Nguồn tin: Vasep, 16/3/2009
Ngày cập nhật:
19/3/2009
Tại Hội nghị: "Xuất khẩu Thuỷ sản 2009-Thách thức và giải pháp" của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) ngày 16/1/2009, ông Lê Văn Quang, Phó Chủ tịch VASEP, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thuỷ Hải sản Minh Phú - nhà xuất khẩu tôm lớn nhất Việt Nam, đã đưa ra dự báo kim ngạch xuất khẩu tôm năm nay có thể suy giảm ít nhất 30% so với năm 2008. Số liệu xuất khẩu tôm của Việt Nam trong tháng 1/2009 vừa qua đã phản ánh một phần của dự báo. Theo thống kê của Hải quan, trong tháng 1/2009, xuất khẩu tôm của cả nước giảm 25% về lượng và 28% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Với 8.454 tấn thu về hơn 69 triệu USD, tôm đông lạnh đã đánh mất vị trí dẫn đầu trong cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam. Hiện tôm đông lạnh chỉ chiếm 32,5% trong tổng xuất khẩu thuỷ sản của cả nước, đứng sau cá tra, basa với 35,3%, kim ngạch 74,8 triệu USD trong tháng 1. Trong khi xuất khẩu tôm sang các thị trường chính và truyền thống tiếp tục giảm mạnh, thì Trung Quốc lại vượt trội từ vị trí thứ 8 trong cơ cấu thị trường nhập khẩu tôm Việt Nam lên vị trí thứ 4 với mức tăng trưởng đáng kinh ngạc. Xuất khẩu tôm sang thị trường này tăng 116% về lượng và 91% về giá trị, đạt 733 tấn, trị giá 5,657 triệu USD, chiếm 8,2% thị phần. Mặc dù tổng nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Trung Quốc giảm, nhưng mặt hàng tôm vẫn được ưa chuộng tại thị trường này.
Hàn Quốc đã tụt từ vị trí thứ 4 xuống thứ 5 nhưng xuất khẩu tôm sang thị trường này vẫn khả quan với mức tăng 32,7% về lượng và 25,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2008. Với kim ngạch 4,93 triệu USD, Hàn Quốc chiếm 7,1% thị phần xuất khẩu tôm Việt Nam, tăng so với tỉ trọng 5,2% của năm 2008.
Nhật, Mỹ, EU - 3 thị trường lớn tiếp tục giảm mạnh lượng nhập khẩu tôm Việt Nam, với các mức giảm lần lượt là 16%, 48% và 35% về giá trị so với cùng kỳ. Giảm mạnh nhất là thị trường Đài Loan với 80%, các thị trường chính khác như Canađa, Ôxtrâylia cũng giảm tương đối. Nhật Bản: Thiếu nguồn cung tôm cỡ nhỏ
Mặc dù các nhà nhập khẩu Nhật Bản có thể tăng cường mua tôm để dự trữ phục vụ cho nhu cầu trong mùa xuân, nhưng hoạt động giao dịch tôm trong tuần 6 (2-8/2/2009) vẫn diễn ra trầm lắng. Do cuộc khủng hoảng toàn cầu, người tiêu dùng chi tiêu ít hơn và chuyển sang mua tôm cỡ nhỏ hơn. Nhưng hầu hết tôm thu hoạch vụ mới hiện nay đều là tôm cỡ trung, do vậy giá tôm cỡ nhỏ hầu như tăng.
Lượng tiêu thụ tôm bình quân của các hộ gia đình Nhật Bản trong tháng 12/2008 đạt 300 g/hộ, tương đương 650 yên, tăng gấp đôi so với tháng 11/2008 (145g và 370 yên) và tăng 23,5% về lượng và 8,3% về giá trị so với tháng 12/2007. Theo các nhà quan sát, nguyên nhân của sự đột phá này là nhờ chiến dịch quảng cáo và hạ giá sản phẩm của các điểm bán lẻ và các siêu thị để giải quyết lượng tồn kho.
Mặt khác, các nhà sản xuất tôm nước ngoài kiên quyết tăng giá sản phẩm vì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu, tiền tệ bất ổn định và chi phí nguyên liệu tăng (thực phẩm, đóng gói, vận tải...). Có thể do giá tăng, dẫn đến tập trung thu hoạch nhiều, do vậy tôm giống để đầu tư nuôi lại ít đi. Đây có thể là nguyên nhân làm thiếu tôm cỡ nhỏ.
Nhiều nhà quan sát cho rằng nguồn cung tôm nuôi giảm không thể giải quyết bằng tôm biển do trọng lượng khác nhau, trong khi đang có xu hướng giảm sản lượng khai thác tự nhiên.
