Nguồn tin: BCT, 6/2/2007
Ngày cập nhật:
7/2/2007
Là vùng sông nước, ĐBSCL có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nghề nuôi cá tra xuất khẩu mà nhiều nơi khác không có được. Tuy nhiên, chỉ một khi có sự quan tâm đầu tư đồng bộ, thì con cá tra ĐBSCL mới trụ vững trên thị trường cạnh tranh xuất khẩu quyết liệt như hiện nay và trong tương lai.
Những thách thức
Sản xuất cá tra đúng quy hoạch, quy trình kỹ thuật sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm thu hoạch, chế biến xuất khẩu.
Xuất khẩu cá tra, ba sa (tra) là mặt hàng thủy sản tăng nhanh thời gian qua. Năm 2004 cả nước xuất khẩu 240 triệu USD thì năm 2005 là 320 triệu USD, năm 2006 là 661 triệu USD. Năm 2006 tăng so năm 2005 và 2004 lần lượt 207% và 275%. Tỷ trọng xuất khẩu cá tra so với xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2004 là 10%, năm 2005 là 11% thì năm 2006 tới 18,2%. Cách đây 5 năm, từ thế giới chưa biết loại cá này, đến năm 2005 nó đã có mặt trên 45 nước và vùng lãnh thổ và năm 2006 là 65 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó thị trường EU là 46%, Nga 11,2%, Mỹ 9,8%, ASEAN 8,7%... Giá xuất khẩu cá tra bình quân năm 2004 là 3 USD/kg thì năm 2005 là 2,336 USD/kg, năm 2006 gần 3 USD/kg, giá biến động từ 1,5 đến 4,2 USD/kg. Sản lượng cá tra nuôi năm 2004 đến 2006 từ 315.000 tấn - 400.000 tấn tăng lên 700.000 tấn. Tuy nhiên, năm 2004 được giá thì năm 2005 rớt giá, năm 2006 giá ổn định khá cao. Dự kiến năm 2007 nhu cầu cá tra trên thị trường thế giới vẫn cao với chất lượng và sản lượng ổn định và là mặt hàng hấp dẫn đối với người tiêu dùng.
Nhưng đối với việc phát triển sản xuất và chế biến cá tra xuất khẩu vẫn còn lắm thách thức: Việc quy hoạch chi tiết và tổ chức phát triển nuôi cá tra bền vững là vấn đề đặt ra cần được quan tâm xuyên suốt. Môi trường nước sạch ổn định lâu dài là sự tồn tại của phát triển nuôi cá tra. Sự gắn kết các khâu trong nuôi cá và dịch vụ hậu cần rất quan trọng để ổn định chất lượng và sản lượng cá nuôi. Sự gắn kết và chăm lo giữa nhà chế biến xuất khẩu đối với người nuôi cá là tạo điều kiện quan trọng để cá phát triển ổn định bền vững. Xây dựng và quản bá thương hiệu cá tra, có chế tài cần thiết để cá tra là lợi thế tiềm năng trong phát triển thủy sản bền vũng.
Cùng với Việt Nam xuất khẩu cá tra, một số nước châu Á, Mỹ La tinh cũng xuất khẩu cá da trơn mà cá tra là trọng yếu. Do đó việc cạnh tranh mặt hàng cá tra trên thị trường sắp tới sẽ quyết liệt hơn. Ví dụ như 10 tháng đầu năm 2006, cá da trơn nhập vào Mỹ 21.147 tấn, kim ngạch 75,8 triệu USD tăng 139,6% về lượng và 202% về trị giá so cùng kỳ 2005. Việt Nam cung cấp lớn nhất cho thị trường Mỹ 58,1% (14.000 tấn, kim ngạch 40,1 triệu USD) tăng 104,2% về lượng và 171,8% về trị giá. Trung Quốc đứng thứ hai tỷ trọng 16% (đạt 3.952 tấn và 15,4 triệu USD) tăng so năm ngoái 12,5%. Các nước Đông Nam Á như Malaysia tăng 11 lần (2.754 tấn), Campuchia tăng 24,7% (856 tấn), Indonesia tăng 12 lần (271 tấn) so cùng kỳ 2005. Riêng về cá tra (pangasius) chiếm 85,1% vào thị trường Mỹ (20.500 tấn với 62 triệu USD) tăng 134% về lượng và 203,6% về giá trị so cùng kỳ 2005. Xuất khẩu cá tra đến thị trường Mỹ: Việt Nam 68,3% (14.035 tấn), Thái Lan 10,6% (2.174 tấn), Malaysia 9,9% (2.036 tấn). Về giá cá tra (P.) tăng trung bình 29,7% so cùng kỳ 2005, đạt mức 3.016 USD/tấn so cùng kỳ 2005. Mức giá cá tra nhập vào Mỹ của Việt Nam 2.859 USD/tấn, Indonesia 3.978 USD/tấn, Thái Lan 3.417 USD/tấn, Malaysia 2.950 USD/tấn.
