Nguồn tin: Thương Mại Thủy Sản, 02/03/2011
Ngày cập nhật:
21/3/2011
Năm 2010, lần đầu tiên giá trị xuất khẩu tôm của VN vượt qua mức 2 tỷ USD, đạt 2,106 tỷ USD với sản lượng 240.985 tấn, trong đó tôm chân trắng chiếm tới 26% sản lượng và 20% giá trị.
Tôm chân trắng (còn gọi là tôm thẻ chân trắng, tôm thẻ) có tên khoa học Litopenaeus vannamei (tên cũ Penaeus vannamei) phân bố tự nhiên ở biển phía đông Nam Mỹ, nơi có nhiệt độ nước cao hơn 20 độ C quanh năm, từ vùng Sonora thuộc Mêhicô, đến phía bắc Pêru.
Quá trình phát triển nuôi tôm chân trắng
Việc sinh sản nhân tạo tôm chân trắng (TCT) thành công lần đầu tiên vào năm 1973 ở Florida từ nguồn tôm bố mẹ tự nhiên khai thác ở Panama đã dẫn tới quá trình phát triển nhanh chóng nuôi loài tôm này ở Trung, Nam Mỹ và Hawaii từ năm 1976. Sản lượng năm 1998 đã đạt đỉnh 193.000 tấn, sau đó giảm dần vì bùng phát dịch đốm trắng. Việc di giống nuôi loài này ở châu Á sau đó đã làm sản lượng tăng vọt tới 1,386 triệu tấn năm 2004, trong đó Trung Quốc đóng góp 700.000T, Thái Lan 400.000T, Inđônêxia 300.000T. Sản lượng của Việt Nam năm 2004 được FAO ghi nhận là 50.000T. Hawaii trở thành trung tâm nghiên cứu thuần hóa TCT, sản xuất giống sạch bệnh - kháng bệnh (SPF/SPR), và cải thiện tốc độ tăng trưởng.
Ở Đông Nam Á, Thái Lan, tiếp theo là Inđônêxia cũng cho phép nuôi TCT từ đầu những năm 2000, nhưng chỉ bằng tôm giống SPF/SPR. Các nước khác ở khu vực Đông Nam Á và Nam Á lúc đầu đều có tiếp cận khá dè dặt với loài này, chẳng hạn Campuchia, Ấn Độ, Malaixia, Mianma, Philipin đều chỉ cho nuôi thử nghiệm, do lo ngại lan truyền mầm bệnh mới, chủ yếu là vius hội chứng Taura (TSV), lên các đối tượng bản địa.
Thái Lan là nước đi đầu khu vực Đông Nam Á về nuôi TCT, sản lượng hiện lên tới khoảng 500.000 tấn mỗi năm. Nước này cũng đi đầu trong nghiên cứu tự sản xuất giống TCT sạch bệnh, kháng bệnh và cải thiện tốc độ tăng trưởng để đáp ứng nhu cầu nuôi trong nước và XK. Thậm chí, họ đã có bộ giống TCT cho các vùng nuôi có những điều kiện tự nhiên khác nhau.
Sự chậm chân của Việt Nam
Việt Nam cũng là một trong những nước đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á du nhập giống TCT, nhưng lại là nước phát triển nuôi loài này vào loại chậm trong khu vực. Từ năm 1996 - 1997, một việt kiều Mỹ là ông Trần Kia đã lập dự án xin nhập giống TCT về nuôi tại Bạc Liêu, nhưng mãi đến năm 2001 - 2002 Bộ Thủy sản (cũ) mới cho 3 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là Công ty Duyên Hải (Bạc Liêu), Công ty Việt Mỹ (Quảng Ninh) và Công ty Asia Hawaii (Phú Yên) được nhập con giống SPF để nuôi thử nghiệm.
Từ năm 2002, do bị thiệt hại trong nuôi tôm sú, nhiều địa phương ở phía Bắc và miền Trung đã chuyển sang nuôi TCT và thu được kết quả tốt; vậy nhưng phải đến đầu năm 2008, với Chỉ thị số 228 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT ngày 25/1/2008, đối tượng này mới được phép đưa vào nuôi ở các tỉnh phía Nam trong các vùng quy hoạch và theo những điều kiện nhất định.
