Nguồn tin: Nông Nghiệp VN, 26/11/2012
Ngày cập nhật:
2/12/2012
Các giống gà lông màu hướng thịt TP1, TP2, TP3, TP4… của Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương (Viện Chăn nuôi) được ông Nguyễn Quý Khiêm, GĐTT gọi vui là gà lai “Made in Việt Nam”. Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài “Nghiên cứu chọn tạo và phát triển một số dòng gà lông màu hướng thịt” vừa được trao giải thưởng Bông lúa vàng VN.
Gọi là gà lai “Made in Việt Nam” bởi đây là giống gà được chọn và lai tạo từ chính giống gà thuần chủng có nguồn gốc ngay tại nước ta. Những năm trước đây, chúng ta đã bỏ ra rất nhiều ngoại tệ để nhập giống gà lông màu có nguồn gốc xuất xứ từ nước ngoài.
Giống gà “nước ngoài” này hoàn toàn chinh phục được thị hiếu người tiêu dùng nhờ có chất lượng thịt tốt, hình thức khá bắt mắt. Duy nhất có một điều đó là, nếu giống được nhập khẩu theo đường chính ngạch sẽ có giá rất cao. Do vậy, đa phần người dân đành bỏ tiền "tậu" về những giống gà lông màu trôi nổi, không có nguồn gốc xuất xứ.
Ông Nguyễn Quý Khiêm cho biết, để khắc phục tồn tại trên, một đề tài mang tên “Nghiên cứu chọn tạo và phát triển một số dòng gà lông màu hướng thịt” đã được tiến hành nghiên cứu. Nhóm tác giả gồm Phùng Đức Tiến (nguyên GĐTT làm chủ nhiệm đề tài), Nguyễn Quý Khiêm, Lê Tiến Dũng, Trần Thị Thu Hằng, Lê Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Mười và Đào Thị Bích Loan. Mục tiêu của đề tài là làm sao cho ra được những giống gà lông màu có năng suất, chất lượng ngang ngửa gà “nước ngoài” trong khi giá thành rẻ, mang thương hiệu quốc gia.
Qua 5 năm triển khai nghiên cứu miệt mài, nhóm tác giả của trung tâm đã chọn tạo ra được 4 giống gà lai Thụy Phương, gọi tắt là TP1, TP2, TP3 và TP4. Trong đó 3 giống gà TP1, TP2, TP3 là gà mái, chỉ duy nhất giống TP4 là gà trống. Để tạo ra 4 giống gà nói trên, trung tâm đã sử dụng hai phương pháp đó là “chọn tạo” và “lai”.
Gà lai của Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương đã được chuyển giao rộng rãi trên cả nước
Về phương pháp “chọn tạo”, dòng TP1 được quy ước là những con có lông màu vàng xám tro đốm đen, có cườm cổ, da và chân màu vàng. Năng suất trứng từ 177 - 180 quả/10 tháng, trọng lượng đạt gần 3 kg; TP2 và TP3 có hình thức khá giống nhau, cùng có lông màu vàng nhạt đốm đen xen kẽ, mào cờ đỏ tươi, da và chân màu vàng. Năng suất trứng từ 174 - 177 quả/10 tháng, trọng lượng cơ thể cũng đạt gần 3kg. Riêng dòng gà trống TP4 có hình thức khác hoàn toàn: Lông màu nâu cánh gián, mào to đỏ dựng, chân màu vàng.
Song song với “chọn tạo”, trung tâm cũng đã tiến hành lai ghép giữa các giống gà bố mẹ với nhau để tạo ra giống gà con nuôi thương phẩm. Cụ thể, nhóm tác giả đã cho lai lần lượt các dòng gà bố mẹ theo công thức: TP4 x TP3; TP4 x TP1 và TP4 x TP2. Có nghĩa, cho phối giống giữa dòng gà trống TP4 với các dòng gà mái còn lại. Từ đây, kết quả của hai quá trình đã cho ra đời giống gà thương phẩm có lông màu vàng hoặc nâu vàng sọc đen, chân, mỏ, màu da đều phủ màu vàng rất hợp với thị hiếu cũng như điều kiện chăn thả ở nước ta.
Theo bà Lê Thị Thu Hiền, đồng tác giả của đề tài cho biết, việc nuôi dưỡng và chăm sóc các giống gà này hoàn toàn không có gì khó khăn, điều quan trọng nhất là đảm bảo về “an toàn sinh học” cho vật nuôi.
Đây là những biện pháp tổng hợp nhằm bảo vệ vật nuôi và người chăn nuôi không bị tấn công của dịch bệnh, tạo cho đàn gia súc gia cầm có sức đề kháng tốt nhất. Các biện pháp tổng hợp bao gồm chế độ cách ly, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, quy trình vệ sinh thú y, quy trình thú y phòng trị bệnh, xử lý chất thải trong chăn nuôi, quản lý việc ấp nở gia cầm, vận chuyển và giết mổ gia cầm.