Giải pháp phát triển bền vững
Cần sớm triển khai quy hoạch chi tiết đối với phát triển nuôi cá tra, gắn quy hoạch với tổ chức phát triển nuôi bền vững. Nơi nào đủ điều kiện thì tổ chức phát triển, nơi nào không đủ điều kiện chuyển sang nuôi đối tượng thủy sản khác thích hợp và có thị trường tiêu thụ. Cá tra có sức sống rộng rãi, quanh năm. Cần có tổ chức nuôi, tránh thu hoạch tập trung cao, rớt giá. Nuôi cá tra phải đảm bảo chất lượng ổn định, nhất là không tồn lưu những hóa chất cấm.
Tổ chức gắn các khâu trong nghề nuôi cá tra, các nhà (nhà nông-nhà doanh nghiệp- nhà quản lý- Nhà nước) và hậu cần dịch vụ để phát triển cá tra: giống, thức ăn, thuộc phòng trị bệnh, thông tin, công nghệ... Các khâu này rất quan trọng, vì nó tạo nên chất lượng, số lượng ổn định, tăng hiệu quả của sản xuất. Phát triển cá tra không chỉ ở Việt Nam mà gắn kết với thị trường thế giới, sự đòi hỏi của thương trường mà ta phải đáp ứng. Do đó không thể mạnh ai nấy lo mà phải có tổ chức.
Sự gắn kết giữa nhà chế biến với người nuôi cá tạo cho cá tra vào thị trường thế giới vững chắc. Nhà chế biến đặt hàng với người nuôi cá: số lượng, qui cỡ, chất lượng, thời vụ... người nuôi phải thực hiện, người nuôi cá đòi hỏi nhà chế biến thực hiện. Cả hai phải có hợp đồng kinh tế thực sự. Chính sự quan tâm của nhà chế biến tạo cho nhà nuôi cá vào thế làm ăn lớn theo thị trường thế giới. Ai không thực hiện đúng sẽ bị loại dần khỏi cuộc chơi.
Cần có chính sách và chế tài cho phát triển cá tra. Nên chăng có ngân hàng giống cho cá tra như một số giống cây trồng khác, để một thời gian nữa con cá tra không bị thoái hóa, đảm bảo chất lượng giống cá tra lâu dài cho người nuôi. Về thức ăn cho cá tra như năm 2006 có khoảng 1,4 triệu tấn thức ăn xuống môi trường nước, cá sử dụng một phần, một phần tan vào nước. Vậy nghiên cứu thức ăn để hạ giá thành nuôi cá (hiện 70 - 80%) còn góp phần giảm ô nhiễm môi trường nước. Cần có chế tài đối với các “nhà” không tuân thủ qui định vào sân chơi lớn. Nhà quản lý cần gắn kết đầu mối các khâu cùng với nhau thực hiện.
Môi trường nước ở lưu vực 2 dòng sông Tiền sông Hậu sẽ quyết định số lượng, chất lượng, hiệu quả của nuôi cá tra bền vững, lâu dài. Hiện nay cục bộ từng nơi môi trường nước đã bị dơ. Nếu chúng ta cứ để tình trạng người nuôi cá, nhà chế biến, các sản xuất và sinh hoạt khác đều đổ dồn về sông phải gánh thì thảm họa đối với cá tra và môi trường sống là thực tế hiển nhiên. Cần sớm có giải pháp và chế tài đồng bộ cho môi trường nước này.
Bài, ảnh: DƯƠNG TẤN LỘC
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.