Nguồn tin: Báo Công Thương, 15/02/2012
Ngày cập nhật:
16/2/2012
Thời gian qua, diện tích và sản lượng nuôi tôm thẻ chân trắng cũng như xuất khẩu liên tục tăng qua từng năm. Đặc biệt, trong năm 2011, khi diện tích tôm nuôi bị thiệt hại lên đến gần 97.000 ha (đa phần là tôm sú) thì tôm thẻ chân trắng càng được nhiều nông dân chọn nuôi.
Tuy nhiên, đây chỉ là những kết quả trước mắt, về lâu dài cần quan tâm phát triển tôm sú, chỉ những nơi có điều kiện mới thả nuôi tôm thẻ chân trắng.
Tôm thẻ chân trắng lấn tôm sú
Tại “Hội nghị tổng kết tình hình nuôi tôm nước lợ năm 2011 và triển khai kế hoạch năm 2012” vừa được tổ chức ngày 8/2/2012 tại Cà Mau, các đại biểu cho biết, thời gian qua, xu hướng nuôi tôm thẻ chân trắng đang tăng lên khá nhanh, thay thế những diện tích nuôi tôm sú lâu năm bị suy thoái môi trường, dịch bệnh nhiều, hay trong những tháng không thuận lợi cho tôm sú. Do đó, dù sản lượng nuôi tôm sú giảm nhưng tổng sản lượng tôm nuôi nước lợ vẫn tăng lên.
Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn), năm 2011, cả nước thả nuôi được 656.425 ha tôm nước lợ, với sản lượng đạt 495.657 tấn, tăng 2,71% về diện tích và 5,48% về sản lượng so với năm 2010. Trong đó, diện tích nuôi tôm sú là 623.377 ha, đạt sản lượng 319.206 tấn, bằng 95,81% năm 2010; tôm chân trắng là 33.049 ha, đạt sản lượng 176.451 tấn, bằng 129,06% năm 2011. Riêng khu vực ĐBSCL, tổng diện tích thả nuôi tôm là 602.416 ha (bao gồm 588.419 ha nuôi tôm sú và 18.498 ha nuôi tôm thẻ chân trắng), chiếm 91,8% diện tích nuôi tôm của cả nước.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam trong năm 2011 đạt 2.396 tỷ USD, tăng 13,7% so với năm 2010 và đã vượt qua mốc 2 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu tôm sú đạt trên 1,43 tỷ USD, chiếm gần 60% tổng giá trị, xuất khẩu tôm chân trắng đạt 704 triệu USD, chiếm 29,3% tỷ trọng, 12% còn lại là tôm các loại khác.
Về thị trường xuất khẩu, tôm Việt Nam đã thâm nhập sâu hơn và các thị trường khác ngoài 3 thị trường trọng điểm truyền thống là Mỹ, Nhật Bản và EU. Năm 2010, giá trị xuất khẩu tôm sang 3 thị trường này chiếm hơn 71% tổng sản lượng xuất khẩu tôm cả nước. Sang năm 2011 tỷ trọng này còn 66%. Trong khi đó, XK sang một số thị trường khác như Hàn Quốc, ASEAN… và đặc biệt là sang Nga tăng mạnh, XK tôm sang Nga tăng 124% so với năm 2010. XK tôm sang Hàn Quốc tăng 23%, sang ASEAN tăng 54,7%.
Năm 2011, tôm sú vẫn giữ vị trí chủ đạo trong cơ cấu xuất khẩu tôm Việt Nam. Tuy nhiên, tỷ trọng về khối lượng và giá trị đang giảm dần, đặc biệt là các mặt hàng tôm sú sống, tươi hoặc đông lạnh. Tôm chân trắng ngày càng thể hiện được lợi thế khi mà mặt hàng tôm sú không ổn định nguồn nguyên liệu do dịch bệnh và nhu cầu thế giới đang chuyển dần sang các sản phẩm tôm cỡ nhỏ, giá rẻ hơn. Năm 2011, tỷ trọng của tôm chân trắng trong tổng xuất khẩu tôm đã lên tới 29%, so với 26% của năm 2010.
Dịch bệnh đe dọa nghề nuôi tôm
Cũng trong năm 2011, dịch bệnh lây lan trên diện rộng tại các vùng nuôi tôm khu vực ĐBSCL khiến cho diện tích nuôi tôm bị thiệt hại lớn nhất từ trước tới nay. Theo Tổng cục Thủy sản, diện tích nuôi tôm bị thiệt hại năm 2011 ở khu vực này lên đến 97.691 ha, nghiêm trọng nhất là Sóc Trăng có hơn 25.000 ha tôm nuôi thâm canh, bán thâm canh bị mất trắng. Hiện tượng tôm chết xảy ra nghiêm trọng từ tháng 2 đến đầu tháng 6, tôm bị hoại tử gan tụy và chết sau thời gian thả giống từ 15 - 40 ngày. Sau đợt thiệt hại này, một số hộ dân đã chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng áp dụng công nghệ nuôi sử dụng vi sinh đã thành công. Tuy nhiên, việc nuôi tôm chân trắng là đối tượng mới, tập tính sinh sống khác với tôm sú nhưng áp dụng kỹ thuật chăm sóc giống như tôm sú nên hiệu quả chưa cao.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp lớn có cán bộ kỹ thuật quản lý thì mức độ thiệt hại ít hơn các hộ nông dân nuôi theo kinh nghiệm. Những cơ sở sử dụng vi sinh thường cho kết quả tốt hơn những cơ sở áp dụng kỹ thuật nuôi truyền thống. Hầu hết các hộ bị thiệt hại là do chưa nắm chắc kỹ thuật nuôi, chủ yếu học hỏi nhau và làm theo kinh nghiệm; không tuân thủ mùa vụ, việc cải tạo nền đáy ao không theo quy trình, nhiều ao nuôi lâu năm không nạo vét đáy nên tích tụ mùn bã hữu cơ, tồn lưu hóa chất độc hại, vi sinh vật tiềm ẩn mầm bệnh trong ao.
