Nguồn tin: Nhân Dân, 02/06/2013
Ngày cập nhật:
4/6/2013
Mặc dù thuộc tốp đứng đầu châu Á về sản lượng thịt lợn, mật ong và đóng góp khoảng 28% trong cơ cấu GDP toàn ngành nông nghiệp, song ngành chăn nuôi nước ta vẫn luôn phải đối mặt với nhiều thách thức, tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát triển không bền vững. Tái cơ cấu sản xuất, cùng những giải pháp quyết liệt trợ giúp người chăn nuôi, là những việc cần làm ngay để nâng cao sức cạnh tranh của ngành trong xu thế hội nhập quốc tế.
Ðuối sức trên "sân nhà"
Trao đổi ý kiến với chúng tôi, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam Nguyễn Ðức Rỵ cho biết: "Thị trường suy giảm do dịch bệnh liên miên, cộng với nguồn lực tài chính kém, khiến các doanh nghiệp trong nước, trang trại chăn nuôi khó "vượt" qua khó khăn. Có thể nói chưa bao giờ ngành chăn nuôi nước ta gặp nhiều khó khăn như hiện nay, nhất là đối với ngành chăn nuôi lợn và gia cầm. Nhiều hộ chăn nuôi đã phải bỏ nghề, các doanh nghiệp sản xuất trong nước điêu đứng. Ðiều dễ thấy là giá cả bấp bênh, cùng với sức tiêu thụ thực phẩm giảm sút đã tác động rất mạnh đến ngành chăn nuôi. Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn là giá thành sản xuất luôn bị đẩy cao, cùng với đó là tình trạng thiếu vốn, lãi suất tín dụng... càng làm các doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi đuối sức trong cuộc cạnh tranh ngay trên "sân nhà".
Trong lúc chăn nuôi trong nước đang gặp khó thì nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn tiếp tục xây dựng nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi và phát triển hệ thống chăn nuôi gia công. Ðiều này đã được chúng tôi kiểm chứng ngay tại HTX chăn nuôi lớn nhất nhì TP Hà Nội, khi trao đổi với Chủ nhiệm HTX Cổ Ðông (TX Sơn Tây) Trần Văn Chiến cũng thừa nhận, trong tổng số 260 hộ xã viên của HTX, có tới 70% là nuôi gia công cho Công ty CP (Thái-lan) và Japfa (In-đô-nê-xi-a), số hộ còn lại tự tổ chức chăn nuôi theo thị trường. Ông Chiến trăn trở, với tình hình chăn nuôi bấp bênh như hiện nay, khả năng đến cuối năm 2013, số trại nuôi gia công cho nước ngoài sẽ tăng hơn nữa, và lúc đó HTX chỉ còn lại một ít trang trại do các hộ tự quản, nắm giữ; trong đó chủ yếu chỉ là mô hình nuôi các con đặc sản: gà thả vườn, lợn mán, lợn rừng và cá sấu...
Chồng chất khó khăn
Hiện nay chăn nuôi nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ lệ cao (khoảng 65% đến 70% về đầu con và 55% đến 60% về sản phẩm). Hơn thế, vốn đầu tư cho chăn nuôi tập trung vẫn còn hết sức hạn hẹp, chưa được quan tâm một cách đúng mức, lãi suất vừa cao, lại vừa khó tiếp cận. Trong những năm qua, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển, đầu tư chăn nuôi, song chưa đủ mạnh, chưa có tính kết nối, huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển chăn nuôi cho nên vẫn chưa tạo được môi trường thuận lợi, cũng như những ưu đãi cần thiết cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực đầy rủi ro này. Bên cạnh đó, tổ chức hệ thống của ngành chăn nuôi chưa được hoàn thiện, nhất là ở các địa phương làm ảnh hưởng chung đến hiệu quả công tác quản lý, điều hành trong phạm vi toàn ngành. Ðây cũng chính là yếu thế của ngành trong cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, và cũng tạo điều kiện cho các loại dịch bệnh nguy hiểm như dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng, dịch tai xanh xuất hiện với tần suất gia tăng và ngày một ngắn lại. Cộng với đó là công tác kiểm soát, xử lý môi trường chưa thường xuyên cho nên nạn ô nhiễm do chăn nuôi gây ra ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm. Ðể ngăn chặn dịch bệnh, chúng ta chủ yếu vẫn "chạy" theo dịch để chống chứ chưa chủ động trong phòng dịch, gây tốn kém cho ngân sách cũng như hộ chăn nuôi. Rồi công tác kiểm soát, ngăn chặn gia súc, gia cầm nhập lậu thực hiện vẫn chưa nghiêm, tạo kẽ hở cho nhập lậu con giống, sản