Nguồn tin: Tiền Giang, 06/04/2011
Ngày cập nhật:
8/4/2011
Tự đầu tư vào vùng nguyên liệu đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế là con đường đã và đang được các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Tiền Giang thực hiện, nhất là đối với cá tra, trước áp lực thiếu nguyên liệu sản xuất và tình hình xuất khẩu gặp nhiều rào cản kỹ thuật.
Xây dựng vùng nuôi kiểu mẫu
Sau thời gian đầu tư xây dựng mô hình theo tiêu chuẩn quốc tế, ngày 7/3 tổ chức Intertek Food Services GmbH (Đức) đã trao giấy chứng nhận Global GAP (Good Agricultural Practices - Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt) cho vùng nuôi cá tra rộng 3 ha của Công ty cổ phần chế biến thủy sản Ngọc Xuân (Song Thuận, Châu Thành). Đây là một trong những mô hình nuôi cá tra nguyên liệu đầu tiên đạt tiêu chuẩn Global GAP được đầu tư bởi chính doanh nghiệp xuất khẩu. Bà Nguyễn Thị Ánh, Giám đốc Công ty Ngọc Xuân cho biết, bên cạnh vùng nuôi rộng 3 ha (ở xã Phú Túc, Châu Thành, Bến Tre) vừa được cấp giấy chứng nhận, Công ty cũng vừa đầu tư mở rộng thêm 5 ha nuôi theo mô hình Global GAP. Ngoài ra, tại xã Phú Đức (Châu Thành, Bến Tre), Công ty Ngọc Xuân đã đầu tư 10 ha để nuôi theo tiêu chuẩn quốc tế. "Nuôi cá theo tiêu chuẩn Global GAP, Công ty không chỉ chủ động nguồn nguyên liệu mà còn an tâm với chất lượng sản phẩm. Tổng sản lượng cá mà Công ty tự nuôi hiện tại khoảng 18.000 tấn nguyên liệu, đáp ứng 80% nhu cầu sản xuất của nhà máy mỗi năm", bà Nguyễn Thị Ánh cho biết.
Tham quan mô hình nuôi cá tra theo tiêu chuẩn Global GAP mới thấy để được các tổ chức quốc tế cấp giấy chứng nhận là điều không đơn giản. Kỹ sư Nguyễn Thanh Hùng, người trực tiếp điều hành kỹ thuật vùng nuôi ở xã Phú Túc cho biết, theo tiêu chuẩn Global GAP, cá tra được nuôi theo quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt, bảo đảm truy xuất được nguồn gốc từ con giống, thức ăn, quản lý thuốc trị bệnh, có hệ thống ao lắng khi đưa nước vào và xử lý nước thải ra, bảo đảm vệ sinh môi trường... Chính vì vậy, quá trình nuôi phải được ghi chép cẩn thận, chi tiết từng loại thức ăn, thuốc trị bệnh, diễn biến trong quá trình nuôi. Tại vùng nuôi phải dành diện tích để xử lý ao lắng, hệ thống xổ xả theo đúng quy trình, kỹ thuật nuôi được quản lý chặt chẽ. Trước và sau khi được cấp giấy chứng nhận, các nhà tiêu thụ sẽ trực tiếp đến vùng nuôi tại Việt Nam để kiểm tra thực tế trước khi nhập khẩu. Chính vì vậy, việc nuôi và chế biến cá tra theo chuẩn Global GAP sẽ làm tăng giá thành hơn so với nuôi bình thường chút ít.
Công ty cổ phần Hùng Vương (KCN Mỹ Tho) cũng là một trong những đơn vị đi tiên phong trong việc áp dụng Global GAP trên cá tra. Ông Dương Ngọc Minh, Tổng Giám đốc Công ty đồng thời là Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, từ năm 2009 Công ty đã triển nuôi thí điểm cá tra theo tiêu chuẩn toàn cầu Global GAP trên diện tích 20 ha tại huyện Chợ Lách (Bến Tre) và Cái Bè (Tiền Giang). Nhờ đi tiên phong trong việc xây dựng mô hình nuôi hiện đại, Công ty Hùng Vương đã chủ động phần lớn nguồn nguyên liệu và mở rộng thị trường tiêu thụ. Ông Dương Ngọc Minh cho rằng, các doanh nghiệp cũng như người nuôi nên sản xuất theo qui trình GlobalGAP. Bên cạnh đó, VASEP cũng đề xuất thành lập Quỹ bảo vệ chất lượng và bình ổn giá cá tra, mỗi kg cá tra phi lê xuất khẩu doanh nghiệp có thể đóng phí 5 - 10 cent. Quỹ này sẽ hỗ trợ lại doanh nghiệp, người nuôi áp dụng qui trình GlobalGAP, các vụ kiện thương mại, đầu tư khoa học kỹ thuật trong quá trình sản xuất, bình ổn giá cho người nuôi...
