Nguồn tin: Báo Thái Nguyên, 26/11/2012
Ngày cập nhật:
28/11/2012
Mạnh dạn chuyển đổi cách làm ăn, cần cù, chịu khó, ham học hỏi và biết cách ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong chăn nuôi. Đó là bí quyết thành công ban đầu của chị Nguyễn Thị Hai và anh Chu Quốc Long, ở làng Ngói, xã Cổ Lũng (Phú Lương - Thái Nguyên) từ mô hình nuôi thỏ và cá giống. Sau 9 tháng (từ tháng 2 đến tháng 10/2012), mô hình này mang lại cho gia đình chị khoảng 80 triệu đồng.
Vợ chông chị Nguyễn Thị Hai kiểm tra số thỏ mẹ đang mang bầu để phân loại cung cấp lượng thức ăn cho phù hợp.
Chị Hai cho biết, năm 2007, chi mua 1 đôi thỏ giống về nuôi. Sau 4 tháng, thỏ mẹ sinh sản được 8 con thỏ con và số lượng thỏ gia đình nuôi chỉ dao động ở mức 10 đến 20 con vì không có vốn. Cuối năm 2011, vợ chồng chị quyết định vay 40 triệu đồng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn để đầu tư mở rộng quy mô chăn nuôi thỏ.
Cùng với 30 triệu đồng tích lũy được, vợ chồng chị xây 170 m2 chuồng trại với 55 ô chuồng lưới mắt cáo, hệ thống rãnh chứa phân… Sau khi hoàn tất chuồng nuôi, đầu năm 2012, chị Hai xuống trang trại thỏ ở xã Đông Cao (Phổ Yên) mua 30 thỏ cái và 5 thỏ đực hết 9 triệu đồng. Tuy nhiên, do chuồng trại không lắp quạt và làm trần chống nóng nên 4 tháng sau đó, 30 thỏ mẹ đang có chửa đã bị chết do không chịu được nóng. Không nản lòng, vợ chồng chị quyết định bán con trâu đang có chửa (tài sản duy nhất có giá trị của gia đình) lấy 17 triệu đồng để mua quạt, làm trần chống nóng cho thỏ. Tháng 6, số thỏ mẹ còn lại sinh sản được 160 thỏ con và cứ sau 1 tháng thỏ mẹ lại tiếp tục sinh sản lứa thứ 2, thứ 3...
Lứa đầu tiên (sau 3 tháng), chị Hai để lại 40 con thỏ cái để nuôi, còn xuất bán 100 con đực, tương đương với 1,6 tạ (trung bình mỗi con từ 2 đến 2,5kg), thu về trên 10 triệu đồng. Nhờ áp dụng đúng kỹ thuật chăm sóc từ kinh nghiệm thực tế đã nuôi thỏ, qua tìm hiểu, nghiên cứu trong sách, báo, tivi nên đàn thỏ của gia đình không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Sau 9 tháng nuôi (từ tháng 2 đến tháng 10), chị Hai đã xuất bán được gần 1 tấn thỏ giống và thỏ thịt. Với giá trung bình là 160.000 đồng/1 đôi giống nhỏ, 120.000 đồng/kg giống to và từ 70.000 đồng đến 72.000 đồng/1kg thỏ thịt, trừ chi phí chị thu về gần 60 triệu đồng. Hiện nay, mô hình thỏ của chị Nguyễn Thị Hai đã tăng lên 150 ô chuồng với 400 con, trong đó có 83 thỏ mẹ, 9 thỏ bố và hơn 300 thỏ con sẽ được xuất bán sau 1 tháng nữa.
Thỏ là loài động vật gặm nhắm dễ nuôi, thức ăn tận dụng được các nguồn sản phẩm phụ nông nghiệp (rau, lá, cỏ tự nhiên), sinh trưởng tốt, chuồng trại đơn giản, thời gian nuôi ngắn, đầu tư con giống thấp nhưng hiệu quả kinh tế lại cao. Ngoài việc đảm bảo chuồng thoáng mát, sạch sẽ, hằng ngày nên cho thỏ ăn 2 bữa rau, 1 bữa cám để tăng lượng tinh bột cho chúng. Tuy nhiên, đối với thỏ sinh sản và thỏ con nên tăng cường nhiều thức ăn xanh để đảm bảo sức khỏe và giúp thỏ mẹ sinh sản được nhiều hơn. Theo kinh nghiệm thực tế chăn nuôi của chi Hai, để thỏ không bị đầy bụng, đi ngoài do ăn phải cỏ, các loại lá bị nhiều nước mưa và sương nên cho thỏ ăn kết hợp 3 loại lá (chè, sung, mít) và mỗi tháng cho thỏ ăn một lần lá xoan để tẩy run, sán.
Nói về việc mở rộng quy mô nuôi, chị Nguyễn Thị Hai cho biết: “Chủ yếu thỏ của gia đình cung cấp cho những nhà nuôi vài đôi để cải thiện bữa ăn, cho bếp ăn của Trại giam Phú Sơn, một vài nhà hàng trên địa bàn huyện và 1 cơ sở thu mua ở Bắc Giang. Hiện nay, nguồn cung cấp thỏ giống, thỏ thịt vẫn rất ít so với nhu cầu của thị trường nên đầu năm 2013, sau khi trả nốt Ngân hàng 20 triệu đồng, vợ chồng mình sẽ đầu tư mở rộng thêm 100 ô chuồng. Vừa qua, mô hình thỏ của gia đình cũng được Ban Quản lý Dự án Trại giống thỏ New Zwa Land Việt – Nhật Ninh Bình lên thăm. Tuy nhiên, do số lượng vẫn còn ít nên họ không trực tiếp ký hợp đồng nhập mà vẫn phải qua một cơ sở thu mua trung gian ở Bắc Giang”.
Ngoài nuôi thỏ, đầu năm 2012, vợ chồng chị đã mạnh dạn chuyển đổi từ 6 sào cấy lúa sang đào ao thả cá, trong đó 3 sào thả cá trắm giống và 3 sào dùng để nuôi bèo tấm chăn cá. Sau 2 tháng, từ tháng 2 đến tháng 6, chị Hai bán được 4 tạ cá giống, trong đó có 2 tạ bán giá 70.000 đồng/1kg và 2 tạ là giá 45.000 đồng/1kg, trừ chi phí cho thu lãi hơn 20 triệu đồng. Anh Chu Quốc Long, chồng chị Hai nhẩm tính: “Trước đây, 6 sào ruộng nếu có chăm bón tốt, mùa màng thuận lợi cũng chỉ được 2,4 tấn thóc/2 vụ, trừ chi phí thu về khoảng 7 triệu đồng. Nhưng, giờ chuyển sang thả cá, chỉ trong vòng 4 tháng đã cho thu lãi trên 20 triệu đồng. Vừa rồi, vợ chồng tôi thuê máy xúc đào tiếp 1 sào đất đồi chuyển thành ao để gột cá hương quay vòng cho 3 sào cá giống”.
Có thể thấy, mô hình nuôi thỏ, làm cá giống của vợ chồng chị Nguyễn Thị Hai và anh Chu Quốc Long là một hướng chuyển đổi cách làm ăn phù hợp với kinh tế nông hộ. Đầu tư con giống thấp, nguồn thức ăn dễ kiếm, dễ tận dụng, không quá vất vả mà hiệu quả kinh tế lại cao.
Trần Nhung
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.