phẩm gia súc, gia cầm, dẫn đến giảm sức cạnh tranh sản phẩm của ngành. Thêm vào đó, tốc độ tăng trên đầu gia súc, gia cầm nhanh không cân xứng với việc chủ động nguồn thức ăn chăn nuôi (TACN) kéo theo sự nhập khẩu nguyên liệu thức ăn, con giống, thuốc thú y làm cho giá thành sản phẩm tăng cao hơn các nước trong khu vực, từ đó làm mất sức cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước. Hiện tại, có tổng số 38 nhà máy TACN tại Việt Nam có sản lượng hơn 100 nghìn tấn/năm (trong đó, 21 nhà máy 100% vốn nước ngoài, 14 nhà máy 100% vốn Việt Nam và ba nhà máy liên doanh). Ðể sản xuất được khoảng 12,7 triệu tấn thức ăn cho gia súc, gia cầm và 2,8 triệu tấn thức ăn nuôi trồng thủy sản, các doanh nghiệp phải nhập khẩu khoảng tám triệu tấn nguyên liệu, trị giá hơn ba tỷ USD. Vì vậy, khi thị trường TACN thế giới biến động, ngay lập tức ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Mặt khác, so với các nước trong khu vực, giá bán các loại TACN trong nước luôn cao hơn khoảng 20%, là một trong những nguyên nhân khiến người chăn nuôi thua lỗ vì thức ăn hiện chiếm 65 đến 70% giá thành chăn nuôi. Hệ thống giết mổ, chế biến sản phẩm chăn nuôi đã yếu lại còn thiếu, cũng là nguyên nhân gián tiếp làm tăng chi phí trung gian trong phân phối sản phẩm, dẫn đến thực trạng "nông dân bán giá dưới đất, tiểu thương bán giá trên trời", khiến người chăn nuôi bị thua thiệt và người tiêu dùng cũng bị thiệt theo.
Tạo "cú huých" cho chăn nuôi
Trại chăn nuôi lợn của anh Bùi Văn Thắng, thị trấn Hoa Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Ảnh: MAI LIÊN
Ðể vực dậy ngành chăn nuôi, biến những bất lợi thành có lợi, các nông hộ phải liên kết chặt chẽ, tạo ra sức mạnh; các doanh nghiệp cũng phải thay đổi phương thức tổ sản xuất theo kiểu riêng rẽ "từng khúc, từng đoạn" như hiện nay thành sản xuất theo chuỗi sản phẩm của ngành hàng. Ðược biết, để thực hiện Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020, đến nay, cả nước đã có gần 50 tỉnh, thành phố hoàn thành quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp nói chung, cũng như ngành chăn nuôi nói riêng. Tuy nhiên để tạo "cú huých" cho ngành, trước mắt "nội bộ" ngành phải thực hiện đồng bộ, quyết liệt một cuộc cải tổ, nhằm tái cơ cấu, tổ chức sản xuất chăn nuôi phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Theo Phó Cục trưởng phụ trách Cục Chăn nuôi Trần Xuân Dương, thời gian tới sẽ tập trung tái cơ cấu phương thức sản xuất, theo hướng khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại quy mô vừa và lớn. Chăn nuôi nhỏ lẻ từng bước tổ chức lại theo hướng chuyên nghiệp có kiểm soát, bảo đảm an toàn sinh học; phát triển loại vật nuôi có thế mạnh, có thị trường như lợn, gà thả vườn, bò sữa. Về địa bàn, chuyển dịch dần chăn nuôi từ vùng mật độ dân cư cao (đồng bằng) chuyển lên vùng có điều kiện về không gian, sinh thái rộng như vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, vùng trung du miền núi phía bắc. Bên cạnh đó, các địa phương cần đẩy nhanh việc hoàn thiện quy hoạch phát triển chăn nuôi gắn với hệ thống giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm và gắn với xây dựng nông thôn mới. Ðồng thời, xây dựng và nhất thể hóa hệ thống tổ chức ngành chăn nuôi trong phạm vi toàn ngành.
Giám đốc Trung tâm phát triển chăn nuôi Hà Nội Tạ Văn Tường cho rằng: "Cần có sự can thiệp của Nhà nước nhằm hỗ trợ khâu liên kết và đầu ra cho sản phẩm chăn nuôi. Vì thực tế cho thấy, các trang trại tự lo được con giống, một phần thức ăn, chăn nuôi khép kín với quy mô lớn từ 100 con lợn nái trở lên, xét tổng thể cả một quá trình thì vẫn có lợi nhuận và đủ sức duy trì sản xuất. Chăn nuôi là ngành hàng đặc thù, vì vậy cần được ưu tiên gói tín dụng hỗ trợ lãi suất và nên bỏ thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với mặt hàng TACN để giảm giá thành đầu vào".
HẢI PHƯƠNG
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.