Tuy các DN đã nhìn thấy triển vọng của TCT ở Việt Nam từ rất sớm, song quá trình phát triển nuôi ở Việt Nam đi chậm hơn nước láng giềng Thái Lan tới gần 10 năm. Đặc biệt, mặc dù cũng có đề tài nghiên cứu sản xuất giống được “bảo vệ thành công” từ năm 2004, đến nay hầu hết đàn tôm TCT bố mẹ vẫn phải dựa vào nguồn NK.
Sự thận trọng của cơ quan quản lý đối với một đối tượng nuôi mới là hết sức cần thiết để bảo vệ nguồn gen sinh vật bản địa và phòng ngừa sự xâm nhập của các mầm bệnh mới, song sự thận trọng thái quá như trong trường hợp này lại gây thiệt hại lớn về kinh tế đối với cả người nuôi, DN chế biến XK và cho cả đất nước.
Chỗ đứng của tôm chân trắng ở Việt Nam
Mặc dù mới được phép nuôi trên địa bàn cả nước 3 năm, sản phẩm TCT đã đóng góp ngày càng quan trọng cho XK thủy sản Việt Nam. Giá trị XK của riêng tôm chân trắng năm 2010 đã đạt 414,6 triệu USD, tăng gấp rưỡi so với năm 2009, bằng 20% giá trị XK tôm nói chung và bằng 8% tổng giá trị XK tất cả các sản phẩm thủy sản trong năm. Thị phần của một loài như vậy là không hề nhỏ. Ở đây chưa nói đến một sản lượng đáng kể TCT tiêu thụ nội địa và XK tiểu ngạch. Sự tăng trưởng liên tục cả diện tích nuôi, sản lượng và giá trị XK chứng tỏ TCT đã có chỗ đứng vững chắc trong cơ cấu giống thủy sản nuôi ở Việt Nam.
Tất nhiên, với Việt Nam, tôm sú vẫn là một đối tượng thủy sản XK chủ lực, nhất là thế mạnh cạnh tranh trên thị trường tôm cỡ lớn, nhưng sự có mặt của TCT đã tạo nên sự đa dạng, cả về chủng loại sản phẩm lẫn phổ giá bán, phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng.
Một điểm nữa, nếu chú ý rằng, theo thống kê của Bộ NN&PTNT, diện tích nuôi TCT năm 2010 là 25.000 ha, sản lượng 135.000T, đem lại 414,6 triệu USD giá trị XK; trong khi đó diện tích nuôi tôm sú bằng 613.000 ha, sản lượng 330.000T, đem lại 1.439 triệu USD, có thể thấy TCT được nuôi tập trung hơn, do đó hiệu quả sử dụng đất cao hơn nhiều so với tôm sú.
Nếu mấy năm trước, một số DN chế biến còn e ngại TCT do chi phí nhân công chế biến cao hơn nhiều so với tôm sú, thì nay TCT đã có mặt trong danh mục sản phẩm của tất cả các nhà XK tôm Việt Nam.
Ông Trần Văn Lĩnh, TGĐ Thuận Phước Corp - đơn vị đã “xé rào” XK TCT từ 7 năm qua - cho biết, nhà nước nên xây dựng những KCN để DN và dân đầu tư nuôi tôm tập trung. Sản phẩm TCT có nhiều lợi thế riêng, do “có mùa vụ nuôi hầu như quanh năm”. Đặc biệt ở miền Trung, thời kỳ nuôi TCT hiệu quả cao nhất lại là từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, tuy tốc độ lớn chậm hơn so với thời kỳ tháng 4 - 6, nhưng ít bệnh do môi trường ổn định, lại không bị thiên tai đe dọa. Người nuôi áp dụng kỹ thuật thả mật độ cao rồi thu tỉa dần cỡ lớn có thể sản xuất được TCT cỡ lớn tới 20 - 21.
Ông Nguyễn Tuấn Anh, TGĐ Utxi Co cho biết, TCT cũng có thể nuôi quanh năm ở Sóc Trăng và thu được tôm cỡ lớn. Người nuôi còn sáng tạo kỹ thuật gây nuôi tảo thích hợp để TCT thành phẩm cỡ lớn, chắc thịt, có màu thịt đỏ không thua gì tôm sú.
Ông Trần Thiện Hải, TGĐ Sea Minh Hải: Tính khoa học trong quy hoạch NTTS là điều rất cần bàn.
