Nguồn tin: Sài Gòn giải phóng, 02/01/2010
Ngày cập nhật:
3/1/2010
Năm 2009, trong số trên 4 tỷ USD xuất khẩu thủy sản, 2 mặt hàng chủ lực là tôm đông lạnh và cá tra (kể cả ba sa) đã chiếm gần 2/3 kim ngạch của ngành. Đây là năm mà cả con tôm và cá đều ở thế tranh đua lẫn nhau về kim ngạch cho đến tận cuối năm.
Tôm sú: Tiền hung hậu kiết
Mấy năm nay người nuôi tôm khốn đốn không chỉ vì dịch bệnh, thời tiết thất thường làm tôm chết hàng loạt mà còn vì đầu ra ngày càng khó khăn. Có năm doanh nghiệp chế biến phải tồn kho khoảng 40.000 tấn tôm sú đông lạnh, không thể bán được vì thị trường thế giới có xu hướng chuyển sang sử dụng tôm thẻ chân trắng. Có lúc tôm thẻ chân trắng chiếm 80% thị phần tôm đông lạnh, đẩy con tôm sú vào thế cực kỳ khó khăn.
6 tháng đầu năm 2009, giá tôm sú rớt xuống mức thấp nhất trong 10 năm do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Diện tích ao nuôi bỏ trống khoảng 30%, cộng thêm tình trạng tôm chết do bệnh càng khiến cho sản lượng toàn vùng sụt giảm.
Giữa năm 2009, nhu cầu thị trường về tôm sú trên thế giới có dấu hiệu tăng trở lại, càng về cuối năm đơn đặt hàng càng nhiều để phục vụ cho dịp lễ Giáng sinh và Tết Dương lịch khiến cho nguồn tôm nguyên liệu càng khan hiếm. Giá tôm sú nguyên liệu đã tăng trở lại, bình quân 20.000 - 30.000 đồng/kg so với tháng 6 (loại 20 con/kg gần 150.000 đồng/kg, 30 con/kg - 110.000 đồng/kg).
Đến cuối tháng 12-2009, tại Cà Mau, tôm sú loại 20 con/kg giá 180.000 đồng/kg, loại 40 con/kg giá 108.000 đồng/kg. Đây là thời điểm giá tôm sú nguyên liệu cao nhất trong năm (tăng khoảng 45% so với cùng kỳ năm ngoái) và người nuôi tôm sú cảm thấy dễ thở hơn khi cuối năm không chỉ trúng mùa mà còn trúng giá. Khoảng 80% hộ nuôi đều có lãi (hoặc hòa vốn) bình quân 50 - 60 triệu đồng/ha/hộ. Cá biệt có nhiều hộ thu lợi lên đến hàng trăm triệu đồng. Vì vậy, 8 tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu tôm sụt giảm, tạo cơ hội cho con cá tra vượt lên, nhưng gần đây xuất khẩu tôm lại tiếp tục vị trí số 1 của ngành thủy sản xuất khẩu.
Nhưng với doanh nghiệp chế biến, tình trạng thiếu tôm nguyên liệu đang khá phổ biến ở các nhà máy chế biến. Hiện nay, hầu hết các nhà máy chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau đều hoạt động chưa đến 50% công suất do thiếu nguồn nguyên liệu.
Trong khi đó, dù thị trường tôm sú có dấu hiệu phục hồi, nhưng không vì thế mà người nuôi tôm hoàn toàn vui mừng, khi mà kết cấu hạ tầng của nghề nuôi tôm vẫn còn lạc hậu (hệ thống thủy lợi yếu kém, môi trường ô nhiễm, chất lượng con giống chưa được cải thiện hay kiểm dịch tốt)… Đó là chưa nói đến biến đổi khí hậu mà nhiều nước đang đề cập sẽ tác động như thế nào đối với vùng ĐBSCL, đó vẫn còn là thách thức cho vùng nuôi tôm sú ở ĐBSCL trong năm 2010.
Cá tra: Người nuôi gặp nạn
Đầu năm 2009 nhiều người đã dự báo, với sự khó khăn của con tôm đông lạnh và mức tăng tưởng xuất khẩu mạnh mẽ nhiều năm qua, cá tra (kể cả ba sa) sẽ vượt qua con tôm trở thành mặt hàng xuất khẩu số 1 của thủy sản Việt Nam. Điều này cũng đã ứng nghiệm cho đến tháng 8-2009, khi kim ngạch xuất khẩu cá tra luôn dẫn đầu ngành thủy sản.
