Nguồn tin: Hà Nội Mới, 06/07/2011
Ngày cập nhật:
7/7/2011
Trong 10 năm trở lại đây, diện tích nuôi cá tra của Việt Nam tăng 5 lần, đạt 6.000 ha, sản lượng hằng năm tăng 36 lần, khối lượng cá tra xuất khẩu tăng hơn 40 lần và doanh thu xuất khẩu tăng 35 lần.
Sáu tháng đầu năm 2011, Việt Nam xuất khẩu khoảng 300.000 tấn cá tra với giá trị ước đạt khoảng 800 triệu USD, tăng 4,7% về sản lượng và 24,7% về giá trị. Tuy nhiên, hiện xuất khẩu cá tra đang bị quá nhiều tiêu chuẩn khác nhau chèn ép. Với 23 chứng chỉ, các chứng chỉ không những không đồng bộ, mà còn gây khó dưới chiêu bài "không có là không bán được hàng".
Tiêu chuẩn "bủa vây" cá tra
Chế biến cá tra xuất khẩu tại Công ty Godaco (Tiền Giang). Ảnh: Phạm Hậu
Người nuôi cá tra hiện nay đang phải chịu áp lực với hàng chục loại chứng chỉ khác nhau, dù được nói là tự nguyện nhưng thực tế là buộc phải thực hiện. Bên cạnh những yêu cầu của các quốc gia nhập khẩu, một số hệ thống bán lẻ và nhà nhập khẩu còn có tiêu chuẩn, quy định riêng mà cơ sở nuôi trồng, doanh nghiệp (DN) xuất khẩu phải áp dụng và chỉ khi được cấp giấy chứng nhận thì mới nhập hàng. TS Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam (Vinafish) khẳng định, điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho người nuôi trồng. Bởi khi bắt đầu thả giống, người nuôi và nhà chế biến trong nhiều trường hợp chưa thể biết được sau thời gian dài nuôi trồng, khi thu hoạch sẽ bán cho nhà nhập khẩu, hệ thống bán lẻ nào. Do đó, họ sẽ khó để quyết định thực hiện theo tiêu chuẩn nào.
Theo một đại diện nhà nhập khẩu EU, những chồng chéo của các chứng chỉ đang "trói" DN xuất khẩu. Theo thống kê, hiện có ít nhất 23 chứng chỉ khác nhau (HACCP, SA8000, BAP, ACC, GlobalGAP, ASC...), nhưng những chứng chỉ này đều do các tổ chức, quốc gia khác nhau cấp và không phải quốc gia, thị trường nào cũng đồng ý một loại chứng chỉ chung. Các chứng nhận hầu hết xoay quanh 4 tiêu chí chính là an toàn thực phẩm, an toàn môi trường, an toàn dịch bệnh và an sinh xã hội. DN "kêu", nông dân sản xuất cũng không khá hơn. Quá nhiều hệ thống chứng nhận bủa vây con cá tra đã gây ra không ít khó khăn cho nông dân, nhất là đối với người nuôi nhỏ lẻ. Ngoài ra, theo nội dung bản ghi nhớ được ký kết giữa đại diện Quỹ quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF) với đại diện Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) và Vinafish thì lộ trình áp dụng chứng chỉ của Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản (ASC) của WWF vào vùng nuôi cá tra "để đáp lại việc cá tra đưa ra khỏi danh sách đỏ" được xác định, đến năm 2015, 100% cá tra xuất khẩu của Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế về phát triển cá tra bền vững, trong đó có 50% được chứng nhận ASC. Trong khi đó, mức giá áp dụng để được cấp "danh hiệu" ASC cho vùng nuôi 5 ha hiện nay vào khoảng 7.500 USD/năm (tương tự như áp dụng GlobalGAP). Như vậy, với 3.000 ha ao nuôi cá tra phải được cấp chứng nhận ASC vào năm 2015 thì số tiền mà nông dân phải gánh chịu, nộp cho WWF lên tới 22 triệu USD/năm.
VietGap, lối thoát cho cá tra?
Trước những bất cập nêu trên, tiêu chuẩn VietGAP (tiêu chuẩn thực hành sản xuất an toàn) đang được kỳ vọng là nền tảng để DN, người nuôi cá tra tiếp tục tham gia vào SQF 1000, GlobalGAP, ASC... Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Phạm Anh Tuấn cho biết, Việt Nam sẽ ban hành VietGAP cho cá tra, trong đó có đầy đủ những yêu cầu nuôi thủy sản bền vững của các bộ tiêu chuẩn quốc tế khác. Khi cá tra Việt Nam xuất sang thị trường nào, trên cơ sở đã có VietGAP, người nuôi sẽ chuyển sang các tiêu chuẩn khác dễ dàng hơn. Việc áp dụng tiêu chuẩn VietGAP cho cá tra sẽ được Nhà nước hỗ trợ và chứng nhận miễn phí, nên chi phí áp dụng các tiêu chuẩn nuôi bền vững tiếp theo để đáp ứng nhu cầu thị trường sẽ giảm một cách đáng kể. Sau khi đã có bộ tiêu chí này, nếu cơ sở nuôi thủy sản đã đạt được các chỉ tiêu quy định trong VietGAP của Việt Nam thì mặc nhiên được các hệ thống chứng nhận độc lập công nhận những chỉ tiêu tương đương. Theo đó, việc thu phí hướng dẫn và thu phí chứng nhận cũng giảm tương ứng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, để ngành cá tra phát triển bền vững, cần sự nỗ lực rất lớn ở mọi thành phần, từ người nuôi trồng đến nhà sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Các cơ quan quản lý nhà nước cần đưa ra những chính sách phù hợp, bảo đảm đạt được mục tiêu phát triển bền vững nhưng đồng thời giảm bớt khó khăn, phiền hà, chi phí tốn kém cho người nuôi trồng và DN chế biến.
Theo Phó Chủ tịch VASEP Nguyễn Hữu Dũng, hiện cả nước có khoảng 6.000 ha nuôi cá tra, phân bổ chủ yếu ở các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang nên việc áp dụng VietGAP cho các vùng nuôi cá tra không khó. Hiện, cả nước có 45 vùng nuôi cá tra với tổng diện tích trên 1.000 ha đạt chứng nhận GlobalGAP (chủ yếu là vùng nguyên liệu của DN chế biến xuất khẩu). Ngoài ra, còn 18 vùng và trại nuôi khác với diện tích hơn 237 ha đang tiến hành xây dựng tiêu chuẩn hoặc chờ được cấp chứng nhận GlobalGAP. Nhiều vùng nuôi của các DN còn đạt được các chứng nhận khác như SQF 1000 với diện tích 209,5 ha, AquaGAP với diện tích 88,796 ha, BAP với diện tích 102 ha, FOS với diện tích 60 ha... Một thuận lợi nữa là Chính phủ mới phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2010 - 2020 với một số chính sách về đầu tư vùng hạ tầng, khoa học công nghệ, tập huấn, hoặc thúc đẩy chứng nhận cho vùng nuôi và chế biến. Đồng thời cũng xúc tiến các bước xây dựng chương trình thí điểm về bảo hiểm nuôi trồng thủy sản nói chung và cá tra nói riêng.
Sơn Tùng - Chí Kiên
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.