Nguồn tin: Thương mại thủy sản, 10/2011
Ngày cập nhật:
23/10/2011
An Giang có khoảng 40% sản phẩm cá tra xuất khẩu được chứng nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế SQ F 1000CM , GlobalGAP ,…có trung tâm sản xuất giống thủy sản đầu tiên của ĐBSCL áp dụng tiêu chuẩn GlobalGAP.
Tập trung đầu tư áp dụng KHCN vào sản xuất cá tra đã tạo ra những thành tựu của An Giang trong nhiều năm qua, nhưng cũng còn rất nhiều vấn đề mới nẩy sinh trong quá trình phát triển.
“Cái nôi” của nghề nuôi, chế biến và XK cá ba sa, cá tra
Từ hoạt động khai thác
Với lợi thế về vị trí địa lý, trên đoạn gần cuối của dòng sông Mê kông, khi dòng chảy đã trở nên tĩnh lặng hơn so với phía thượng lưu và ít bị ô nhiễm hơn phía cuối nguồn và là tỉnh đầu nguồn của sông Cửu Long, từ nhiều năm qua, An Giang là địa phương đầu tiên được tận hưởng nguồn cá thiên nhiên hết sức phong phú về sản lượng cũng như thành phần loài, đặc biệt là cá tra, basa.
Người nuôi cá ở An Giang vớt cá tra bột từ Biển Hồ (Campuchia) theo dòng sông Mê kông chảy về, sau đó thuần dưỡng đến khi cá phát triển khoảng 1 – 3cm (cá tra giống) thì đem nuôi thương phẩm. Cũng nhờ những hoạt động của nghề nuôi cá tra, đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, đem lại cuộc sống sung túc cho người dân địa phương và tạo điều kiện cho ngành thủy sản An Giang ngày càng phát triển.
Đến nghề nuôi
Nghề nuôi thủy sản ở An Giang rất phổ biến với nhiều mô hình như: nuôi ao đất, lồng bè, đăng quầng,… đặc biệt là mô hình nuôi cá bè – nghề truyền thống của người dân An Giang, trong đó cá tra và basa là hai loài cá nuôi chủ lực, khi nhắc đến An Giang người ta liên tưởng ngay đến “Làng bè Châu Đốc”.
Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh về khai thác tự nhiên, sản xuất và chế biến cá tra An Giang nói riêng, cũng như ĐBSCL nói chung đang đối mặt với thực tế ngày càng khó khăn và có khả năng đi đến sa sút trầm trọng, nếu không kịp thời có biện pháp chấn chỉnh hợp lý.
Từ sự phát triển tự phát của nghề nuôi cá tra...
Tác động đến môi trường
Nghề nuôi cá tra đem lại hiệu quả kinh tế khá cao nên diện tích nuôi cá tra đã gia tăng rất nhanh. Nếu đầu năm 2004 diện tích nuôi cá tra/basa toàn tỉnh An Giang chỉ khoảng 100 ha, đến năm 2006 diện tích này tăng lên khoảng 700 ha và đến nay đã lên đến 1.100 ha.
Phát triển tự phát, ồ ạt nhưng việc bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức, hầu hết các hộ nuôi không có ao lắng, ao lọc xử lý nước thải trước khi xả ra môi trường. Chính sự không quan tâm đến “nỗi khổ quá tải” của môi trường đã làm cho chất lượng môi trường ao nuôi cũng như môi trường sinh thái bên ngoài suy giảm, dịch bệnh bùng phát, năng suất cá nuôi giảm mạnh.
Thiếu quy hoạch đồng bộ
Nhiều năm gần đây, việc sản xuất, chế biến cá tra đã gặp không ít khó khăn do biến động về giá cả và thị trường thế giới. Bên cạnh đó, một phần nguyên nhân xuất phát từ việc nuôi tự phát, thiếu sự quy hoạch đồng bộ. Do nghĩ sản xuất cá tra là ngành siêu lợi nhuận nên nhiều hộ dân chỉ tập trung vào lợi trước mắt, “phớt lờ” khuyến cáo của ngành thủy sản. Nhiều DN chế biến mới tiếp tục ra đời, cạnh tranh không lành mạnh tăng, giá cá nguyên liệu “nhảy múa”, khi thì cung vượt cầu, lúc thì cầu vượt cung, “mạnh ai nấy làm”, khiến cho khi thì nhà máy chế biến hoạt động cầm chừng, lúc thì người nuôi treo ao vì thua lỗ.
Cạnh tranh không lành mạnh trong sản xuất giống.
Bên cạnh sức ép cạnh tranh về thị trường, vì mục đích lợi nhuận, nhiều cơ sở sản xuất giống cá tra sử dụng đàn cá bố mẹ không rõ nguồn gốc, bắt cá đẻ ép, đẻ nhiều lần trong năm, không áp dụng khoa học kỹ thuật và quy trình sản xuất chặt chẽ, nên đã tạo ra đàn cá giốngkém chất lượng, làm giảm tỷ lệ sống của cá nuôi thương phẩm, ảnh hưởng đến chất lượng thịt cá phi lê, uy tín của thủy sản An Giang nói riêng và thủy sản Việt Nam nói chung.
...Đến những chuyển động tích cực theo hướng bền vững
Sự quan tâm của lãnh đạo địa phương
Trong những năm qua ngành thủy sản của tỉnh đã gặp nhiều biến động về thị trường, mất cân đối cung cầu, giá cả bất thường, thiếu vốn kinh doanh, nguồn nguyên liệu cho sản xuất không ổn định… nhưng nhìn chung tình hình nuôi cá tra nói riêng và nuôi trồng thủy sản An Giang vẫn tiếp tục tăng cả về diện tích và sản lượng.