Vấn đề phải giải quyết
Hiện nay, vấn đề hàng đầu quyết định thành bại của nuôi TCT là con giống. Đây là điều được nhắc đi nhắc lại trên nhiều diễn đàn về nuôi TCT ở cả 3 miền, nhưng tương lai vẫn còn chưa sáng tỏ. Bộ Thủy sản trước đây, Bộ NN&PTNT hiện nay cũng đã chi không ít tiền cho các đề tài nghiên cứu, song sau khi bảo vệ thành công, các kết quả nghiên cứu được đưa vào thực tiễn ra sao ít người biết.
Sản phẩm sushi TCT của Hải Việt Co.
Khác với tôm sú, TCT đã được thuần hóa, nên người ta có thể bắt ngay tôm từ ao nuôi thương phẩm để nuôi vỗ cho đẻ đến thế hệ F2, F3. Do đó, phẩm chất tôm giống bị thoái hóa, dễ bị sinh sản cận huyết, tốc độ lớn thấp và dễ nhiễm bệnh. Theo ông Lĩnh, năm vừa qua nông dân miền Trung, nhất là ở Quảng Ngãi đã bị thiệt hại nghiêm trọng do mua phải con giống trôi nổi, tôm chết hàng loạt. Việc quản lý tôm giống trên thị trường, nếu chỉ dựa vào đánh giá cảm quan hay thử phản ứng thông thường, không thể phát hiện tôm kém chất lượng hay đang mang mầm bệnh.
Hơn nữa, toàn bộ TCT đều nuôi thâm canh nên thiệt hại càng lớn hơn. Chỉ các DN lớn, nuôi theo quy trình quản lý chặt chẽ, đầu tư lớn mới thành công. Một trong những yếu tố làm nên thắng lợi vang dội của Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú năm vừa qua cũng nhờ công ty chủ động được sản xuất tôm giống và nuôi tôm nguyên liệu cho mình.
Vấn đề nổi cộm tiếp theo, theo ông Trần Thiện Hải - TGĐ Sea Minh Hải, là quy hoạch vùng nuôi còn thiếu căn cứ khoa học và thiếu tính đồng bộ giữa các ngành sản xuất. Về vấn đề này, ông Lĩnh đưa ra một đề xuất rất mới, táo bạo và đáng suy nghĩ, đó là nhà nước nghiên cứu xây dựng những khu công nghiệp nuôi tôm ở khu vực ven biển miền Trung, để các DN và nông dân đầu tư nuôi tôm, cũng giống như các DN đầu tư vào các khu công nghiệp khác vậy. Bởi xét về hiệu quả sử dụng đất và lợi ích kinh tế, các khu công nghiệp nuôi tôm này sẽ có đóng góp không thua kém các khu công nghiệp đã và đang có. Mặt khác, các khu công nghiệp nuôi tôm còn có lợi ích xã hội lớn vì không làm mất cơ hội việc làm với năng suất cao và thu nhập thỏa đáng cho chính dân cư địa phương.
Sản xuất nuôi tôm còn rất manh mún, mối liên kết giữa các thành phần trong chuỗi giá trị sản xuất còn lỏng lẻo cũng là hạn chế phải nhanh chóng tìm biện pháp khắc phục. Những kinh nghiệm xây dựng liên kết chuỗi trong sản xuất cá tra có thể cung cấp bài học sáng giá đối với ngành sản xuất tôm Việt Nam nói chung, sản xuất TCT nói riêng. Quan hệ hợp tác giữa các tổ chức cộng đồng giữa VASEP và Hiệp hội Tôm Mỹ Thanh có thể xem là bước khởi đầu đáng quan tâm theo hướng này
Triển vọng
Chỗ đứng của TCT trong tập đoàn đối tượng thủy sản của Việt Nam đã được xác định, những vấn đề cần giải quyết để đẩy mạnh sản xuất, tiêu thụ đối tượng này đã được nhận ra. TCT đang có tương lai rất rõ ràng ở Việt Nam.
Với tốc độ phát triển hiện nay, nếu các hạn chế được quan tâm khắc phục nhanh, đặc biệt là vấn đề tạo nguồn giống TCT tại chỗ, thích hợp với điều kiện môi trường, sinh thái của Việt Nam, TCT hoàn toàn có cơ hội đuổi kịp và sánh vai cùng tôm sú, tạo nên cỗ xe “song tôm” làm đầu tàu cho XK thủy sản của Việt Nam trong 3 - 4 năm tới.
Hoàng Thanh
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.