết để bảo đảm cho nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp của địa phương có sự ổn định và mang lại hiệu quả tối ưu nhất cho sản phẩm.
Trần Thường
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.