Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế, 21/11/2013
Ngày cập nhật:
22/11/2013
Phong trào nuôi động vật rừng được nhiều nông dân quan tâm. Nó không chỉ tạo ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế mà còn là giải pháp bảo tồn các loài động vật quý hiếm.
Hiệu quả nhưng mạo hiểm
Trong chuyến đi các xã vùng đồi của Thị xã Hương Trà (Thừa Thiên Huế), chúng tôi có dịp thăm trang trại của chị Tôn Nữ Thị Hường. Trang trại hiện có trên 100 con lợn rừng, trong đó có 50 lợn nái, và 5 lợn đực giống. Mỗi năm lợn rừng sinh hai lứa, mỗi lứa sinh khoảng 6 đến 9 con, trừ hao hụt chị có thêm trên 600 lợn con. Sau gần 1 năm chăm sóc, lợn rừng đạt trọng lượng khoảng 25kg bán với giá 190 ngàn đồng đến 200 ngàn đồng/kg. Mỗi năm, gia đình chị thu nhập trên 500 triệu đồng từ nuôi lợn rừng.
Lợn rừng, đối tượng nuôi cho hiệu quả kinh tế cao
Chị Hường, cho biết: “Ban đầu, mình đầu tư 740 triệu đồng mua lợn giống nhưng do chưa có kinh nghiệm nuôi nên sau một thời gian lợn rừng chết hết. Sau này, nhờ nắm vững kỹ thuật nuôi nên số lượng đàn ngày một tăng lên.
Cộng với mối quan hệ rộng với các chủ nhà hàng và các trang trại lớn từ nam chí bắc nên đầu ra của lợn rừng khá thuận lợi”
Về kỹ thuật nuôi lợn rừng sinh sản, lợn đực cần nuôi riêng và tỷ lệ phối giống là 1 lợn đực cho 5-10 lợn nái. Lợn nái trong thời gian mang thai ngoài các thức ăn thường phải bổ sung thêm thức ăn giàu dinh dưỡng, nhất là đạm, khoáng và sinh tố. Đối với lợn con mới đẻ, nên cho bú sữa mẹ càng sớm càng tốt. Lợn rừng cũng mắc các bệnh như lợn nhà, cần tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin, vệ sinh chuồng trại sạch sẽ và thường xuyên theo dõi những biểu hiện khác thường của lợn nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời.
Lợn ở trang trại của chị Hường đều là lợn rừng đặc chủng, bởi bố mẹ chúng đều đưa từ rừng về thuần dưỡng. Một con lợn rừng đặc chủng phải đạt các tiêu chí thịt ngon, không có mỡ, da và lông dày, dưới cằm và dưới bụng có vệt trắng. Không chỉ cung cấp lợn giống, lợn thịt cho các nhà hàng, trang trại ở thành phố Huế, trang trại chị còn là đầu mối cung cấp lợn thịt và lợn giống cho các tỉnh thành trong cả nước.
Nuôi động vật rừng đang khẳng định được hiệu quả của mình trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thực tế nhiều trang trại nuôi động vật rừng đang gặp khó khăn bởi chưa chọn được đối tượng nuôi phù hợp và đầu ra hạn chế.
Cần chọn lọc đối tượng nuôi
Cách đây chừng 5 năm, đi đâu cũng nghe kháo nhau về hiệu quả kinh tế từ việc nuôi nhím, nhà nhà nuôi nhím, người người nuôi nhím tạo nên một phong trào phát triển đàn nhím khá rầm rộ. Nhiều gia đình dốc hết gia sản mua nhím giống về nuôi, lời thu lại chưa được bao nhiêu nhưng giờ đã rơi vào cảnh lao đao. Tham quan mô hình nuôi nhím của ông Lê Đăng, xã Điền Hương, huyện Phong Điền khi phong trào phát triển khá rầm rộ trên địa bàn tỉnh. Nhờ việc nuôi nhím, gia đình ông đã tạo dựng được một cơ ngơi khá khang trang, thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Năm 2007-2009 được xem là thời đại hoàng kim của nhím bởi giá nhím giống có lúc được đẩy lên 30 triệu đồng/cặp, nhím thịt từ 600-700 nghìn đồng/kg, nhiều nông dân đổ xô đi nuôi nhím. Đến năm 2010, giá nhím đột ngột rớt thê thảm, từ 30 triệu đồng xuống còn dưới 3 triệu đồng/cặp nhím giống, nhím thịt còn dưới 150 nghìn đồng/kg nhưng cũng không có đầu ra, rất nhiều nông dân đổ nợ vì con nhím.
Ông Trần Gia Duy, Phó Chủ tịch UBND xã Điền Hương, cho biết: “Hơn 5 năm trước, phong trào nuôi nhím tại địa phương phát triển rất mạnh, cao điểm có gần 15 hộ nuôi với trên 100 con. Nhưng nay chỉ còn 4 hộ nuôi nhím, với số lượng nuôi khoảng 32 con. Trước đó, người ta nuôi chủ yếu bán nhím giống, nhưng nay do giá nhím giống giảm mạnh, người dân không biết bán cho ai. Trong khi đó, thị trường xem thịt nhím là món ăn quá xa xỉ nên nhiều nhà hàng không đưa vào thực đơn. Nhiều hộ chấp nhận bán với giá 1 triệu đồng/con, nhưng cũng chẳng có người mua”.
Ông Nguyễn Ánh, khu vực 3, thị trấn Phú Lộc, là một trong những người đầu tiên trong tỉnh nuôi thành công kỳ đà vân và một số loài động vật rừng khác. Ông Ánh cho biết: “Từ năm 2010, tôi đầu tư hơn 100 triệu đồng làm gia trại, thả nuôi 20 con kỳ đà và một số loài như nhím, cầy hương, chồn... Sau hơn 2 năm, trang trại xuất bán được kỳ đà thịt với giá 700 nghìn đồng/kg; kỳ đà giống bán với giá trên 3 triệu đồng/con”. Là người tiên phong nuôi kỳ đà vân, loài thú quý hiếm thuộc nhóm IIB và cầy vòi hương, ông Ánh gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, bằng sự cần cù và nhiệt tâm, ông chinh phục thành công những loại động vật nuôi khó tính này. Ông lặn lội vào tận Đồng Nai mua giống, rồi tự mày mò tìm hiểu về các kỹ thuật nuôi cũng như chăm sóc loài động vật này. Sau một thời gian, biết được lợi thế của từng vật nuôi, ông bắt đầu tập trung tăng đàn đối với cầy vòi hương và tập trung nuôi kỳ đà vân sinh sản để cung ứng cho thị trường.
Không chỉ có lợn rừng, kỳ đà vân, cầy vòi hương mà nhiều loài động vật rừng, động vật quý hiếm khác sau khi được đưa vào nuôi đã khẳng định được hiệu quả như, cá sấu, rắn… Yếu tố quan trọng tạo nên thành công của những mô hình này, ngoài việc vận dụng tốt kỹ thuật nuôi, khả năng lựa chọn hợp lý đối tượng nuôi và đầu ra của sản phẩm là điều rất quan trọng.
Hiện, toàn tỉnh có 122 cơ sở nuôi động vật hoang dã và động vật hiếm, trong đó có 120 cơ sở chăn nuôi động vật rừng thông thường với trên 1.804 cá thể, 2 cơ sở nuôi động vật hiếm (kỳ đà vân, cá sấu).
Hoàng Thảo Nguyên
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.