Trong tuần 6, sau khi chọn ra các nhà sản xuất tôm sú cỡ nhỏ HLSO, các công ty nhập khẩu Nhật Bản đã buộc người nuôi tôm vùng Calcuta (Ấn Độ) phải giữ giá bằng giá tuần trước. Có một vài giao dịch đối với tôm cỡ 8/12 - 51/60 với giá 14,30 - 4,00 USD/kg, mặc dù một số hợp đồng chỉ tập trung vào tôm cỡ nhỏ.
Một số nguồn cung cấp tôm sú HLSO từ Samarinda, Inđônêxia bán tôm cỡ 8/12 - 41/50 với giá 13,50 - 6,00 USD/kg; các công ty sản xuất vùng Yakarta chào bán tôm HLSO cỡ 6/8 - 26/30 với giá 22,00 - 7,70 USD, nhưng không thành công do tôm cỡ quá to và giá cao hơn 0,5 USD/kg so với trước. Các công ty Việt Nam cũng không bán được tôm cỡ lớn với giá cao, họ chào bán tôm cỡ 8/12 - 16/20 với giá 14,80; 11,80 và 9,6 USD/kg.
Chi phí nhiên liệu và đóng gói tăng ảnh hưởng đến nguồn cung cấp tôm biển. Giao dịch tôm thẻ biển và tôm sú rằn không thực hiện được do nguồn cung thấp, giá cao. Tôm thẻ biển HLSO cỡ 8/12 - 31/40 của vùng Tuticorin (Ấn Độ) được chào bán ở mức 15,80-6,80 USD/kg và tôm cỡ 6/8 - 31/40 của Inđônêxia được chào bán ở mức 24,5 -7,70 USD/kg, tăng khoảng 0,5 USD/kg so với giá trước đó. Tôm sú rằn HLSO cỡ 16/20-31/40 của Ấn Độ được chào bán ở mức 11,00 - 6,70 USD/kg và tôm cỡ 6/8 - 26/30 của Inđônêxia chào bán với giá 22,00 - 7,70 USD/kg.
Tôm chân trắng cỡ 31/40 - 41/50 của Malaixia được chào bán ở mức 6,00 - 5,60 USD/kg. Tôm chân trắng PUD cỡ 26/30 - 61/70 của Inđônêxia chào bán ở mức 8,30 - 6,60 USD/kg. (Fis)
Mỹ: Thái Lan dẫn đầu về xuất khẩu tôm cỡ trung 31/40 và 51/60, Việt Nam tăng xuất khẩu tôm thịt đông lạnh
Năm 2008, nhập khẩu tôm vào Mỹ đạt 564.200 tấn, trị giá 4,1 tỉ USD, tăng 1,3% về khối lượng và 4,9% về giá trị so với 556.900 tấn và 3,9 tỉ USD của năm 2007.
Tôm bao bột: Trung Quốc vẫn đang dẫn đầu về cung cấp tôm bao bột đông lạnh cho thị trường Mỹ, nhưng xuất khẩu sản phẩm này sang Mỹ giảm từ 25.900 tấn năm 2007 xuống 21.300 tấn trong năm 2008, giá trị giảm từ 113,2 triệu USD xuống 92,9 triệu USD, trong khi xuất khẩu của Thái Lan tăng từ 7.200 tấn lên 11.100 tấn.
Tôm đông lạnh khác: Thái Lan đứng đầu về xuất khẩu tôm đông lạnh loại khác sang thị trường Mỹ với 58.900 tấn, trị giá 444,9 triệu USD, giảm so với 64.100 tấn năm 2007. Xuất khẩu sản phẩm này của Trung Quốc giảm từ 11.800 tấn xuống 8.800 tấn.
Tôm thịt đông lạnh: Thái Lan cũng đứng đầu về xuất khẩu tôm thịt đông lạnh sang Mỹ với 52.000 tấn, trị giá 283,2 triệu USD. Inđônêxia tăng xuất khẩu tôm thịt từ 29.900 tấn trị giá 225,2 triệu USD năm 2007 lên 36.300 tấn trị giá 283,2 triệu USD, trong khi Việt Nam tăng xuất khẩu sản phẩm này từ 20.300 tấn trị giá 236,7 triệu USD lên 24.900 tấn trị giá 247,4 triệu USD.
Tôm vỏ đông lạnh cỡ 15/20 và 21/25: Với cỡ tôm 15/20, Mêhicô dẫn đầu với 6.700 tấn trị giá 76,4 triệu USD, tăng so với 5.900 tấn và 58,6 triệu USD năm 2007. Ấn Độ xuất 3.100 tấn, trị giá 29,7 triệu USD năm 2008, giảm so với 3.300 tấn trị giá 31,2 triệu USD. Mêhicô cũng dẫn đầu về xuất tôm cỡ 21/25 với 12.600 tấn, trị giá 118,1 triệu USD, giảm so với 13.700 tấn, trị giá 113,6 triệu USD. Thái Lan xuất khẩu 5.400 tấn, giảm so với 5.700 tấn.
