Nguồn tin: Sài Gòn Tiếp Thị, 30/05/2011
Ngày cập nhật:
1/6/2011
Kể từ năm 2008 tới nay, thuỷ sản Hùng Vương mỗi năm mua thêm một doanh nghiệp. Thương vụ mới nhất: Hùng Vương mua 2,8 triệu cổ phiếu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm thuỷ sản Bến Tre (FBT), một doanh nghiệp lỗ 218 tỉ đồng vào giữa năm 2010.
Lỗ nhưng vẫn hấp dẫn
Khi Hùng Vương (HVG) mua Agifish An Giang (AGF), năm 2010, giới phân tích cho rằng, thương vụ này giúp cho cá tra của Hùng Vương vốn tiêu thụ mạnh ở Đông Âu có thể vào thị trường Tây Âu và Mỹ, thị trường xuất khẩu chính của Agifish An Giang. Báo cáo tài chính của AGF vào thời điểm HVG mua cho thấy, doanh nghiệp thuỷ sản thuộc loại lớn ở An Giang vẫn có lãi.
Theo ông Nguyễn Văn Ký, tổng giám đốc của Agifish An Giang, sau khi Hùng Vương nắm cổ phần chi phối, số lượng lao động tuy giảm còn 3.300 người (từ mức 3.500), nhưng nhân sự quản lý vẫn giữ nguyên.
Từ chỗ lợi nhuận chỉ có 12 tỉ đồng năm 2009, chia cổ tức 10%, một năm sau lãi trước thuế của Agifish An Giang tăng lên 80 tỉ, trả cổ tức cho cổ đông 30% và lương trung bình tăng từ 2,1 triệu đồng lên 2,9 triệu đồng.
Còn FBT, báo cáo cuối quý 4/2010 cho thấy, lỗ luỹ kế cả năm 2010 là 46,87 tỉ đồng, hơn gấp đôi so với mức lỗ 20,13 tỉ đồng của năm 2009.
Lý giải việc Hùng Vương chấp nhận mức giá 12.000 đồng cho mỗi cổ phiếu, gấp đôi giá thị trường của FBT, ông Dương Ngọc Minh, chủ tịch hội đồng quản trị công ty thuỷ sản Hùng Vương cho biết: “Hùng Vương nhìn vào FBT là nhìn vào tiềm năng”. Bỏ ra 33,6 tỉ đồng vào thời điểm các nhà đầu tư trong và nước ngoài bán tháo, ông Minh lại cho rằng, đây là một mức giá hợp lý để sở hữu một công ty có 800 ha mặt nước nuôi trồng, tương đương khoảng hơn 1.000 ha đất. Ông Minh tính toán rằng, tiền đầu tư, cải tạo trung bình mỗi hecta mất khoảng 380 triệu đồng, chưa kể thời gian mất hơn một năm mới có thể sản xuất. Ông Minh cho biết thêm: “Rất khó để một công ty cổ phần như Hùng Vương đi kiếm vùng nuôi cỡ 20 ha vào thời điểm hiện nay”.
Trong mắt người hoạch định chiến lược của Hùng Vương, tiềm năng ở FBT không chia ở thì tương lai quá xa. Ông Minh nói gần như không phải suy nghĩ về số liệu vùng nguyên liệu của FBT. Ông nói: “Trong giai đoạn đầu, chúng tôi dự kiến khai thác ngay 100 ha nuôi cá và 500 ha nuôi tôm”. Theo ông Minh, hiệu quả nuôi cá phải chờ sáu tháng, còn nuôi tôm sau ba tháng là có thể chứng minh hiệu quả.
Đem câu chuyện người dùng ở Nhật Bản, ở Mỹ phải thắt lưng buộc bụng như một phản biện về dòng tiền trong tương lai ở dự án FBT, ông Minh tỏ ra tự tin khi chứng minh lợi thế của FBT. Ông nói: “Lợi thế của FBT là khép kín quy trình nuôi từ sản xuất con giống, nuôi, chăm sóc đến chế biến”. Trong bảy công ty con và liên kết của Hùng Vương, có hai công ty chế biến thức ăn chăn nuôi, nên ông Minh tin tưởng, việc chứng minh nguồn gốc và bảo đảm dư lượng kháng sinh đến chất lượng nuôi tôm đủ để thuyết phục khách hàng ở các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật.
