Nguồn tin: Thương Mại Thuỷ Sản, 23/07/2011
Ngày cập nhật:
25/7/2011
Tại Hội nghị Toàn thể Hiệp hội VASEP năm 2011, ông Lê Văn Quang đã có bài phát biểu quan trọng đánh giá thực trạng ngành tôm Việt Nam, đề xuất những kiến nghị và giải pháp để phát triển bền vững ngành hàng quan trọng này.
Hơn một thập kỷ qua, ngành tôm Việt Nam đã tiến bộ vượt bậc, đưa Việt Nam vào hàng ngũ các nước XK tôm lớn nhất thế giới, đem về nguồn ngoại tệ ngày càng lớn cho đất nước. Cùng với sự phát triển của nghề nuôi tôm công nghiệp, hàng loạt nhà máy chế biến tôm XK đã ra đời. Công nghệ chế biến tôm Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thông qua sự gia tăng tỉ trọng của các sản phẩm chế biến GTGT.
Tuy nhiên, hiện nay, sự phát triển của ngành tôm Việt Nam đang đứng trước những thách thức rất lớn, tập trung trong những vấn đề sau đây.
Giá nguyên liệu đầu vào quá cao
Giá tôm nguyên liệu ở Việt Nam đang cao hơn so với các nước trong khu vực 1,0 – 1,5 USD/kg, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động chế biến XK và khả năng cạnh tranh của tôm Việt Nam trên thế giới.
Nhưng do sản xuất chưa ổn định và nghề nuôi còn kém bền vững, nên có nghịch lý là người nuôi tôm lại không thật sự được hưởng lợi từ mức giá cao này.
Có thể nêu một số nguyên nhân chính gây nên tình trạng này, gồm chất lượng tôm giống thấp; sản xuất nuôi tôm manh mún, kỹ thuật thấp; giá thức ăn cao và không được kiểm soát.
Chất lượng tôm giống thấp
Người nuôi tôm hiểu rất rõ, giống tốt là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả nuôi tôm. Vì thế, cải thiện chất lượng giống đã được xác định là một trong các mục tiêu quan trọng nhất trong định hướng phát triển thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay chưa có cơ sở nào ở Việt Nam được đầu tư đúng mức để nghiên cứu gia hóa, chọn lọc di truyền và sản xuất tôm bố mẹ chất lượng cao, sạch bệnh (SPF) phục vụ cho sản xuất. Việc kiểm soát NK tôm bố mẹ, đặc biệt là tôm chân trắng (TCT), chưa chặt chẽ nên rất nhiều tôm bố mẹ chất lượng thấp, giá rẻ, được đưa vào Việt Nam để sản xuất giống.
Thậm chí, một số trại còn sử dụng tôm từ ao nuôi thương phẩm để làm tôm bố mẹ, nhằm giảm giá thành mà không quan tâm đến sự nhiễm bệnh và sự sinh sản cận huyết của quần đàn tôm.
Kết quả là thị trường tôm giống trở nên hỗn loạn, một lượng tôm giống chất lượng kém, không sạch bệnh và đồng huyết được tung ra thị trường với giá rất rẻ so với tôm sản xuất từ nguồn tôm bố mẹ SPF, chất lượng cao nhập từ các công ty chuyên sản xuất tôm bố mẹ nổi tiếng của thế giới. Chính nguồn tôm giống chất lượng kém này là nguyên nhân dẫn đến bất ổn cho nghề nuôi tôm Việt Nam, tôm nuôi chậm lớn, dịch bệnh lan tràn.
Bên cạnh đó, cơ quan chuyên ngành tỏ ra lúng túng trong phương thức quản lý chất lượng con giống, chỗ thì buông lỏng, chỗ thì chồng chéo nhau, qui định không thống nhất, mỗi tỉnh làm một kiểu. Do đó hiệu quả quản lý rất kém, nhiều kẽ hở, không quản lý được các trại gống kém chất lượng, gây khó khăn cho các công ty, trại giống làm ăn chân chính.
