Nguồn tin: Báo Vĩnh Long, 25/01/2011
Ngày cập nhật:
26/1/2011
Mặc dù giá trị xuất khẩu không “chạm đích” như kế hoạch (1,5 tỉ USD), nhưng cá tra Việt Nam đã vượt lên tất cả, vẫn đứng vững trong năm 2010 - năm được xem là vô vàn khó khăn của ngành thủy sản nói chung và của ngành hàng cá tra nói riêng - và đã khẳng định bằng uy tín khi xuất khẩu sang 136 thị trường trên thế giới với khoảng 680.000 tấn (kim ngạch đạt 1,4 tỉ USD). Điểm nhấn này liệu có lan tỏa cùng niềm vui chào đón xuân về của những người trực tiếp làm nên “kỳ tích” ấy hay vẫn đan xen với bao trăn trở? Xin giới thiệu bài viết của Thạc sĩ Phạm Thị Thu Hồng - Quyền Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Vĩnh Long.
Dư chấn “cơn bão” cá tra năm 2008 – 2009 chưa được xua tan hẳn thì năm 2010 tiếp tục có một số thị trường chính nhập khẩu cá tra Việt Nam dựng hàng loạt rào cản kỹ thuật - nhất là các thị trường khó tính - đã gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu đối tượng này.
Rào cản kỹ thuật
Hiện nay, doanh nghiệp (DN) thủy sản muốn được xuất khẩu vào Mỹ thì điều bắt buộc đầu tiên là phải có HACCP (Hazard Analysis & Critical Control Point – Phân tích các mối nguy và kiểm soát các điểm tới hạn - do FAO/WHO ban hành). Đây là tiêu chuẩn bắt buộc mà Mỹ quy định cho bất kỳ sản phẩm thực phẩm nào nhập khẩu vào nước họ. Thế nhưng, điều này không có nghĩa là với tiêu chuẩn trên thì được nhập khẩu vào các nước Liên minh Châu Âu (EU).
Trong khi đó, để nhập khẩu vào các nước thuộc EU, trước hết DN phải tuân theo code (mã) quy định của liên minh này và một tiêu chí theo kiểu “luật bất thành văn” để được dễ dàng chấp nhập tại các siêu thị, hệ thống bán lẻ tại đây, đó là tiêu chuẩn thực hành sản xuất nông nghiệp tốt toàn cầu (Global GAP). Trước đây, các nước EU đưa ra tiêu chuẩn nuôi thủy sản bền vững của một hệ thống bán lẻ của Châu Âu là Eurep GAP, sau đó, chuyển thành Global GAP. Chính vì vậy, trong những năm qua, để dễ dàng xuất khẩu vào thị trường các nước nói trên, các DN trong ngành thủy sản tìm mọi cách để áp dụng tiêu chuẩn này. Ngoài ra còn có SQF (bao gồm SQF 2000 CM và SQF 1000 CM): Tiêu chuẩn an toàn thực phẩm xác định các yêu cầu cần thiết trong hệ thống quản lý chất lượng nhằm nhận diện các mối nguy đối với an toàn thực phẩm và chất lượng cũng như thẩm tra/giám sát các phương thức kiểm soát. Các tiêu chuẩn trên mang tính luật và bắt buộc tất cả đều phải tuân thủ nếu muốn đưa hàng ra thế giới.