Tôm vỏ đông lạnh cỡ 26/30, 31/40 & 41/50: Inđônêxia vượt Thái Lan giữ vị trí thứ nhất trong xuất tôm cỡ 26/30 với 12.700 tấn, trị giá 89 triệu USD, tăng so với 5.000 tấn, trị giá 34,7 triệu USD. Xuất khẩu của Thái Lan giảm từ 12.000 tấn trị giá 74,2 triệu USD xuống 10.200 tấn, trị giá 69,2 triệu USD. Đối với tôm cỡ 31/40, Thái Lan đứng vị trí số 1 với 12.800 tấn, trị giá 77 triệu USD, tăng so với 11.100 tấn, trị giá 59,5 triệu USD năm 2007. Inđônêxia xuất khẩu 10.700 tấn trị giá 67,5 triệu USD, tăng so với 7.600 tấn và 47 triệu USD năm 2007. Đối với cỡ tôm 41/50, Êcuađo xuất khẩu 10.300 tấn trị giá 58,3 triệu USD, tăng so với 10.000 tấn trị giá 49,3 triệu USD năm 2007. Thái Lan xuất khẩu 8.500 tấn, tăng so với 6.900 tấn.
Tôm vỏ đông lạnh cỡ 51/60: Thái Lan cũng đứng đầu về xuất tôm cỡ 51/60 sang Mỹ với 11.000 tấn, trị giá 59,9 triệu USD, giảm so với 11.900 tấn trị giá 63,5 triệu USD năm 2007. Êcuađo xuất 9.900 tấn trị giá 53,3 triệu USD, giảm so với 11.600 tấn trị giá 53,7 triệu USD của năm 2007. Tôm vỏ đông lạnh cỡ 61/70 & trên 70: Êcuađo đứng đầu về xuất khẩu tôm cỡ 61/70 sang Mỹ với 7.000 tấn trị giá 36,8 triệu USD, giảm so với 7.200 tấn trị giá 29,9 triệu USD. Thái Lan tăng xuất khẩu sản phẩm này từ 2.900 tấn lên 4.200 tấn. Đối với tôm cỡ trên 70, Êcuađo xuất 4.600 tấn trị giá 22,2 triệu USD, giảm so với 5.500 tấn trị giá 20,8 triệu USD năm 2007, trong khi xuất khẩu từ Thái Lan tăng từ 1.200 tấn lên 2.300 tấn.
Tôm cỡ dưới 15: Việt Nam vượt Mêhicô về xuất khẩu tôm cỡ dưới 15 với 5.380 tấn trị giá 74,8 triệu USD, tăng nhẹ so với 5.330 tấn trị giá 84,5 triệu USD. Mêhicô xuất 5.340 tấn trị giá 72,2 triệu USD, tăng so với 5.100 tấn trị giá 61,8 triệu USD. (Intrafish)
Dự báo:
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang ngày càng nghiêm trọng, làm giảm nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản tại các thị trường lớn, nhất là tôm - mặt hàng đắt tiền. Nhập khẩu tôm vào thị trường Nhật giảm liên tục trong mấy năm qua. Năm 2008, nhập khẩu tôm vào Nhật giảm 2,5 - 3% về khối lượng, mặc dù đồng yên tăng giá. Các nhà kinh tế dự báo kinh tế Nhật sẽ còn suy giảm trong 2 năm tới.
Tại thị trường Mỹ, người tiêu dùng cũng giảm chi tiêu và các công ty lớn đang trong thời kỳ vô cùng khó khăn, do vậy tiêu thụ tôm chắc chắn sẽ giảm. Dự báo trong 1 năm tới sẽ không có gì khả quan đối với thị trường này. Thị trường Châu Âu cũng sa sút: trong mấy tháng qua, tiêu thụ tôm ở một số nước giảm 40% và các kho lạnh đầy ắp hàng tồn. Các chuỗi siêu thị đều giảm 20 - 30% đơn đặt hàng. Hoạt động giao dịch trì trệ vì đồng euro mất giá so với các đồng tiền khác.
Tiếp tục đà suy giảm hiện nay, xuất khẩu tôm trong tháng 2/2009 có thể còn giảm mạnh hơn so với tháng 1, do tình trạng thiếu tôm nguyên liệu chưa được cải thiện. Doanh nghiệp hiện nay đang trông chờ sự hỗ trợ của Chính phủ trong chính sách nhập khẩu thuỷ sản nguyên liệu để chế biến hàng xuất khẩu.
Lê Hằng
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.