Nâng cao giá trị tăng thêm
Tự đầu tư vào vùng nguyên liệu là bước đi bắt buộc của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu bởi thực tế vừa qua cho thấy, có đến gần 40% diện tích nuôi cá tra ở khu vực ĐBSCL đã bỏ trống do thời gian dài bị thua lỗ. Bà Trần Thị Thu Nguyệt, Giám đốc Công ty cổ phần Dabaco Tiền Giang, chuyên nuôi trồng, chế biến cá tra xuất khẩu và chế biến bột cá (ấp Tây Hòa, xã Song Thuận, Châu Thành) cho biết, nhu cầu sản xuất của Công ty khoảng 200 tấn nguyên liệu mỗi ngày. Trước thực tế hiện nay, Công ty phải tập trung mọi nguồn lực để đầu tư khoảng 100 ha nuôi cá tra tại Đồng Phú (huyện Long Hồ, Vĩnh Long) và gần 20 ha tại Phú Đa (Bến Tre), nhằm đáp ứng khoảng 70% nhu cầu sản xuất của nhà máy. Còn Công ty cổ phần Gò Đàng đã đầu tư khoảng 80 ha, trong đó có 20 ha theo tiêu chuẩn GlobalGAP; dự kiến vùng nuôi của Công ty sẽ lên 150 ha để đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất của nhà máy.
Tuy nhiên, để đầu tư thành công vùng nuôi theo đúng qui trình Global GAP, chi phí đầu tư là không nhỏ. Theo bà Nguyễn Thị Ánh, để đầu tư cho khoảng 18 ha nuôi từ chi phí mua đất, đào ao, con giống, thức ăn cũng lên đến gần 100 tỷ đồng. Chỉ riêng chi phí tư vấn và cấp giấy chứng nhận Global GAP mỗi năm cho từng vùng nuôi là trên 7.500 USD. Do vậy, việc thực hiện Global GAP đối với những vùng nuôi có qui mô lớn hiện chỉ được các doanh nghiệp xuất khẩu tự thực hiện hoặc từ nguồn kinh phí của Nhà nước hỗ trợ, còn tự các hộ nuôi rất khó áp dụng.
Khi áp dụng Global GAP, doanh nghiệp sẽ mang lại hiệu quả rất lớn. Trên thực tế, mô hình sản xuất cá tra theo qui trình Global GAP chi phí sản xuất chỉ tăng thêm 3%, trong khi giá trị tăng thêm đến 12% (tương đương 30 cent/kg cá thành phẩm). Cái lợi lớn hơn là sản phẩm đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe của thị trường xuất khẩu nên doanh nghiệp có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu - bởi có giấy chứng Global GAP là sự cam kết rằng thực phẩm đạt mức độ có thể chấp nhận được về sự an toàn và chất lượng; quá trình sản xuất được chứng minh có quan tâm đến sức khỏe, sự an toàn, phúc lợi của người lao động,... Hiện Global GAP đã có mặt trên 140 quốc gia.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ở Việt Nam đã có hơn 1.500 giấy chứng nhận Global GAP được cấp trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu nông sản. Ở ĐBSCL, nhiều vùng nuôi thủy sản, chủ yếu là cá tra, tôm sú của một số doanh nghiệp như Công ty cổ phần Hùng Vương, Công ty cổ phần Gò Đàng (Tiền Giang), Công ty cổ phần Nam Việt (Cà Mau), Công ty cổ phần Nuôi trồng và Chế biến thủy hải sản Mỏ ó Sóc Trăng (ấp Mỏ Ó, xã Trung Bình, Long Phú, Sóc Trăng), Công ty Hoàng Long (Đồng Tháp)... cũng đang tiến hành các bước cần thiết để sản xuất theo tiêu chuẩn Global GAP.
Tại Hội nghị bàn giải pháp phát triển cá tra vùng ĐBSCL vừa được tổ chức, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh: "Nhiệm vụ quan trọng là phải nỗ lực bảo vệ và phát triển thị trường xuất khẩu, tăng cường nâng cao chất lượng vùng nuôi, chế biến. Đặc biệt là đẩy mạnh việc nuôi cá tra theo quy trình Global GAP". Theo tính toán, nếu 6.000 ha nuôi cá tra ở ĐBSCL đều áp dụng tiêu chuẩn này thì tình trạng được mùa, rớt giá sẽ không lặp lại...
Phù hợp với lộ trình
Theo nội dung bản ghi nhớ được ký kết giữa đại diện WWF quốc tế với đại diện VASEP và Hội Nghề cá Việt Nam, lộ trình áp dụng ASC (Aquaculture Stewardship Council - Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản) vào vùng nuôi cá tra "để đáp lại việc cá tra được đưa ra khỏi danh sách đỏ" được xác định cụ thể như sau: Trong 2 năm 2011 - 2012, Việt Nam phấn đấu có 25% lượng cá tra xuất khẩu đạt bất cứ một tiêu chuẩn quốc tế về phát triển cá tra bền vững, trong đó có 10% được chứng nhận ASC; đến năm 2014 sẽ phấn đấu có 75% lượng cá tra xuất khẩu đạt bất cứ một tiêu chuẩn quốc tế nào về phát triển cá tra bền vững, trong đó có 30% được chứng nhận ASC; đến 2015 thì 100% cá tra xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt tiêu chuẩn quốc tế về phát triển cá tra bền vững, trong đó có 50% được chứng nhận ASC.
Thế Anh
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.