Nguồn tin: KTNT, 25/08/2008
Ngày cập nhật:
28/8/2008
Một trong những yêu cầu quan trọng để nâng cao tính cạnh tranh của thực phẩm xuất khẩu là phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Chúng ta chỉ thực hiện được yêu cầu này khi có những mô hình chăn nuôi quy mô lớn, tập trung, thân thiện với môi trường; khâu giết mổ, chế biến được quy hoạch hiện đại, khoa học. Vì vậy, chăn nuôi an toàn là hướng đi tất yếu.
Mô hình nuôi gà an toàn của gia đình chị Nguyễn Thị Thanh Công ở xóm Cầu Sắt (Tân Quang-Sông Công-Thái Nguyên).
Mất vệ sinh và ô nhiễm
Thống kê của Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) - Bộ Y tế cho thấy, một trong những nguyên nhân khiến các vụ ngộ độc thực phẩm ngày càng gia tăng là do sản phẩm thịt gia súc, gia cầm không đạt tiêu chuẩn. PGS -TS.Trần Đáng, nguyên Cục trưởng Cục VSATTP nhận định, thực trạng sản xuất, chế biến thực phẩm của ta có quá nhiều vướng mắc, nhất là trong lĩnh vực chăn nuôi và giết mổ gia súc, gia cầm; việc hướng dẫn và quản lý sử dụng thuốc kháng sinh còn lỏng lẻo, tình trạng sử dụng các chất bổ trợ trong thức ăn chăn nuôi khá tuỳ tiện. Về dư lượng kháng sinh trong thức ăn hỗn hợp, tiến hành phân tích 20 mẫu thì có đến 8 mẫu sử dụng kháng sinh. Việc kiểm soát vệ sinh giết mổ còn hạn chế, có quá nhiều cơ sở giết mổ nằm ngoài tầm quản lý của chính quyền địa phương và cơ quan thú y. Điều tra hiện trạng giết mổ 258 trong tổng số 4.703 lò mổ thuộc 43 tỉnh, thành phố, phân tích 630 mẫu thịt cho thấy, 87,5% không đạt tiêu chuẩn.
Song song với vấn đề mất VSATTP là tình trạng ô nhiễm do chăn nuôi gây ra. Chỉ tính riêng năm 2007, lượng chất thải từ chăn nuôi khoảng 61 triệu tấn, nhưng chỉ 40% trong số này được xử lý, còn lại xả trực tiếp ra môi trường.
Theo số liệu của Sở Khoa học và Công nghệ Nam Định và Hà Tây cũ, qua khảo sát tại xã Trực Thái (Trực Ninh - Nam Định) có 91,13% hộ nuôi lợn và xã Trung Châu (Đan Phượng -Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội) với 93,33% số hộ nuôi lợn, quy mô 3-43 con/hộ thấy mức độ ô nhiễm đang ở tình trạng báo động. Khí độc NH3, H2S có trong không khí cao hơn mức cho phép 4,7 lần, nhiễm khuẩn trong chuồng trung bình là 18.675 vi sinh vật (cao hơn tiêu chuẩn của Nga 12 lần), nước thải nhiễm E.Coli và 25% số mẫu nhiễm trứng giun với mật độ 4.025 trứng/500ml nước thải. Hàm lượng COD (nhu cầu ôxy hoá học) là 3.916mg/l, trong khi tiêu chuẩn cho phép chỉ từ 100 đến 400mg/lít. Một ví dụ khác, ở các trại lợn tại xã Đức Sơn (TP. Đồng Hới) của Trung tâm Giống vật nuôi tỉnh Quảng Bình, hàng ngày thải ra lượng chất thải lớn không được xử lý làm 50 hộ dân quanh vùng không thể sử dụng nguồn nước ngầm do có váng vàng, mùi hôi tanh. Tỷ lệ người dân mắc bệnh tiêu chảy, mẩn ngứa, ghẻ lở rất cao. Chăn nuôi lợn ở xã Tô Hiệu (Thường Tín - Hà Nội) với việc xả thẳng phân, nước tiểu lợn ra cống rãnh và hệ thống thoát nước làm môi trường ở đây ô nhiễm nặng nề, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân.
Chất gây ô nhiễm môi trường không chỉ là phân mà còn có lượng lớn chất độn chuồng, thức ăn thừa, xác gia súc, gia cầm chết. Ngoài ra, còn có chất thải rắn trong lò mổ như chất thải trong ống tiêu hóa còn máu, mỡ, phủ tạng hoặc sản phẩm bị loại bỏ trong quá trình kiểm soát giết mổ.
Chỉ tại manh mún, nhỏ lẻ…
Nguyên nhân của thực trạng trên là do sản xuất nông nghiệp nước ta quá nhỏ lẻ, phân tán, chủ yếu ở quy mô hộ gia đình. Cả ba khâu của ngành là chăn nuôi, giết mổ, lưu thông đều chưa kiểm soát được. Mặt khác, chúng ta chưa có đủ bộ máy quản lý chuyên ngành ở tỉnh, huyện. Hiện nay, công tác quản lý VSATTP chủ yếu là kiêm nhiệm nên không đủ khả năng để kiểm soát. Về nhận thức của các đối tượng trong chuỗi cung cấp thực phẩm: người sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và quản lý còn hạn chế.
