Nguồn tin: Báo Hậu Giang, 02/06/2011
Ngày cập nhật:
4/6/2011
Từ khi gia nhập WTO, con cá tra Việt Nam ngày càng khẳng định “chỗ đứng” trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, con cá tra cũng phải đối mặt với các thách thức, rào cản kỹ thuật về vệ sinh an toàn thực phẩm từ các thị trường luôn có xu hướng đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn. Con cá tra sẽ phải làm gì để vượt qua các rào cản ngày một nhiều từ các thị trường để giảm thiểu rủi ro, thiệt hại, đồng thời bảo đảm nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất ổn định và phát triển bền vững.
* Chủ động xây dựng vùng nguyên liệu
Nguồn nguyên liệu cá tra ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thời gian qua vẫn trong tình trạng bấp bênh, không ổn định, người nuôi cá khi thì buộc phải “treo ao” do làm ăn thua lỗ, lúc lại “neo cá” trong ao để đòi tăng giá khi thấy nguồn cá khan hiếm. Tình trạng thiếu nguyên liệu cá tra hiện nay đang thật sự là bài toán khó cho hầu hết các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu ở ĐBSCL. Các doanh nghiệp phải “cắn răng” liên tục nâng giá mua để bảo đảm có nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Con số thống kê chưa đầy đủ, hiện nay, có đến gần 40% diện tích nuôi cá tra ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long “treo ao” do thời gian dài người nuôi bị thua lỗ. Tình trạng thiếu nguyên liệu cá khiến cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản không ít lần lâm cảnh khó khăn, buộc phải giảm công suất chế biến, giảm công nhân, hoạt động cầm chừng. Ước tính khoảng 50% nhà máy chế biến phải đóng cửa, số còn lại thì hoạt động cầm chừng, cho công nhân nghỉ luân phiên.
Hình thức tự đầu tư vào việc xây dựng vùng nguyên liệu hay chọn hình thức tăng cường mối liên kết với người nuôi cá của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu được xem là những giải pháp phù hợp với xu thế và tình hình thực tại nhằm không chỉ bảo đảm nguyên liệu ổn định phục vụ sản xuất, đồng thời còn đảm bảo chất lượng sản phẩm thủy sản sạch. Đây cũng là cách để doanh nghiệp đáp ứng đòi hỏi của những tiêu chuẩn ngày càng khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm của các thị trường khó tính như: Mỹ, EU, Nhật. Điển hình, Công ty Cổ phần Hùng Vương (Tiền Giang) từ năm 2009 đã triển khai nuôi cá tra, đến nay diện tích nuôi cá khoảng 250 ha. Hiện nay, mỗi tháng Công ty Hùng Vương thu hoạch trên 10.000 tấn cá nguyên liệu. Nhờ đi tiên phong trong việc xây dựng mô hình nuôi cá hiện đại, Công ty Hùng Vương đã chủ động phần lớn nguồn nguyên liệu và mở rộng thị trường tiêu thụ. Bà Trần Thị Thu Nguyệt, Giám đốc Công ty Cổ phần Dabaco Tiền Giang, chuyên nuôi, chế biến cá tra xuất khẩu và chế biến bột cá, cho biết: Nhu cầu sản xuất của công ty khoảng 200 tấn nguyên liệu mỗi ngày. Công ty đã tập trung đầu tư khoảng 100 ha nuôi cá tra tại Đồng Phú (huyện Long Hồ, Vĩnh Long) và gần 20 ha tại Phú Đa (Chợ Lách, Bến Tre), nhằm đáp ứng khoảng 70% nhu cầu sản xuất của nhà máy.
Thời gian qua, một số doanh nghiệp chế biến thủy sản tại Đồng Tháp: Vĩnh Hoàn, Docimexco, Hoàng Long... cũng hợp đồng liên kết đầu tư nuôi cá tương tự. Nông dân đầu tư con giống, lo chi phí nuôi, phòng trị bệnh, còn công ty cung cấp thức ăn, đến lúc thu hoạch sẽ trả chi phí đầu tư cho người nuôi 5.000 đồng/kg cá nguyên liệu.
Nhận định về tình hình nguyên liệu năm 2011 sẽ khan hiếm nên Công ty Agifish đã có bước chuẩn bị trước về vùng nuôi và liên kết với người nuôi. Từ cuối năm 2010, bằng các chính sách hỗ trợ cũng như phương thức thanh toán linh hoạt, uy tín, chẳng hạn như thanh toán 100% sau khi nhận nguyên liệu đã tạo được sự yên tâm, tin tưởng đối với người nuôi cá. Với những bước đi phù hợp trong chính sách thu mua nguyên liệu, Agifish chủ động được nguồn nguyên liệu để phục vụ sản xuất trong năm 2011.
* Nuôi cá sạch, bước phát triển bền vững
Trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp, chủ nuôi cá tra ở ĐBSCL đã tích cực áp dụng các quy trình, biện pháp nuôi cá tra sạch. Công ty Cổ phần Hùng Vương (Tiền Giang) được xem là một trong những đơn vị đi tiên phong trong việc áp dụng nuôi cá tra theo tiêu chuẩn Global GAP. Ông Dương Ngọc Minh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Hùng Vương, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng, các doanh nghiệp cũng như người nuôi nên sản xuất theo quy trình GlobalGAP. Việc áp dụng Global GAP doanh nghiệp sẽ mang lại hiệu quả rất lớn. Trên thực tế, mô hình sản xuất cá tra theo quy trình Global GAP chi phí sản xuất chỉ tăng thêm 3%, trong khi giá trị tăng thêm đến 12%. Cái lợi lớn hơn là sản phẩm đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe của thị trường xuất khẩu nên doanh nghiệp có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu - bởi giấy chứng nhận Global GAP chính là “giấy thông hành”, là cam kết đảm bảo sự an toàn và chất lượng đối với sản phẩm.
Tại tỉnh An Giang, có nhiều doanh nghiệp triển khai thực hiện chuỗi liên kết sản xuất nhằm bảo đảm nguồn nguyên liệu cá tra sạch. Điển hình như Công ty Mazzetta, nhà nhập khẩu phân phối thủy sản đông lạnh hàng đầu của Mỹ, đã liên kết với đơn vị Proconco - nhà máy thức ăn chăn nuôi của Pháp tại Việt Nam, triển khai dự án nuôi cá tra sinh thái tại An Giang, với quy trình khép kín: Nguồn thức ăn, nông trại, chế biến đến người tiêu dùng. Công ty Binca Seafoods Việt Nam từ năm 2009 đến nay đã liên kết với Công ty Tuấn Anh (Ntaco) xây dựng vùng nuôi cá tra có diện tích rộng 35 ha, đạt tiêu chuẩn Global GAP và đầu tư số vốn trên 2 triệu USD cho các hộ dân trong tỉnh nuôi cá tra sinh thái, cung cấp sản lượng 1.200 tấn/năm.
Việc tự đầu tư vào vùng nuôi cá của doanh nghiệp chế biến thủy sản hay chọn hình thức liên kết chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp không chỉ đảm bảo nguồn nguyên liệu sạch, ổn định phục vụ chế biến sản xuất của doanh nghiệp, khắc phục được tình trạng khi thiếu, thừa nguyên liệu. Đồng thời còn là “lời giải” giúp cá tra Việt Nam vượt qua những rào cản kỹ thuật, tạo dựng tên tuổi, thương hiệu trên thị trường thế giới. Những bước đi tích cực này là xu thế tất yếu đảm bảo để con cá tra đất Chín Rồng ngày càng nâng cao giá trị kinh tế, phát triển bền vững.
ĐĂNG QUANG
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.