Nguồn tin: Báo Hậu Giang, 04/08/2010
Ngày cập nhật:
5/8/2010
Gần 10 năm qua, giá xuất khẩu cá tra ở ĐBSCL gần như đứng yên và dao động ở mức 3 USD/kg (hiện dưới ngưỡng 3 USD/kg). Trong khi đó, các rào cản thương mại càng gia tăng, đồng Euro giảm giá tác động tiêu cực đến đầu ra cá tra, cá ba sa. Sự tăng trưởng vượt bậc của cá da trơn gắn liền với những biến động mà tỷ lệ rủi ro đối với người nuôi ngày càng cao. Tìm ra một giải pháp, phát triển mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa là một nhu cầu cấp bách.
* Vùng nuôi nhiều, người tiêu dùng ít
Đến trung tuần tháng 7-2010, giá cá tra bán tại ao nuôi ở An Giang từ 15.000 - 15.500 đ/kg. Với mức giá này, người nuôi từ hòa đến lỗ (theo tính toán sơ bộ giá thành cá tra hiện nay khoảng 16.000 đ/kg). Tuy nhiên, khi cá tra được vận chuyển ra chợ được bán 20.000 - 22.000 đ/kg, đối với cá ba sa bán tại ao là 25.000 đ, tại chợ 28.000 đ/kg. Khoản chênh lệch từ ao tới chợ đối với cá tra cao hơn cá ba sa, do cá tra số lượng dồi dào và khó tiêu thụ hơn cá ba sa.
Xuất khẩu cá da trơn mang lại lợi nhuận cao, nhưng không ổn định, ảnh hưởng nghiêm trọng đến người dân ĐBSCL - đây là nơi chủ yếu cung cấp nguyên liệu thô về cá da trơn. Bên cạnh xuất khẩu, thị trường nội địa sẽ đóng vai trò quan trọng, các doanh nghiệp biết khai thác sẽ góp phần làm giảm sự bấp bênh. Cần phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng, nhất là liên quan đến nhu cầu và tiến trình quyết định mua của họ để có biện pháp phù hợp, gia tăng thị phần nội địa. Mới đây, Trường Đại học Cần Thơ đã có một nghiên cứu phân tích hành vi người tiêu dùng cá da trơn tập trung 5 địa phương: Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và TP.HCM. Theo đó, nhu cầu tiêu dùng tùy thuộc vào thu nhập, đặc điểm từng địa phương, loại sản phẩm tiêu dùng (cá tra hay cá ba sa), trình độ học vấn. Người tiêu dùng thu nhập trung bình trở xuống (dưới 2,9 triệu đồng/tháng) có nhu cầu cá tra cao hơn cá ba sa; thu nhập trên 3 triệu đồng/tháng kèm theo trình độ học vấn, nhu cầu về cá ba sa nhiều hơn cá tra trong điều kiện mức giá của hai loại cá này chênh lệch không quá lớn.
Một điều thú vị là: vùng có số hộ nuôi cá ba sa càng nhiều thì người tiêu dùng có nhu cầu càng ít. Chẳng hạn: 75% tại TP.HCM, 62,5% người tiêu dùng tại Cần Thơ thích mua cá ba sa nhiều hơn cá tra. Trong khi đó, tỷ lệ người tiêu dùng mua cá ba sa giảm dần theo từng địa bàn như sau: Vĩnh Long 25%, Đồng Tháp 15% và An Giang 12,5%. Ba tiêu chí quyết định động cơ mua cá da trơn của người tiêu dùng nội địa là: giá bán chiếm 96,43%; sự thuận tiện chiếm 91,43%; cảm giác ngon của cá da trơn chiếm 85,71%. Động cơ mua cá da trơn cũng bị ảnh hưởng bởi đặc điểm của từng địa phương, mục đích mua và chủng loại sản phẩm. Chẳng hạn người tiêu dùng ở Cần Thơ, An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp cho rằng, giá bán cá da trơn là quan trọng nhất để họ mua, trong khi đó ở TP.HCM không quan tâm đến giá bán mà họ lại quan tâm đến tiêu chí sự thuận tiện dễ mua, cảm giác ngon, tính bổ dưỡng.