Từ quản trị và từ con người
Ông Minh cho rằng, một trong những nguyên nhân khiến FBT không phát huy được tiềm năng và lợi thế là do cơ cấu sở hữu vốn. Trước khi thoái vốn, tổng công ty SCIC nắm giữ 5 triệu trong tổng số 15 triệu cổ phiếu của FBT. “Năm 2009 chúng tôi từng đề nghị mua lại cổ phần của SCIC, lúc đó, thị giá là 22.000 đồng cho mỗi cổ phiếu”, ông Minh kể. Sai lầm chiến lược của FBT, theo ông Minh, là mất cân đối giữa đầu tư vùng nguyên liệu và chế biến, nên lúc thu hoạch, khả năng chế biến được 80 tấn cá mỗi ngày, mà thu hoạch gần 200 tấn, nên phải bán ra ngoài với giá không được cao.
Một nguyên nhân khác, theo ông Minh, là khả năng quản trị. Sở hữu 30% ở FBT, SCIC đương nhiên có một đại diện ở hội đồng quản trị. Cơ chế trách nhiệm khiến cho ban lãnh đạo khó đạt được đồng thuận khi doanh nghiệp đứng trước quyết định mang tính bước ngoặt. “Ước tính vốn đầu tư đủ để FBT hoạt động lúc này cần 200 tỉ đồng. Ai dám chịu trách nhiệm đề xuất vay ngân hàng khi doanh nghiệp thua lỗ mấy năm liên tiếp?”, ông Minh đặt vấn đề.
Quan ngại về đại diện vốn sở hữu nhà nước ở công ty cổ phần không chỉ có ông Minh mà còn có nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Mua lại 5 triệu cổ phiếu từ SCIC, ngoài Hùng Vương, còn có công ty Việt Phú (Tiền Giang) mua 2,2 triệu cổ phiếu. Người đại diện phần vốn Việt Phú ở FBT lại là ông Nguyễn Văn Ký, tổng giám đốc của Agifish An Giang hiện nay.
Khép kín chuỗi giá trị
Ông Minh hy vọng, khi nắm cổ phần chi phối ở FBT, doanh số của các công ty thuộc Hùng Vương sẽ đạt 10.000 tỉ mỗi năm. “Quan trọng là tạo sự ổn định cho cả nhóm với mô hình khép kín chuỗi giá trị”. Năm 2008, Hùng Vương đã mua lại nhà máy thức ăn chăn nuôi Việt Thắng với thị giá tương đương mức PE là 1,5 lần. Trước khi mua Việt Thắng, năm 2007 Hùng Vương đầu tư 150 tỉ đồng cho nhà máy chế biến thức ăn Tây Nam. “Mất ba năm rưỡi để Tây Nam đạt công suất 20.000 tấn mỗi tháng vào tháng 6 năm nay”, ông Minh nói. Trong khi khoản đầu tư vào Việt Thắng là 126 tỉ đồng, công suất 30.000 tấn mỗi tháng, lại đang hoạt động.
Sau thương vụ Việt Thắng, năm 2009, Hùng Vương chào mua công khai Agifish An Giang để nâng tỷ lệ sở hữu trên 52%, tương đương 6 triệu cổ phiếu. Tổng mức đầu tư khoảng 200 tỉ đồng, theo ông Minh, bù lại Hùng Vương có trong tay ba nhà máy và 3.500 công nhân có tay nghề. “Nếu đầu tư từ đầu, cũng mất hai năm, chưa tính tới chi phí xây dựng thương hiệu, mạng lưới thị trường”, ông Minh tính toán.
Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp thuộc Hùng Vương chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang các thị trường Mỹ, Tây Âu và Nga. Ông Minh hy vọng, sau khi chứng minh được hiệu quả của cổ đông Hùng Vương ở FBT, doanh nghiệp của ông có thể chào mua công khai để chiếm cổ phần chi phối ở FBT vào năm 2012. “Có thêm FBT, tôi nghĩ, Hùng Vương có thể chủ động 100% nguồn nguyên liệu và Agifish An Giang có thể chủ động được 90% nguồn nguyên liệu thay cho mức 30% như hiện nay”, ông Minh nói.
HOÀNG BẢY
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.