Nguồn tin: Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, 26/05/2011
Ngày cập nhật:
28/5/2011
Giáo sư David Little tại hội thảo. Ảnh: Thế Diễn
Tại hội thảo “Hiện trạng sản xuất cá tra và tôm sú ở ĐBSCL” do Đại học Cần Thơ và Đại học Stirling (Scoland) vừa tổ chức ở Cần Thơ, TBKTSG Online đã phỏng vấn GS.TS David Little ở Viện Thủy sản Đại học Stirling – Chủ nhiệm dự án SEAT (Sustaining Ethical Aquaculture Trade – Nuôi trồng thủy sản bền vững theo chuẩn thương mại), xoay quanh việc SEAT được thực hiện tại Việt Nam.
Mục tiêu của SEAT là gì, thưa Giáo sư?
- GS.TS David Little: Mục tiêu cụ thể là giúp nâng cao sản xuất và thương mại của nghề nuôi thủy sản ở Thái Lan, Bangladesh, Trung Quốc và Việt Nam đối với tôm càng xanh, tôm sú, cá tra, cá rô phi. Mục tiêu lâu dài là để duy trì sự phát triển của nghề nuôi thủy sản ở bốn nước này đồng thời bảo đảm tính hài hòa của thị trường này giữa châu Á và châu Âu trong sự phát triển bền vững.
Dự án nhìn nhận sản xuất cá tra và tôm sú ở ĐBSCL hiện đang ra sao?
- Dự án đã đi được nửa chặng đường về mặt thời gian (2009 - 2013), còn công việc của chúng tôi thì chưa được phân nửa. Chúng tôi đã tập trung nghiên cứu một cách tổng quát về 4 đối tượng này ở 4 quốc gia, riêng Việt Nam thì tập trung ở hai con là tôm sú và cá tra thông qua việc chọn mẫu điều tra để đánh giá. Hiện nay chúng tôi đã thu thập xong số liệu và đang tập trung phân tích để có đánh giá chính xác về thực trạng của nghề nuôi cá tra và tôm sú ở ĐBSCL. Đây là nghề có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhiều người dân ở ĐBSCL.
Cá tra phát triển rất nhanh, tôm sú phát triển chậm hơn. Hiện nay cá tra đang có thị trường rất lớn trên thế giới, đặc biệt là châu Âu. Cá tra đang được nuôi ở một số vùng ở ĐBSCL, tức là diện tích không rộng như nuôi tôm sú và nghề nuôi cá tra đang thay đổi rất đáng ghi nhận.
Vấn đề đặt ra là cá tra đang được nuôi với nhiều quy mô khác nhau, từ nhỏ tới lớn. Tình hình cho thấy những người nuôi nhỏ, đặc biệt dưới 0,5 héc ta đang gặp nhiều khó khăn và nhiều người đã ngừng sản xuất. Họ gặp khó về vay vốn, giá cả biến động, nhiều lúc thấp, và vật tư đầu vào ngày càng tăng. Họ chưa biết phải làm gì, có thể sẽ nuôi cá khác hoặc sẽ làm thuê cho các chủ nuôi cá tra lớn. Nếu tới đây có thay đổi về thị trường, về kỹ thuật nuôi thì có thể nhóm này sẽ quay lại nuôi cá tra.
Với tôm thì có khác. Tôm đang được nuôi với nhiều cách, từ quảng canh đến thâm canh. Vấn đề lớn nhất từ năm ngoái đến nay là dịch bệnh, đang trở thành một thách thức lớn đối với người nuôi tôm. Hội thảo này là để ghi nhận ý kiến của người nuôi và nhiều đối tượng khác trong chuỗi sản xuất xem họ cần gì để qua đó chúng tôi có thể hoạch định hướng phát triển cho nghề nuôi tôm. Chúng tôi cần 2 - 3 tháng nữa để xử lý hết số liệu thu thập. Chúng tôi sẽ tích cực làm việc tiếp với Khoa Thủy sản Đại học Cần Thơ để có thể đưa ra những thông tin chính xác làm cơ sở cho những khuyến nghị của chúng tôi.
Tại hội thảo, ban tổ chức đã chiếu phim điều tra của Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF) - cho rằng nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL không bảo đảm môi trường. Giáo sư có bình luận gì về phim này?
