Nguồn tin: Tiền Phong, 22/03/2012
Ngày cập nhật:
23/3/2012
Theo quyết định của Thủ tướng, việc thí điểm bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) bắt đầu từ 1-7-2011, song đến nay cả nước mới có 3/20 tỉnh ký kết hợp đồng với đơn vị bảo hiểm. Do nông dân chê phí cao, dù đã được Nhà nước hỗ trợ.
Bảo hiểm tối đa cho một con bò sữa là 35 triệu đồng Ảnh: Phạm Anh.
Phí cao, nội dung bảo hiểm chưa phù hợp
Bắc Ninh là một trong 20 tỉnh triển khai BHNN theo quyết định của Thủ tướng, thí điểm trên đàn lợn, gà và vịt ở ba huyện là Yên Phong, Thuận Thành, Quế Võ (mỗi huyện chọn 3 xã). Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa ký kết được hợp đồng bảo hiểm. Ông Vũ Thái Ninh, Trưởng phòng Chăn nuôi (Sở NN&PTNT Bắc Ninh) cho biết, tỉnh đã triển khai tập huấn xuống huyện, xã. “Đầu tháng 4, chúng tôi mới tập huấn, triển khai phổ biến đến các hộ chăn nuôi, từ đó sẽ ký kết hợp đồng, vì đang cấy vụ đông xuân, bà con ra đồng cả rồi, chưa gặp được” - ông Ninh nói.
Theo ông Ninh, khi thông báo biểu phí, dân đều phản ánh là quá cao. Đối với hộ chăn nuôi không thuộc diện nghèo, cận nghèo, dù được hỗ trợ 60% phí bảo hiểm, nhưng một con gà, vịt tham gia bảo hiểm phải nộp thêm 3.600 đồng (chu kỳ nuôi khoảng 2 - 3 tháng). Đàn gia cầm thịt 200 con trở lên, (đàn gia cầm đẻ là 100 con trở lên) khi tham gia bảo hiểm, phải nộp là 720 nghìn đồng. Còn đối với lợn thịt 120 nghìn đồng/con. Đây là mức phí cao với nông dân, nên họ rất cân nhắc. Mặt khác, theo Sở NN&PTNT Bắc Ninh, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện chỉ 4 - 5%. Hiện, ở ba huyện trên tổng số đàn, gia cầm chỉ 40 - 50 nghìn con gia cầm, đàn lợn khoảng 10 nghìn con, nhưng diện trong bảo hiểm, thì chiếm không nhiều.
Tại Thái Bình, một trong hai tỉnh của đồng bằng sông Hồng được chọn thí điểm BHNN ở cây lúa nước cũng đang tắc. Tỉnh này đã chọn triển khai cả 3 huyện (triển khai ở tất cả các xã) Vũ Thư, Thái Thụy và Tiền Hải với tổng diện tích là 65.700 ha. Phí bảo hiểm của Thái Bình là 5,23%. Tại xã Nguyên Xá (huyện Vũ Thư), dù phiếu đăng ký tự nguyện (chủ hộ, diện tích, gieo giống gì…) đã in sẵn, nhưng chưa phát cho dân.
Theo ông Nguyễn Phi Hùng, Chủ nhiệm HTX Nguyên Xá cho rằng, có những rủi ro thực tế đang cần bảo hiểm lại không có trong nội dung bảo hiểm. Chẳng hạn, với cây lúa chỉ có bảo hiểm bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, lùn sọc đen, dịch rầy nâu, nhưng các bệnh này lâu nay ít xuất hiện ở các xã ở Vũ Thư. Còn như chuột gây hại rất lớn trên đồng ruộng lại chưa có bảo hiểm. Mặt khác, phí bảo hiểm còn cao. “Một vụ lúa phải nộp 20 nghìn đồng/sào, cả năm là khoảng 40 nghìn đồng, tương đương 10 cân thóc của xã viên. Hiện dân đang đóng góp nhiều khoản, như làm đường thôn xóm, trường… cách đóng góp đều dựa vào số hộ, đầu sào. Như vậy, nếu tham gia sẽ rất chật vật” - ông Hùng phân tích.
Còn ông Bùi Anh Toán, Giám đốc Bảo Việt Thái Bình, nói hiện đang vận động các hộ tham gia bảo hiểm. Ở Thái Bình, tỷ lệ hộ nghèo chiếm khoảng 10%; may chăng được 70 - 80% số hộ nghèo ở các huyện thí điểm tham gia. “Lẽ ra, thu bảo hiểm từng người thì phải bồi thường cho từng người. Nhưng nông nghiệp ở ta xé lẻ, manh bún, không thể làm với từng hộ. Vì thế, nếu trong xã chỉ có một vài chục hộ sụt giảm năng suất, hoặc mất mùa, nhưng tỷ lệ diện tích chưa đạt mức bồi thường, các hộ đó sẽ tự chịu, không được bảo hiểm” - ông Toán nói.
Có thể giảm phí?
Đến nay, trong số 20 tỉnh thí điểm BHNN, 10 tỉnh giao cho Tổng Cty Bảo hiểm Bảo Việt, 10 tỉnh còn lại do Tổng Cty CP Bảo Minh triển khai. Bảo Việt đã triển khai ký kết được với nông dân ở ba tỉnh là Nghệ An, Phú Thọ, Đồng Tháp, và Sóc Trăng chuẩn bị ký kết. Còn Bảo Minh hiện chưa ký được với đơn vị nào.
Trao đổi với Tiền Phong, ông Nguyễn Quang Phi, Phó Tổng giám đốc Tổng Cty Bảo hiểm Bảo Việt cho biết, mức phí, mô hình bảo hiểm đã được nghiên cứu kỹ trong 2 năm trước khi trình Bộ Tài chính và Chính phủ. Phí bảo hiểm phụ thuộc độ rủi ro, trong khi BHNN rủi ro cao, thì phí cũng cao. “Chúng tôi thống kê số liệu trong 20 năm lại đây, ở từng địa phương, đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, dựa trên mô hình tính phí chuẩn của thế giới. Từ đó, đàm phán, thương lượng với nhà tái bảo hiểm quốc tế về mức phí, chứ các Cty bảo hiểm của Việt Nam không tự đưa ra. Hiện, mức phí BHNN Việt Nam đang xây dựng tốt hơn các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Philippines”.
Theo ông Phi, tham gia chương trình, doanh nghiệp không đặt mục tiêu lợi nhuận, để ủng hộ chính sách tam nông của Chính phủ. Nhưng với bà con nông dân, 10 nghìn, hay 20 nghìn đồng vẫn là đắt, vì do tập quán sản xuất, nên bà con vẫn chưa hiểu hết.
Để giảm mức phí BHNN cho dân, ông Phi nói: “Để hết năm nay, nếu thặng dư từ thu phí BHNN nhiều, có thể đề xuất Bộ Tài chính và Chính phủ chuyển vào quỹ hỗ trợ, giảm phí cho nông dân những năm tiếp theo, được càng nhiều càng tốt; hoặc chuyển vào ngân sách nhà nước, để đầu tư lại cho nông nghiệp”.
Theo quy tắc, biểu phí, và trách nhiệm BHNN, đối với vật nuôi, số tiền bảo hiểm người dân nhận được tối đa với bò sữa 35 triệu đồng/con; trâu, bò là 15 triệu đồng; lợn nái 8 triệu đồng, lợn thịt 6 triệu đồng và gà là 150 nghìn đồng/con. Với lúa nước sẽ bồi thường theo thiệt hại thực tế.
Phạm Anh
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.