Ngoài ra, hệ thống các phòng xét nghiệm bệnh tôm chưa được chuẩn hóa, kết quả xét nghiệm không chính xác dễ gây hoang mang cho người nuôi và người sản xuất giống. Điều này cũng góp phần làm gia tăng chi phí xét nghiệm và đôi khi gây thiệt hại lớn cho các nhà sản xuất giống.
Nuôi tôm manh mún, kỹ thuật nuôi thấp
Nghề nuôi tôm thực chất là một nghề nông nghiệp kỹ thuật cao, hay chính xác hơn là một hoạt động công nghiệp, đòi hỏi mức đầu tư tương đối lớn và trình độ quản lý kỹ thuật, tài chính cao hơn so với các ngành nông nghiệp khác. Trong khi đó, hoạt động nuôi tôm của Việt Nam lại rất manh mún, làm ăn nhỏ lẻ với hàng triệu hộ gia đình nuôi, mỗi hộ một vài ao. Do vậy sẽ khó có điều kiện áp dụng kỹ thuật cao để có kết quả ổn định và bền vững. Việc sản xuất nhỏ lẻ làm cho giá thành sản xuất cao, nên mặc dù giá bán tôm nguyên liệu cao, người nuôi vẫn chỉ có lợi nhuận rất thấp và nhiều rủi ro.
Qui hoạch nuôi tôm không bài bản và chưa được đầu tư đúng mức (ví dụ, thiếu đầu tư cho thủy lợi). Do vậy, việc quản lý vùng nuôi và kiểm soát chất thải gây ô nhiễm và dịch bệnh gần như không thể thực hiện được.
Đồng thời, tôm nguyên liệu gom từ nguồn manh mún như vậy sẽ có chất lượng không đồng nhất, rất khó kiểm soát dư lượng hóa chất, kháng sinh bị cấm và không thể truy xuất được nguồn gốc. Nguồn nguyên liệu như vậy rất khó sử dụng để chế biến hàng XK cao cấp nên hiệu quả chế biến XK không cao, làm cho các nhà chế biến XK khó đạt hiệu quả tốt.
Giá thức ăn tôm luôn tăng, không được kiểm soát
Đây là yếu tố rất quan trọng làm tăng giá thành tôm nuôi của Việt Nam. Giá thức ăn nuôi tôm ở Việt Nam cao hơn hầu hết các nước trong khu vực và lĩnh vực này gần như hoàn toàn nằm trong tay các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Giá thức ăn liên tục tăng mà chưa thấy có biện pháp quản lý nào hiệu quả để bảo vệ người nuôi tôm.
Cạnh tranh không lành mạnh trong thu mua, chế biến, XK
Do khó khăn trong khâu nguyên liệu, các nhà máy phải cạnh tranh khốc liệt, đồng thời phải không ngừng cải tiến kỹ thuật chế biến hiệu quả hơn để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, không phải ai cũng làm được như vậy. Một số nhà máy có hành vi cạnh tranh không lành mạnh, như bơm chích tạp chất. Nhiều nhà máy có qui mô quá nhỏ, không có điều kiện đầu tư công nghệ mới nên phải sản xuất hàng kém chất lượng để với giá rẻ, làm mất uy tín bán tôm Việt Nam trên thị trường thế giới...
Đề xuất giải pháp
Mặc dù có nhiều thách thức như đã nêu, chúng ta cũng vẫn có rất nhiều lợi thế và cơ hội để phát triển nếu có định hướng và đầu tư đúng đắn. Tôi đề xuất một số giải pháp sau đây.
Thứ nhất, cần có chiến lược phát triển lâu dài để chủ động nguồn tôm bố mẹ và nâng cao hiệu quả của nghề nuôi tôm Việt Nam. Cụ thể là:
• Khuyến khích phát triển và đẩy nhanh các chương trình gia hóa và chọn lọc di truyền cho cả 2 đối tượng tôm nuôi chủ lực là tôm sú và TCT.
• Giảm số lượng, nâng cao công suất trại giống, vì chỉ những trại lớn mới đủ sức đầu tư nâng cấp kỹ thuật để sản xuất ra con giống chất lượng cao, sạch bệnh, đồng thời việc quản lý chất lượng giống đơn giản và hiệu quả hơn.