Nhưng từ đó đến nay, việc xuất khẩu cá tra bị đuối dần. Theo Bộ Công thương, năm 2009 kim ngạch xuất khẩu cá tra ở mức 1,3 tỷ USD (năm 2008 là 1,45 tỷ USD). Năm 2009, có thể nói đây là năm khủng hoảng thật sự và là năm tệ hại nhất của người nuôi cá tra, diện tích nuôi giảm dần vì lỗ và cạn vốn khi ngân hàng xếp cá tra vào đối tượng nuôi nhiều nguy cơ.
Do vậy, dù giữa năm 2009, nhu cầu nguyên liệu chế biến xuất khẩu của các DN đang nhích lên đã đẩy giá cá tra tăng lên 16.500 - 17.000 đồng/kg (loại 1), giá cao nhất từ khi cuộc khủng hoảng thừa nguyên liệu năm 2008 kết thúc. Với giá này người dân có thể lãi 1.000 - 2.000 đồng/kg nhưng vẫn còn rất nhiều hộ nuôi cá tra bỏ trống ao hoặc thả mật độ thưa vì thiếu vốn và nợ nần…
Từ tháng 7 đến nay, việc xuất khẩu cá tra, basa Việt Nam liên tục sụt giảm cả về khối lượng và giá trị so với cùng kỳ năm ngoái, bình quân cả năm 2009, giá cá tra phi lê đông lạnh xuất khẩu giảm xuống còn 2,2 USD/kg, thấp hơn năm 2008 và thua gấp đôi so với thời hoàng kim khoảng 5 USD/kg. Đó là hậu quả của việc thị trường Nga, vốn rất tiềm năng và năm 2008 có mức nhập khẩu tăng vọt, nhưng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 đã bị đóng băng, sau đó dù có mở cửa nhập khẩu trở lại, nhưng rất hạn chế về lượng và số DN xuất vào thị trường này.
Trong khi đó, những thị trường truyền thống và thị trường mới nhằm bảo vệ mặt hàng cá trong nước bị dư luận nước sở tại tung tin đồn về chất lượng cá tra phi lê Việt Nam có vấn đề về an toàn vệ sinh thực phẩm. Dù sau đó con cá tra đã được minh oan, nhưng không phải vì thế mà tăng nhanh trở lại như mong muốn.
Nhưng điều tưởng nghịch lý đã xảy ra, nguyên liệu khan hiếm, nhưng giá cá tra nguyên liệu vẫn cứ sụt giảm thay vì tăng lên như quy luật cung cầu. Đó chính là bi kịch của người nuôi cá tra vùng ĐBSCL năm 2009. Đây cũng chính là hậu quả của việc DN tranh khách hàng, giảm giá bán, được dịp nhà nhập khẩu chỉ mua khi nào giảm giá bán. Hai thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam là Mỹ và EU giảm mạnh về số lượng và giá.
Năm 2009, các doanh nghiệp xuất khẩu trên 190.000 tấn tôm, đạt kim ngạch trên 1,5 tỷ USD, tăng hơn 7,4% về lượng và 0,73% về giá trị so với năm 2008. Đây là mặt hàng thủy sản duy nhất tăng trưởng trong năm 2009. Tôm sú vẫn là mặt hàng chủ lực, chiếm trên 75% giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, tôm thẻ chân trắng ngày càng chiếm tỷ trọng cao, đạt xấp xỉ 50.000 tấn.
Thị trường Hàn Quốc, Trung Quốc và Australia trở thành những thị trường tiềm năng với doanh số tăng đáng kể, chiếm gần 20% thị phần xuất khẩu. Thị trường Đức cũng là một thị trường rất đáng chú ý trong năm 2009, chiếm gần 30% tổng kim ngạch nhập khẩu tôm của 10 nước châu Âu. Năm 2009, Nhật Bản gia tăng nhập khẩu tôm chân trắng, chiếm 18% khối lượng, trong khi Mỹ, thị trường nhập khẩu tôm chân trắng lớn nhất chiếm 28%.
Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu tôm vào 82 thị trường trong đó 10 thị trường đầu tiên chiếm hơn 80% cả về khối lượng lẫn giá trị gồm Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Đức, Trung Quốc...
Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), năm 2010 tôm sú vẫn là sản phẩm xuất khẩu chủ lực, khoảng 1,4 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu tôm chân trắng vẫn tiếp tục tăng mạnh, dự kiến khoảng 500 triệu USD, sản lượng có thể đạt 150.000 tấn.
Công Phiên
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.