Các biện pháp này phải được thực hiện đồng bộ. Thực hiện tốt các biện pháp an toàn sinh học sẽ mang lại lợi ích cao nhất cho người chăn nuôi, vật nuôi sẽ đạt được năng suất cao, chi phí SX thấp, giảm thiểu những rủi ro do dịch bệnh, hạn chế việc lây lan dịch bệnh từ vùng này sang vùng khác, từ trại này sang trại khác và cuối cùng là tạo ra được những sản phẩm chăn nuôi an toàn cho người sử dụng.
Gia cầm luôn là “miếng mồi ngon” cho các loại bệnh do virus, vi khuẩn, ký sinh trùng, nấm gây ra như cúm gia cầm, Newcasttle, viêm thanh khí quản truyền nhiễm, viêm phế quản truyền nhiễm, Marek, Leuco, Gumboro, viêm khớp truyền nhiễm, đậu gà, viêm não tuỷ truyền nhiễm. Ngoài các nguyên nhân kể trên, khí thải, bụi, nhiệt độ, độ ẩm… không đảm cũng góp phần khiến vật nuôi dễ mắc bệnh. Do đó, khâu chuẩn bị chuồng trại và dụng cụ trước khi chăn nuôi là vô cùng cần thiết.
Trước khi nuôi phải tẩy rửa vệ sinh toàn bộ khu vực chăn nuôi, phun thuốc sát trùng có thể dùng: Biocid 0,3%, Foocmon 2%, Virkon 0,5%, BKA 0,3%, dung dịch hoạt hoá điện hoá Anolit nguyên chất... quét vôi trắng nền chuồng và quét vôi tường và hành lang chuồng nuôi, để khô và phun lại lần cuối trước khi thả gia cầm vào nuôi 1 ngày. Nếu khu đã chăn nuôi thì phải có thời gian để trống chuồng ít nhất là 2 tuần (sau khi đã dọn rửa phun khử trùng và quét vôi) thì mới đưa gia cầm vào nuôi.
Các dụng cụ chăn nuôi như máng ăn, máng uống, cót quây gia cầm…phải được tẩy rửa, phun thuốc sát trùng và phơi nắng cho khô. Phơi khô phun hoặc xông bằng thuốc tím và focmon chất độn chuồng. Độ dày của chất độn chuồng tuỳ thuộc vào loại gia cầm và mùa vụ. Các thiết bị chăn nuôi như chụp sưởi, máng ăn, máng uống phải được sắp đặt sẵn ở trong quây và phải bật chụp sưởi cho ấm trước khi thả gia cầm mới nở vào.
Xung quanh chuồng phải có hệ thống bạt che, các bạt này cũng phải được phun khử trùng hoặc xông foocmon trước khi đưa vào sử dụng. Đồng thời lối ra vào chuồng nuôi phải có hố sát trùng hoặc phải có khay đựng thuốc sát trùng (crezin 3%, foocmon 2% hoặc vôi bột) để sát trùng ủng và xe cải tiến trước khi vào chuồng nuôi. Diệt chuột và các loại côn trùng khu vực xung quanh và chuồng nuôi.
Khi gà lai còn nhỏ, phải tiến hành quây úm, nên dùng các tấm cót quây với chiều cao 50 cm, mỗi quây có đường kính 1,5 - 2 m nuôi úm 120 - 200 con. Mùa nóng có thể bỏ quây từ ngày 14 để gà con tự do chạy khắp chuồng úm, được ăn tự do và sẽ phát triển nhanh. Nếu như gà con được uống nước, ăn thức ăn sạch sớm thì tốc độ sinh trưởng và độ đồng đều cao hơn. Độ ẩm trong chuồng cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự điều chỉnh nhiệt của gà con. Độ ẩm tương đối 60 - 70% là phù hợp với gà, tuy nhiên ở Việt Nam độ ẩm chuồng trại bao giờ cũng cao hơn nhiều.
Nuôi mật độ đầu gà càng thấp sẽ cho khả năng tăng trưởng càng cao và tỷ lệ nhiễm bệnh càng thấp. Trung bình từ 15 - 20 con/m2 là đạt chuẩn. Nước uống cho gà cần có chất lượng tốt và phải được cấp thường xuyên. Bồn chứa và ống dẫn phải vệ sinh hoặc thực hiện rửa sát trùng đúng thời hạn.
Trong 2 ngày đầu, để tăng sức đề kháng, nên pha vào nước 5g đường glucoza + 1g vitamin C/1lít nước cho gà con uống. Đồng thời đảm bảo giá trị dinh dưỡng trong thức ăn phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của từng giống gà.
Từ năm 2008 - 2011, Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương đã chuyển giao vào SX khoảng 600.000 gà bố mẹ hướng thịt để SX gần 70 triệu gà thương phẩm cho hầu hết các tỉnh thành trong cả nước... Đặc biệt, với chất lượng và thương hiệu gà TP1 và TP2, Cty C.P (Thái Lan) và Cty JAPFA (Indonesia) đã ký hợp đồng với trung tâm đặt mua gà bố mẹ hàng năm với số lượng lớn.
Bạn đọc có nhu cầu về giống, chuyển giao kỹ thuật thuật nuôi gà TP1, TP2, TP3, TP4…xin liên hệ Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương. Địa chỉ: xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. ĐT: 04.38385622 – 37570814 – Fax: 04.38385804.
KẾ TOẠI
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.