Và mới đây trong cẩm nang hướng dẫn tiêu dùng thủy sản năm 2010 - 2011 của Quỹ Động vật hoang dã thế giới (WWF) tại một số nước như Đức, Áo, Thụy Sĩ, Bỉ, Na Uy và Đan Mạch, đã “liệt” cá tra vào danh sách đỏ khuyến cáo người tiêu dùng không nên chọn lựa sản phẩm này với hầu hết lý do là môi trường nuôi cũng như việc sử dụng thức ăn, hóa chất và thuốc thú y trong nuôi cá tra “có vấn đề”. Sau khi đưa cá tra, basa vào rồi lại quyết định rút ra khỏi danh mục đỏ ấy, (WWF) đã đạt được bản thỏa thuận với các cơ quan chức năng và các tổ chức Hội nghề Thủy sản Việt Nam về việc áp dụng một tiêu chí cho ngành cá tra, basa là đến năm 2015, có khoảng 50% sản lượng cá tra xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt tiêu chuẩn của Hội đồng Quản lý nuôi trồng thủy sản (ASC) và số còn lại sẽ theo các tiêu chuẩn khác như Global GAP. Quả là cả người nuôi và DN đang “rối bời” với các rào cản kỹ thuật này. Việc làm quen với các tiêu chuẩn quốc tế lại một lần nữa đặt nghề nuôi và chế biến cá tra/basa khu vực ĐBSCL trước một thách thức lớn: Một tiêu chuẩn chung hay chạy theo tiêu chuẩn của từng thị trường? Câu hỏi đó vẫn còn treo lơ lửng và chưa có lời giải đáp. Để phát triển bền vững, đòi hỏi chúng ta phải đáp ứng được quy định chung của thế giới, không thể cứ chạy theo tiêu chuẩn của từng thị trường riêng biệt mãi.
Rào cản thương mại
Song song đó, rào cản thương mại cũng đã và đang đè nặng “gánh” ngành hàng. Quyết định sơ bộ áp mức thuế 130% với mặt hàng cá tra xuất khẩu vào Mỹ đang đè nặng lên các nhà xuất khẩu cá tra những ngày cuối năm, khi mà nguyên liệu đang căng thẳng. Chỉ còn 2 tháng nữa, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) sẽ có kết luận cuối cùng. Nếu DOC thông qua vào tháng 3 này, nhiều DN xuất khẩu cá tra của Việt Nam sẽ phải chịu mức thuế chống bán phá giá mới là 4,22 USD/kg, cao nhất từ trước tới nay, kéo theo đó là nông dân treo ao, nhà máy đóng cửa, công nhân thất nghiệp,... Mức thuế từ 0 đến 5% đã gây khó cho DN, nếu chịu mức thuế 130% thì không DN nào có thể bán được tại thị trường này bởi hiện nay với mức thuế là 0%, thì giá cá tra của Việt Nam cũng chỉ rẻ hơn sản phẩm tương tự của các nhà xuất khẩu khác tại thị trường này khoảng 10 - 15%. Và mặc dù thuế chống bán phá giá do nhà nhập khẩu chịu, nhưng sẽ đẩy giá tăng cao, bản thân người tiêu dùng nước này phải tốn thêm chi phí trong bối cảnh “hậu khủng hoảng” kinh tế toàn cầu, buộc họ phải lựa chọn sản phẩm thay thế khác có giá rẻ hơn. Mặc dù kết luận sơ bộ về mức thế chống bán phá giá mới chưa tác động đến sản lượng cá tra xuất khẩu vào Mỹ nhưng nếu phía DOC thông qua, sẽ gây ra một tiền lệ xấu cho các thị trường khác. Mỹ vẫn là thị trường chiếm hơn 10% tổng lượng cá tra xuất khẩu của Việt Nam. Nếu bị áp thuế cao, có thể xuất hiện làn sóng các nhà xuất khẩu chuyển hướng, ồ ạt đưa hàng sang các thị trường khác (EU, Nhật...). Lúc đó nguy cơ các nước tiếp tục đưa ra mức thuế chống bán phá giá với con cá tra, theo kiểu phản ứng dây chuyền, là điều có thể xảy ra.
Bao khó khăn là thế nhưng tính đến hết tháng 12/2010, tổng diện tích nuôi cá tra đạt khoảng 5.400 ha; sản lượng cá thu hoạch đạt trên 1,1 triệu tấn (đạt 95% kế hoạch năm 2010, bằng 105% năm 2009), năng suất trung bình đạt gần 270 tấn/ha/vụ. So với các năm trước, năm nay không có tình trạng dư thừa cá nguyên liệu, song mối lo thiếu nguyên liệu vẫn “nặng trĩu” trên vai các DN chế biến xuất khẩu.
Thạc sĩ PHẠM THỊ THU HỒNG
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.