Theo Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và PTNT) Nguyễn Xuân Dương: “Do không có quy hoạch nên nhiều xí nghiệp chăn nuôi, lò mổ, xí nghiệp chế biến thực phẩm còn nằm trong khu dân cư, kể cả trong các quận nội thành; phân bố rải rác và manh mún, lợi nhuận thấp, giá cả bấp bênh, thị trường ít ổn định. Vì vậy, sức đầu tư vào khâu xử lý môi trường trong chăn nuôi còn thấp. Số lượng các lò mổ đạt yêu cầu vệ sinh mới chiếm khoảng trên 30%. Hiện tượng giết mổ gia súc, gia cầm bị bệnh, không qua kiểm soát cũng là nhân tố làm tăng ô nhiễm môi trường”.
Trong khi đó, chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 đặt mục tiêu là nâng cao tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp: đạt 32% vào năm 2010, 38% năm 2015, 42% năm 2020 và cung cấp những sản phẩm an toàn, chất lượng. Để đạt được mục tiêu này, Cục trưởng Cục Chăn nuôi Hoàng Kim Giao cho biết: “Chăn nuôi an toàn là cần thiết. Ngành đang chú trọng đầu tư chăn nuôi tập trung, công nghiệp, bán công nghiệp, an toàn dịch bệnh, gắn với giết mổ, chế biến tập trung. Xác định các mô hình sản xuất phù hợp như: trang trại chăn nuôi, tổ hợp tác, doanh nghiệp, công ty cổ phần với những tổ chức liên hoàn về chăn nuôi, chế biến, dịch vụ. Các tổ chức chăn nuôi phải được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất và VSATTP. Thực hiện quản lý chặt từ nguồn giống đến chất lượng thức ăn; kiểm soát việc vận chuyển, giết mổ, bảo quản và chế biến; nâng cao kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng, thú y...”.
Hầm biogas, chế phẩm sinh học, bước khởi đầu cho chăn nuôi sạch
Hiện nay, để xử lý ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, có rất nhiều công nghệ hiện đại. Tuỳ theo đặc điểm của từng vùng, từng mô hình mà người chăn nuôi sử dụng các biện pháp khác nhau. Trong đó, hai biện pháp được đánh giá có nhiều ưu điểm là sử dụng công nghệ khí sinh học biogas và chế phẩm sinh học EM. Việc xây dựng hầm biogas để xử lý chất thải từ chăn nuôi là biện pháp mang lại tác dụng lớn. Chất thải sau khi đưa vào bể chứa được phân huỷ hết, giảm mùi hôi, kí sinh trùng hầu như bị tiêu diệt. Bên cạnh đó, sử dụng hầm biogas còn có thể tái tạo được nguồn năng lượng sạch, phục vụ việc đun nấu, thắp sáng.
Theo GS. TS. Nguyễn Quang Thạch, Viện trưởng Viện Sinh học nông nghiệp (Trường ĐH Nông nghiệp I Hà Nội): “Ngoài hầm biogas, sử dụng chế phẩm sinh học EM trong chăn nuôi sẽ làm cho chất thải phân huỷ nhanh, khử mùi tốt và giảm quần thể côn trùng, giảm nguy cơ lây lan dịch bệnh. Cho gia súc, gia cầm uống hoặc ăn thức ăn thô có trộn EM còn giảm được nguy cơ mắc bệnh đường ruột”.
Ở Vương quốc Anh, chuỗi siêu thị Wal -Mart đã giới thiệu những quả trứng “xanh” với tên thương phẩm là Respecful vào tháng 6/2007. Đây là sản phẩm của đàn gà được nuôi chăn thả tự do trên đồng cỏ, ăn thức ăn hạt sản xuất tại địa phương, sử dụng năng lượng mặt trời, gió thay cho năng lượng hoá thạch trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của trại nuôi gà. Tại đây, đàn bọ sữa cũng được nuôi theo chế độ giảm sản sinh khí mêtan (CH4), hạn chế tác động đến hiệu ứng nhà kính. Hình thức này được gọi là “chăn nuôi xanh” hay chăn nuôi thân thiện với môi trường. “Chăn nuôi xanh” nhắm vào 3 yêu cầu, một là giảm thiểu ô nhiễm đất và nước, hai là giảm thiểu tác động đến hiệu ứng nhà kính và ba là giảm thiểu việc sử dụng nhiên liệu hoá thạch.
Ngoài ra, có biện pháp rất hữu hiệu và bền vững để xử lý chất thải chăn nuôi tiến tới nền nông nghiệp sạch là phát triển mô hình VAC. Gắn kết chặt chẽ trồng trọt với chăn nuôi, vừa hạn chế ô nhiễm môi trường, vừa sử dụng ít phân bón hoá học, tiết kiệm năng lượng. Và đây cũng là mô hình dễ làm, ở đâu cũng có thể xây dựng được, hiệu quả kinh tế lại cao.
Dương Thanh
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.