Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 12/02/2012
Ngày cập nhật:
14/2/2012
Chủ động nguồn nguyên liệu cá tra cho chế biến, xuất khẩu, nhằm kiểm soát chặt chẽ chất lượng sản phẩm sẽ góp phần xây dựng hình ảnh cho doanh nghiệp (DN) trên thương trường đang được nhiều DN thủy sản ở TP Cần Thơ chú trọng. Do vậy, việc đầu tư, xây dựng vùng nuôi cá tra khép kín được DN rất quan tâm.
MỞ RỘNG VÙNG NGUYÊN LIỆU
Xây dựng vùng nguyên liệu giúp DN quản lý chất lượng đầu vào, nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh cho sản phẩm.
Theo Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ, đến cuối tháng 1-2012, diện tích nuôi cá tra thâm canh trên địa bàn thành phố là 502 ha, tăng gấp 7 lần so với cùng kỳ 2011. Trong đó, diện tích vùng nguyên liệu cá tra của các công ty trên địa bàn TP Cần Thơ là 136,21 ha. Không chỉ phát triển vùng nuôi tại TP Cần Thơ mà các DN còn mở rộng sang một số tỉnh lân cận như Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp... Trong số các công ty chú trọng đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu tập trung có thể kể đến Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản Cần Thơ (Caseamex), Công ty Cổ phần Thủy sản Mekong (Mekongfish), Công ty TNHH Thủy sản Biển Đông, Công ty TNHH Công nghiệp Thủy sản Miền Nam (South Vina), Công ty Cổ phần chế biến thực phẩm Sông Hậu (Sohafood), Công ty Cổ phần Thủy sản Bình An... Vùng nuôi của các DN này từng bước được mở rộng, các tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy phạm thực hành nuôi thủy sản tốt được áp dụng cho vùng nuôi như: BMP, SQF1000, Global GAP, nuôi sinh thái, nuôi thân thiện môi trường...
Trong xu thế phát triển, vấn đề tập trung quản lý chất lượng nguyên liệu từ gốc là điều mà các DN thủy sản chú trọng để tồn tại lâu dài và đạt giá trị gia tăng cao. Theo ông Trần Văn Quang, Tổng Giám đốc Công ty South Vina, để chủ động kiểm soát tốt chất lượng sản phẩm từ khâu nguyên liệu, công ty đã đầu tư vùng nuôi nguyên liệu hơn 100 ha mặt nước theo tiêu chuẩn SQF 1000 và Global GAP. Với dây chuyền công nghệ sản xuất được nhập từ các nước Nhật, Đức, Anh,... cùng hệ thống kiểm soát chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP, phòng thí nghiệm theo tiêu chuẩn ISO/IEC 17025:2005 và áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 22000:2005, SA 8000, South Vina đã khẳng định được chất lượng, thương hiệu và chiếm được nhiều cảm tình của khách hàng trên thế giới. Hiện nay, South Vina đang tạo việc làm cho trên 1.500 lao động, do vậy công ty luôn chú trọng việc quản lý chất lượng từ gốc để giữ vững thị trường chính; đồng thời tiếp tục mở rộng thị trường mới, đảm bảo đời sống cho công nhân.
Theo bà Lê Ngọc Diện, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ, sau việc sản phẩm cá tra của Việt Nam bị kiện bán phá giá (năm 2001 - 2002), các đối tượng tham gia chuỗi giá trị của ngành hàng này đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề quản lý chất lượng nguyên liệu đầu vào cho chế biến. Từ năm 2003, ngành chức năng của TP Cần Thơ đã tuyên truyền, hướng dẫn người dân, DN áp dụng nuôi cá tra theo tiêu chuẩn SQF 1000. Tuy nhiên, các hộ cá thể mặc dù áp dụng nhưng không có khả năng đăng ký chứng nhận vì chi phí khá cao (6.000 - 12.000 USD cho mỗi lần đánh giá và cấp chứng nhận), chỉ có một số ít DN thực hiện và có đăng ký chứng nhận. Giai đoạn 2005 - 2006, ở Cần Thơ có 70 ha vùng nuôi đạt một số tiêu chuẩn như BMP, SQF 1000... thì đầu năm 2012, trên địa bàn thành phố có trên 135 ha nuôi cá tra theo các tiêu chuẩn Global GAP, SQF, BMP,...
NÂNG CHẤT ĐẦU RA
Hiện nay, trong việc xây dựng vùng nuôi theo các tiêu chuẩn quốc tế, thì vấn đề mà DN quan tâm nhất là đội ngũ kỹ thuật để quản lý quá trình thực hiện các tiêu chuẩn và chi phí cho việc áp dụng các bộ tiêu chuẩn đó phải ở mức mà DN chấp nhận được. Theo một số DN thủy sản, ở thời điểm chỉ có một vài DN đầu tiên được chứng nhận Global GAP, giá bán sản phẩm có chứng nhận sẽ cao hơn sản phẩm không có chứng nhận. Dần dần, khi nhiều DN tham gia chứng nhận thì mức chênh lệch về giá giảm xuống và về sau DN chỉ còn lợi thế về chất lượng chứ không còn lợi thế về giá cả. Mặc dù giá đầu ra của sản phẩm cá tra được chứng nhận đạt tiêu chuẩn so với sản phẩm khác không chênh lệch nhiều, nhưng nếu trong quá trình cạnh tranh thì chắc chắn khách hàng sẽ chọn lựa những sản phẩm chất lượng.
Trong những năm qua, sự bùng nổ của các cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu làm tình trạng thiếu nguyên liệu cục bộ luôn diễn ra vào lúc cao điểm xuất khẩu. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh thu mua nguyên liệu giữa các DN đôi lúc thiếu lành mạnh làm xáo trộn thị trường và chất lượng đầu ra của sản phẩm cũng bị ảnh hưởng. Việc xây dựng vùng nguyên liệu và áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng trong nuôi trồng chế biến, sản xuất ra những sản phẩm có giá trị là hướng đi riêng của nhiều DN có tiềm lực hiện nay, nhằm tạo sự khác biệt, xây dựng lòng tin với khách hàng. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các DN thủy sản và yêu cầu của các thị trường xuất khẩu ngày càng khắt khe hơn, các DN sẽ xem xét bộ tiêu chuẩn nào phù hợp với thị trường xuất khẩu mà hướng đến để áp dụng vào vùng nuôi của mình.
Theo bà Lê Ngọc Diện, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ, những DN nào có bề dày hoạt động, có sẵn vùng nguyên liệu sẽ có lợi thế hơn với kinh nghiệm quản lý và đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản để áp dụng các tiêu chuẩn trong nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu. Về lâu dài, Tổng cục Thủy sản, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư quốc gia sẽ từng bước xây dựng và triển khai nhân rộng bộ tiêu chuẩn Viet GAP. Bên cạnh đó, đàm phán với các tổ chức quốc tế công nhận bộ tiêu chuẩn này để tạo điều kiện thuận lợi cho người nuôi và DN ổn định hoạt động sản xuất cá tra, từng bước xây dựng thương hiệu và khẳng định vị thế của sản phẩm cá tra xuất khẩu trên thị trường thế giới.
MINH HUYỀN
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.