Điều này cho thấy hiệu quả tích cực từ sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, Sở ban ngành liên quan và các địa phương, sự đúng đắn của mục tiêu ban đầu là chọn thủy sản làm ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Việc tập trung đầu tư cho công tác tổ chức lại sản xuất, nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm soát dịch bệnh và sản xuất giống bước đầu đã có những cải thiện đáng kể.
Đầu tư nghiên cứu sản xuất giống
Trung tâm Sản xuất Giống Thủy sản An Giang – đơn vị sản xuất giống đầu tiên của ĐBSCL áp dụng tiêu chuẩn GlobalG.A.P vào quy trình sản xuất, kết hợp với Chi cục Thủy sản An Giang thực hiện dự án “Xã hội hóa sản xuất giống cá tra tỉnh An Giang giai đoạn 2011 - 2015” nhằm bổ sung đàn cá tra bố mẹ chất lượng, khả năng sinh sản cao, tạo ra đàn cá giống đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, có khả năng tăng trưởng tốt, cung cấp cấp đủ giống cho tỉnh và các địa phương lân cận.
Đến nay, Trung tâm có năng lực cung cấp trên 600 triệu cá tra bột/năm và 20 triệu cá tra giống đạt chất lượng theo tiêu chuẩn châu Âu. Đây là thành tựu đáng kích lệ của trung tâm giống tỉnh An Giang nói riêng đồng thời cũng bổ sung đàn cá giống chất lượng cao cho ĐBSCL nói chung.
Phát triển bền vững thông qua áp dụng các tiêu chuẩn
Hiện nay, An Giang có 4 trong 7 DN chế biến thủy sản có vùng nuôi được chứng nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế SQF1000CM, GlobalG.A.P diện tích 196 ha và sản lượng 115.000 tấn/năm. Việc áp dụng tiêu chuẩn an toàn và chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế giúp các DN XK yên tâm hơn trong quá trình sản xuất nguyên liệu, giảm thiệt hại, đồng thời nâng cao uy tín sản phẩm cá tra An Giang trên trường quốc tế. Kết quả đến nay có gần 40% sản phẩm cá tra XK của tỉnh được chứng nhận đạt tiêu chuẩn an toàn và chất lượng, đồng thời giảm rủi ro, bảo đảm lợi nhuận cho người nuôi và DN.
Nâng cao ý thức của người nuôi
Sự quan tâm và ý thức của người nuôi đã tác động tích cực đến chất lượng con giống, thức ăn, phòng ngừa dịch bệnh và bảo vệ môi trường. Hạn chế sử dụng hóa chất, kháng sinh trong quá trình sản xuất, từ đó tạo được nguồn nguyên liệu sạch có chất lượng cho XK, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường thế giới. Các chính sách bảo vệ môi trường trong NTTS thông qua “Chương trình giám sát môi trường định kỳ”, công tác tập huấn tuyên truyền “Xây dựng vùng nuôi cá sạch” hay “Xác nhận đăng ký hoạt động NTTS”…do Sở NN & PTNT tỉnh phát động, triển khai được người nuôi đồng tình cùng nhau thực hiện.
Liên kết chặt chẽ giữa các thành phần trong chuỗi sản xuất
Đi đôi với mục tiêu phát triển thủy sản bền vững, chia sẻ rủi ro và hài hòa lợi ích các bên tham gia chuỗi cung ứng cá tra cũng được tỉnh triển khai. 3 DN được thực hiện thí điểm mô hình liên kết chuỗi là Công ty CP XNK Thủy sản An Giang (AGIFISH), Công ty TNHH Việt An (ANVIFISH) và Công ty Thuận An (TAFISHCO). Trong đó TAFISHCO đã chính thứcthành lập và vận hành Chuỗi Sản xuất Thủy sản theo chiều dọc – ký kết hợp đồng sản xuất, cung cấp nguyên liệu cá sạch phục vụ chế biến thủy sản.
Ngoài các DN được chọn làm thí điểm, có một số DN tự thực hiện chuỗi liên kết như Công ty Mazzetta – nhà nhập khẩu phân phối thủy sản đông lạnh hàng đầu của Mỹ, đã liên kết với công ty Proconco – nhà máy thức ăn chăn nuôi của Pháp đạt tiêu chuẩn GlobalGAP, triển khai dự án nuôi cá tra an toàn sinh học tại An Giang, qua quy trình khép kín với mục tiêu “Sạch từ con giống đến bàn ăn”. Công ty Binca Seafoods Việt Nam đã liên kết với NTACO xây dựng vùng nuôi cá tra sinh thái rộng 30 ha, đạt chuẩn Global GAP cung cấp sản lượng 9.000 tấn/năm…
Tỉnh ủy, UBND tỉnh, các Sở Ban Ngành và địa phương vẫn tiếp tục quan tâm thực hiện chương trình phát triển thủy sản, tập trung đầu tư cho công tác tổ chức sản xuất, nghiên cứu ứng dụng KHCN, sản xuất - cung cấp con giống chất lượng, khuyến ngư, dạy nghề. Sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ theo hướng an toàn chất lượng, phòng trị bệnh, quản lý môi trường nuôi, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thủy sản, áp dụng một số chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư hợp lý,…nhằm tác động tích cực đến sự phát triển sản xuất cá tra của tỉnh nói riêng và ĐBSCL nói chung.
Bên cạnh đó, ý thức của người nuôi trong việc bảo vệ môi trường, chất lượng nước nuôi ngày càng nâng cao, người nuôi đã biết tự điều chỉnh mô hình sản xuất của mình theo xu hướng phát triển ổn định và bền vững, ngang tầm với ngành thủy sản toàn cầu về mục tiêu sản phẩm chất lượng và giá trị kinh tế.
Trương Ngô Bích Ngọc
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.