* Cá da trơn từ chợ đến siêu thị
“Tôi muốn khẳng định rằng, ở đây không thể gọi là sự quay về, bởi vì các doanh nghiệp Việt Nam chưa từng làm tốt ở thị trường nội địa, chưa có cái nhìn đúng đắn về thị trường này. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua cùng với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nhìn nhận đây là thị trường tiềm năng cần khai thác và bắt tay đầu tư mạnh mẽ” - ông Đặng Lê Nguyên Vũ, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Cà phê Trung Nguyên chia sẻ. Thực tế, khi xuất khẩu gặp khó khăn, các doanh nghiệp thủy sản đã chú trọng phát triển thị trường nội địa, tuy nhiên gặp không ít vướng mắc. Khó khăn đầu tiên vẫn do đầu tư chưa đúng mức. Sản phẩm đông lạnh được tiêu thụ chủ yếu qua kênh siêu thị tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn. Các sản phẩm không thể vào chợ (kênh tiêu thụ chủ yếu hiện nay), bởi ở chợ không được đầu tư phương tiện bảo quản các sản phẩm đông lạnh. Một lý do khiến các doanh nghiệp chưa đầu tư đúng mức cho sân nhà là giá hàng thủy sản xuất khẩu thường cao hơn tiêu thụ nội địa. Theo Tiến sĩ Đỗ Văn Xê, Hiệu phó Trường Đại học Cần Thơ, mức độ hiện đại của kênh phân phối ảnh hưởng mạnh đến cách chọn cá da trơn của người tiêu dùng nội địa. Chẳng hạn, người tiêu dùng ở TP.HCM rất thích mua cá da trơn tại các siêu thị, trong khi đó người tiêu dùng tại Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang và Vĩnh Long lại thích mua cá da trơn tại các chợ gần nhà. Gần đây, người Cần Thơ đang có xu hướng mua nhiều hơn tại các siêu thị do hệ thống này ngày càng nhiều.
Tiến sĩ Đỗ Văn Xê đề xuất: Các doanh nghiệp cần xác định loại sản phẩm phân phối tùy thuộc vào đặc điểm của từng vùng và thu nhập của người dân của vùng đó. Nơi người có thu nhập cao và ở vùng thành thị thì nên cung cấp cá ba sa, người dân có thu nhập thấp thì cung cấp nhiều cá tra hơn. Cần sản xuất nhiều loại sản phẩm có chất lượng và hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu khách hàng đa dạng, trong đó thu nhập của khách hàng là yếu tố quan trọng. Sản phẩm có nguồn gốc từ cá sạch, bao bì vẻ bề ngoài bảo đảm sự tin cậy về chất lượng, có ghi thông tin đầy đủ về thành phần dinh dưỡng... để đáp ứng cho khách hàng có thu nhập cao. Sản phẩm có hình thức đơn giản, nhưng có giá rẻ để đáp ứng cho nhóm khách hàng có thu nhập thấp. Hiện nay, hệ thống siêu thị ngày càng phát triển, người dân - nhất là người có thu nhập cao, ngày càng có khuynh hướng dựa vào siêu thị để làm chỗ dựa về đảm bảo chất lượng. Cần có mối liên kết với siêu thị để phát triển sản phẩm đảm bảo chất lượng cho người có thu nhập cao và có thể bán được với giá ổn định. “Phát triển thị trường nội địa là giải pháp quan trọng nhằm giúp cho sản phẩm được tiêu thụ một cách ổn định. Để làm được việc này thì nghiên cứu về hành vi của người tiêu dùng nội địa đối với sản phẩm cá da trơn là một nội dung nghiên cứu cần được quan tâm” - Tiến sĩ Đỗ Văn Xê, Hiệu phó Trường Đại học Cần Thơ chia sẻ. Đề xuất này rất phù hợp với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Khi có một nghiên cứu đúng thì cá tra, cá ba sa sẽ có chỗ đứng nhất định không chỉ ở thị thành mà ngay thị trường nông thôn...
Theo điều tra của Trường Đại học Cần Thơ, người tiêu dùng rất quan tâm đến các sản phẩm cá da trơn trên thị trường, nhất là cá da trơn thịt trắng. Tuy vậy, 71,43% người tiêu dùng không biết và không quan tâm đến màu thịt của chúng khi mua. Các phương tiện thông tin như báo chí, truyền hình, truyền thanh và Internet ảnh hưởng lớn đến hiểu biết của người tiêu dùng nội địa về cá da trơn. Tùy thuộc vào từng địa phương sự nhận biết thông tin khác nhau, 90% người tiêu dùng TP.HCM biết nhiều thông tin trên thị trường về cá da trơn, tỷ lệ tương tự là 85% ở An Giang, 75% ở Cần Thơ, 60% ở Đồng Tháp và 50% ở Vĩnh Long. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, đối với người tiêu dùng có thu nhập cao (từ 5 triệu đồng/tháng trở lên) quan tâm nhiều nhất đến chất lượng, nguồn gốc cá sạch, thông tin trên sản phẩm và vẻ bề ngoài tốt, đồng thời chấp nhận giá mua cao, biên độ dao động giá rộng. Đối với người có thu nhập trung bình (từ 1 - 4,9 triệu đồng/tháng) quan tâm nhiều nhất đến hình thức bên ngoài, kế đến là chất lượng của sản phẩm. Đối với người có thu nhập thấp (dưới 1 triệu đồng/tháng) quan tâm nhiều nhất đến hình thức bên ngoài, ít quan tâm đến chất lượng sản phẩm và những chứng nhận chất lượng.
VĨNH TƯỜNG
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.