- Qua phim chiếu trên đài truyền hình Đức về nghề cá tra của Việt Nam cách đây khoảng hai tháng do các điều tra viên của WWF thực hiện mà chúng tôi cũng vừa chiếu trong hội thảo này cũng như qua thông tin mà chúng tôi trình bày tại hội thảo, tôi nghĩ rằng người nông dân Việt Nam cần phải hiểu người tiêu dùng châu Âu họ nhìn nhận về sản phẩm thủy sản của Việt Nam như thế nào, đặc biệt là đối với cá tra.
Trong phim anh có thể thấy là có nhiều hình ảnh không trung thực nhưng tôi nghĩ trong cuộc sống thường có những vấn đề như thế, có những ý kiến ngược lại với những cái mà người Việt Nam đang làm. Cho nên chúng tôi phải tìm cách để có thể chứng minh cho những điều không đúng ấy bằng cách dựa vào những số liệu điều tra của mình để đưa ra những nhận xét chính xác hơn, những số liệu đó phải có cơ sở khoa học hơn.
Và cũng có thể nghĩ rằng phóng viên làm phim đó cũng là để "lobby" (vận động) người tiêu dùng châu Âu hạn chế sử dụng sản phẩm thủy sản Việt Nam. Do vậy chúng ta phải hết sức cởi mở thông tin để làm sao cho họ càng ngày càng hiểu hơn về cá tra nói riêng và thủy sản Việt Nam nói chung.
Các bạn thấy phim đó giống như chỉ có một chiều thôi. Điều tra viên WWF nhìn nhận vấn đề một chiều và cái cách mà họ làm phim đó tôi cho là không chuyên nghiệp vì họ không nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện và chính xác.
Nhưng rồi họ cũng đã từng thông báo rằng WWF loại cá tra ra khỏi danh sách tiêu dùng ở châu Âu dù sau đó đã rút lại ý kiến này?
- Vấn đề là do cách điều hành của WWF. Trước đây tôi cũng có tham gia với WWF của Mỹ và WWF Việt Nam, tổ chức một chương trình đối thoại về cá tra ở Việt Nam. Chúng tôi đã có khoảng ba năm để thảo luận về vấn đề nuôi cá tra. Tuy nhiên WWF của châu Âu thì lại có cách làm rất lạ và khác thường, không dựa vào cơ sở đó và đã đưa cá tra Việt Nam vào danh sách cấm tiêu dùng ở châu Âu. Đây là cách làm khác nhau giữa các nhóm WWF này với nhóm khác vì mục đích khác nhau.
Giáo sư thấy cá tra và tôm sú Việt Nam đang như thế nào ở thị trường châu Âu?
- Cá tra vào thị trường châu Âu đang ổn định trong 3 năm qua, khoảng 220.000 tấn/năm. Riêng Việt Nam thì thị trường đa dạng vì đang mở thêm nhiều thị trường mới. Người tiêu dùng châu Âu đang tiêu thụ mạnh sản phẩm cá tra Việt Nam so với cá tuyết truyền thống của họ. Với tôm thì Việt Nam vẫn giữ nghề nuôi tôm sú xuất khẩu là chính trong khi các nước đang chuyển qua nuôi tôm thẻ chân trắng cho nên áp lực về cạnh tranh giá đang xảy ra. Người khá giả mới ăn tôm sú vì giá khá cao. Tôi dự đoán khả năng thị trường châu Âu sẽ giảm tiêu thụ tôm sú mà tăng tiêu thụ cá tra.
Trở lại với SEAT, làm sao để đạt được mục tiêu hài hòa giữa hai thị trường Á - Âu trong thương mại thủy sản?
- Dự án có 14 thành viên thuộc các quốc gia châu Á và châu Âu. Chúng tôi đóng góp vào mục tiêu hài hòa này bằng hệ thống chứng nhận chất lượng sản phẩm. Hiện nay có nhiều hệ thống chứng nhận và mỗi nhóm có yêu cầu khác nhau. Chúng tôi sẽ cố gắng làm việc tối đa để làm sao hệ thống chứng nhận chất lượng sản phẩm của mình đạt được.
Qua kết quả nghiên cứu của dự án SEAT ở ĐBSCL, chúng tôi sẽ đề xuất được những điều chỉnh, những chỉ số hay những tiêu chí phù hợp với điều kiện sản xuất của Việt Nam, từ đó góp phần vào sự hài hòa thương mại Á – Âu trong nghề này.
(Người giúp phiên dịch cho cuộc phỏng vấn này là PGS.TS Nguyễn Thanh Phương, Trưởng khoa Thủy sản ĐH Cần Thơ).
Huỳnh Kim
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.