Đến nay, một trong các tác nhân khiến tôm chết hàng loạt được xác định là do hội chứng ngộ độc bắt nguồn từ thuốc bảo vệ thực vật. Phần lớn các hộ bị thiệt hại thường dùng các sản phẩm có thành phần nông dược là Cypermethrin, Deltamerthrin để diệt tạp trong vùng nuôi tôm và cải tạo ao nuôi, thậm chí một số hộ còn sử dụng trực tiếp các loại thuốc bảo vệ thực vật như Padan, Dexit, Visher… Các thuốc này có tác dụng diệt tạp tốt do rất độc, dễ mua lại có giá rẻ so với các sản phẩm chuyên ngành thủy sản nên người dân dùng sử dụng trong mấy năm nay và ngày càng phổ biến. Khi đó, chúng tồn lưu trong bùn đáy ao lâu dài, khi thời tiết biến động mạnh, các yếu tố môi trường bất lợi thì quạt nước vô tình đã làm sục các chất độc sa lắng gây nên ngộ độc làm tôm chết hàng loạt.
Bên cạnh đó, hệ thống thủy lợi vùng nuôi tôm không đảm bảo, thiếu nước sạch, các hộ tận dụng hết đất để làm ao nên không có ao lắng xử lý nước mà bơm trực tiếp nước bẩn từ mương đã mang theo đất phù sa và vi sinh vật gây hại cho ao tôm. Việc kiểm tra chất lượng giống trước khi thả nuôi, sự tuân thủ mùa vụ nuôi ở một số địa phương còn chưa triệt để. Việc kiểm dịch con giống còn nhiều hạn chế dẫn đến tôm giống kém chất lượng vẫn được đưa vào ao nuôi. Công tác giám sát, phát hiện bệnh, phòng trị bệnh còn chậm, chưa sát sao, xử lý các ao đầm bị bệnh chưa quyết liệt, nhập cuộc của một số cơ quan quản lý, nghiên cứu trong xác định nguyên nhân và tìm giải pháp khắc phục còn chậm.
Quy trình kỹ thuật nuôi chưa hợp lý, chưa cải tiến theo thực tế sản xuất, hầu hết vùng nuôi không có ao lắng xử lý nước cấp và không có hệ thống xử lý nước thải. Việc quản lý điều tiết môi trường nước trong quá trình nuôi không kịp thời. Trong thời gian nuôi chính vụ, thời tiết khô hạn, độ mặn tăng lên theo đó các yếu tố môi trường cũng có sự biến đổi tương ứng sẽ làm tôm sốc, bị ngộ độc với môi trường. Đặc biệt, do chạy theo lợi nhuận nên người dân còn chưa tuân thủ lịch thời vụ thường thả giống sớm, mùa vụ thả liên tục, không có thời gian ngắt vụ, việc cải tạo ao đầm không đảm bảo kỹ thuật, bệnh tiềm ẩn khi có điều kiện sẽ bùng phát. Khi tôm nuôi bị bệnh không báo cho cơ quan quản lý thú y thủy sản, thậm chí còn xả nước ao bị nhiễm bệnh ra môi trường xung quanh khu vực nuôi. Đây cũng là những nguyên nhân chính khiến cho dịch bệnh lan rộng nhanh chóng trong vùng nuôi tôm.
Cần quan tâm phát triển tôm sú
Vụ tôm năm 2012 các tỉnh ĐBSCL đề nghị tăng cường quản lý các mắt xích trong chuỗi từ khâu sản xuất con giống, hóa chất, thức ăn, quy trình nuôi, thu hoạch, đến chế biến xuất khẩu. Đặc biệt, người nuôi tôm cần chủ động đối phó với dịch bệnh và ô nhiễm môi trường, hạn chế tình trạng dịch bệnh lây lan trên diện rộng.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn Cao Đức Phát chỉ đạo cần quan tâm phát triển tôm sú, chỉ những nơi có điều kiện mới thả nuôi tôm thẻ chân trắng. Đồng thời, yêu cầu các cơ quan chức năng, các địa phương tập trung quản lý về giống và sử dụng hóa chất xử lý môi trường, hướng dẫn cho người nuôi thực hiện theo đúng quy trình cũng như cập nhật quy trình nuôi mới; quản lý chặt chẽ các cơ sở sản xuất thức ăn thủy sản, nếu phát hiện vi phạm thì xử lý tận gốc; tiến hành rà soát quy hoạch và đầu tư cơ sở hạn tầng vùng nuôi tôm; rà soát lại toàn bộ hệ thống trong chuỗi sản xuất, xem khâu nào yếu tập trung vào giải quyết.
Thành Công
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.