• Chuẩn hóa các thủ tục hành chính trong quản lý, bảo đảm chặt nhưng không cản trở việc sản xuất của các công ty giống.
• Chuẩn hóa hệ thống phòng xét nghiệm bệnh tôm để tránh gây những tổn thất không cần thiết cho người nuôi và người sản xuất giống.
Thứ hai, cần hoàn thiện qui hoạch phát triển nuôi tôm công nghiệp. Thái Lan có diện tích nuôi nhỏ hơn Việt Nam nhưng sản lượng nuôi lớn hơn nhiều và nghề nuôi bền vững hơn nhờ qui hoạch tốt và đầu tư bài bản. Do vậy, Nhà nước cần hoàn thiện qui hoạch, đầu tư xây dựng những vùng nuôi lớn để người nuôi tôm đấu thầu thuê đất. Thúc đẩy quá trình tích tụ đất để xây dựng những trang trại lớn thông qua hình thức hợp tác xã, hiệp hội hay các công ty cổ phần, v.v...
Thứ ba, xây dựng qui trình nuôi chuẩn. Nhà nước đầu tư hình thành những trại thực nghiệm, cùng các viện, trường và các công ty nuôi tôm lớn xây dựng qui trình nuôi chuẩn, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế như GAP, BAP, CoC, v.v... Khuyến khích các DN lớn đầu tư nghiên cứu xây dựng qui trình nuôi năng suất cao và bền vững để khuyến cáo cho người nuôi. Có thể lấy ví dụ từ Công ty CP của Thái Lan, đã đầu tư rất nhiều cho nghiên cứu nuôi tôm với sự hỗ trợ của nhà nước.
Thứ tư, về thức ăn nuôi tôm, hiện nay ở Việt nam có rất ít DN sản xuất có công suất lớn, sản phẩm đạt chất lượng cao. Trong các công ty nước ngoài, chỉ có vài ba đơn vị có năng lực sản xuất lớn, sản phẩm đạt tiêu chuẩn, còn lại là những công ty nhỏ, năng lực thấp, chủ yếu NK sản phẩm để phân phối. Các đơn vị lớn có thể liên kết để khống chế thị trường, cùng nhau tăng giá, trục lợi, gây thiệt hại lớn cho người nuôi.
Vì vậy, cần có chính sách khuyến khích đầu tư trong nước để xây dựng nhà máy thức ăn công suất lớn, đủ tiêu chuẩn và làm đối trọng được với các công ty nước ngoài, chống độc quyền, liên kết để làm giá. Đồng thời, cần ban hành qui chuẩn thức ăn nuôi tôm, theo đó chỉ những DN đạt tiêu chuẩn về nhân lực, vốn, công nghệ mới được sản xuất thức ăn nuôi tôm, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, manh mún, nhỏ lẻ, sản xuất thức ăn không đúng tiêu chuẩn và cực kỳ khó kiểm soát gây thiệt hại và làm nản lòng các nhà đầu tư tâm huyết, ảnh hưởng xấu tới phát triển ngành nuôi tôm bền vững. Người nuôi cũng có nguồn thức ăn đảm bảo tiêu chuẩn, hiệu quả cao.
Và cuối cùng, các DN chế biến tôm XK cần tích lũy vốn để phát triển công nghệ, nhằm gia tăng tỉ lệ sản phẩm GTGT, hạn chế XK sản phẩm thô và bán thành phẩm. Cần quy định chỉ DN có đủ vốn, dây chuyền công nghệ, có cơ cấu sản phẩm XK đạt tối thiểu 50% hàng GTGT mới được hoạt động. Do đặc thù ngành tôm mang tính mùa vụ rất cao nên cần tạo cơ chế thông thoáng cho việc NK nguyên liệu để chế biến, sản xuất hàng GTGT tái XK, tạo công ăn việc làm thường xuyên, ổn định cho người lao động.
Đây là những giải pháp thiết thực và cấp bách, rất mong cộng đồng DN, các nhà sản xuất và các cơ quan quản lý hữu quan tích cực xem xét thực hiện để ngành tôm Việt Nam phát triển bền vững, đạt được mục tiêu phát triển của ngành thủy sản tới năm 2020 như đã đề ra.
Lê Văn Quang
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.